Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 171 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN




ĐÀO THỊ LÝ





THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG
THỜI KỲ TRƢỚC NĂM 1945




LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM








THÁI NGUYÊN - 2015



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN




ĐÀO THỊ LÝ




THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG
THỜI KỲ TRƢỚC NĂM 1945

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21



LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM



Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Trần Đăng Xuyền
2. PGS.TS. Trần Thị Việt Trung






THÁI NGUYÊN - 2015

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án


Đào Thị Lý


ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các cán bộ Khoa Ngữ văn,
Phòng Quản lý và Đào tạo Sau đại học, Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn GS.TS. Trần Đăng Xuyền, PGS. TS
Trần Thị Việt Trung - những người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ rất
nhiều để tôi có thể hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên, khuyến khích, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.

Tác giả luận án



Đào Thị Lý


iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu 3
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 4
6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài 4
7. Kết cấu của đề tài 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6
1.1. Tình hình nghiên cứu chung về Nguyên Hồng 6
1.2. Tình hình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng 15
1.2.1. Về đề tài sáng tác 15
1.2.2. Về chủ đề sáng tác 16
1.2.3. Về nhân vật 17
1.2.4. Về không gian và thời gian 20
1.2.5. Về ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật 23
Chƣơng 2. KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CƠ SỞ HÌNH
THÀNH NÊN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG 31
2.1. Giới thuyết chung về Thế giới nghệ thuật 31
2.2. Những cơ sở hình thành Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng 37
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội 37

2.2.2. Hoàn cảnh gia đình, môi trƣờng sống và hoạt động văn học của Nguyên Hồng 42
2.2.3. Cá tính Nguyên Hồng 49

iv
Chƣơng 3. THẾ GIỚI NHÂN VẬT 53
3.1. Một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp thuộc tầng lớp thị dân và lao
động dƣới đáy xã hội 53
3.1.1. Những ngƣời phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh, cùng đƣờng, nổi loạn 55
3.1.2. Những đứa trẻ nghèo dƣới đáy xã hội, “không có tuổi thơ” 65
3.1.3. Những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo, giàu hoài bão nhƣng bất lực và
bế tắc trƣớc cuộc sống 71
3.1.4. Những nhân vật con ngƣời tha hoá 77
3.2. Một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng nhân vật 83
3.2.1. Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh và tình huống 83
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa tâm trạng và tính cách nhân vật 91
3.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua độc thoại nội tâm 95
Chƣơng 4. THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT 100
4.1. Thời gian nghệ thuật 100
4.1.1. Thời gian gắn liền với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời
nhân vật 100
4.1.2. Thời gian của con ngƣời cá nhân, của sự hồi tƣởng đan xen giữa quá
khứ, hiện tại và tƣơng lai 106
4.2. Không gian nghệ thuật 109
4.2.1. Không gian xã hội đen tối, nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi 109
4.2.2. Không gian gia đình chứa đầy bi kịch buồn đau, tan tác 113
4.2.3. Không gian mang sắc thái tôn giáo - trầm, buồn ảm đạm 115
4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật 124
4.3.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, phù hợp với tâm lý, tính
cách của từng kiểu nhân vật 125
4.3.2. Ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo 142

KẾT LUẬN 146
DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyên Hồng (1918-1982) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của
trào lƣu văn học hiện thực nói riêng, của nền văn học Việt Nam hiện đại nói
chung. Ông là ngƣời đến với nghề văn khá sớm và đã thành công ngay từ tác
phẩm đầu tay: Bỉ vỏ (1937). Nguyên Hồng có sức viết phi thƣờng, viết với tất cả
sự đam mê và nhiệt huyết của mình. Hơn bốn mƣơi năm cầm bút, ông đã để lại
gần bốn mƣơi tác phẩm, trong đó có những sáng tác đặc sắc và có những tác
phẩm đƣợc đánh giá là một trong những tác phẩm bề thế nhất của tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại.
1.2. Nhƣ đã biết, “Thế giới nghệ thuật” là chỉnh thể của hình thức văn học”,
[140, tr. 29, 30], “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng
tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một
trào lưu) Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy
luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị
riêng” [52, tr. 251] Trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, ở mọi phƣơng
diện nghệ thuật nhƣ: đề tài, chủ đề, nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ
thuật, đều đƣợc thống nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật, giúp ngƣời đọc dễ
hình dung ra những nét riêng biệt những đóng góp cụ thể trong quá trình sáng tạo
không ngừng của nhà văn.
Với một số lƣợng tác phẩm khá lớn ở nhiều thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn,
bút ký, thơ ) qua hai giai đoạn sáng tác, trƣớc và sau năm 1945, Nguyên Hồng đã
phản ánh một cách chân thực, cảm động cuộc sống với những số phận cụ thể của

những ngƣời lao động nghèo khổ và quá trình đổi đời nhờ Đảng, nhờ Cách mạng
của họ. Khi viết về vấn đề này, Nguyên Hồng đã thể hiện đƣợc cái nhìn hiện thực
sâu sắc và tấm lòng nhân đạo thiết tha của nhà văn đối với những con ngƣời lao
động. Vì vậy, khi đặt vấn đề nghiên cứu: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng
thời kỳ trƣớc năm 1945 cũng có nghĩa là đã đi vào nghiên cứu về những đặc
điểm nổi bật trong nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm, khẳng định giá trị
hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả trong sáng tác của nhà văn hiện thực
xuất sắc này trong một giai đoạn sáng tác cụ thể của ông.


2
1.3. Theo khảo sát của chúng tôi, cho tới nay đã có khoảng hơn 50 công trình
viết về Nguyên Hồng và riêng việc nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của ông đã
có trên 20 bài (đề cập đến nhiều khía cạnh, ví dụ nhƣ: Chủ đề, đề tài sáng tác, cảm
hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, cảm quan tôn giáo, lời văn nghệ thuật, trong
sáng tác của nhà văn). Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã chú ý
đề cập đến giai đoạn sáng tác trƣớc Cách mạng tháng 8/1945 của Nguyên Hồng,
trong đó đã có sự khảo sát, đề cập đến một số phƣơng diện trong Thế giới nghệ
thuật của ông nhƣ: đề tài, chủ đề nhân vật, không gian và thời gian, lời văn nghệ
thuật nhƣng chúng tôi nhận thấy rằng, phần lớn đây là những nhận xét, nhận định
mang tính khái quát; hoặc đó có thể là những khảo sát, phân tích khá cụ thể ở một
số phƣơng diện trong Thế giới nghệ thuật chứ chƣa phải toàn bộ Thế giới nghệ
thuật của Nguyên Hồng. Do đó, vẫn rất cần phải có một công trình chuyên biệt
nghiên cứu một cách khá hệ thống và toàn diện về Thế giới nghệ thuật của nhà
văn Nguyên Hồng. Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn góp phần
nhìn nhận một cách tƣơng đối toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ thuật của
Nguyên Hồng trong một giai đoạn sáng tác cụ thể - giai đoạn trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945, để chỉ ra những đặc điểm riêng, những sáng tạo riêng trong
Thế giới nghệ thuật của nhà văn; đồng thời qua đó khẳng định những đóng góp
đáng trân trọng của ông đối với sự vận động và phát triển của trào lƣu văn học hiện

thực phê phán nói riêng, của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung một cách
cụ thể và đầy đủ hơn.
1.4. Hiện nay, một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng đã đƣợc đƣa vào
trong chƣơng trình giáo dục ở bậc phổ thông và đại học. Nếu đề tài này đƣợc thực
hiện thành công, đây sẽ là cuốn tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với học sinh, sinh
viên, giáo viên các cấp và những ai quan tâm đến nhà văn hiện thực xuất sắc suốt
đời nặng lòng với những ngƣời nghèo khổ này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của nhà văn
Nguyên Hồng, luận án góp phần khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình,
Nguyên Hồng đã tạo ra một Thế giới nghệ thuật riêng độc đáo và đặc sắc; và qua
đó ghi nhận những đóng góp quan trọng của ông đối với quá trình phát triển của


3
văn học hiện thực phê phán Việt Nam nói riêng và văn xuôi Việt Nam hiện đại giai
đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945 nói chung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu những phƣơng diện quan trọng của
Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945, nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong Thế giới nghệ
thuật của nhà văn (nghệ thuật xây dựng nhân vật; không gian, thời gian nghệ thuật
và ngôn ngữ nghệ thuật). Qua đó khẳng định những giá trị nghệ thuật và giá trị
hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo cao cả trong những sáng tác của Nguyên Hồng -
“nhà văn của những ngƣời khốn khổ” Việt Nam giai đoạn trƣớc năm 1945.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận án là những sáng tác của Nguyên Hồng
giai đoạn trƣớc 1945. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, những sáng tác sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 của ông cũng đƣợc chúng tôi quan tâm khảo sát,
nhằm so sánh làm rõ hơn những đặc điểm riêng trong Thế giới nghệ thuật của
Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc năm 1945, cũng nhƣ một số đặc điểm chung trong quá

trình sáng tác của nhà văn sau cách mạng.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của
các tác giả cùng khuynh hƣớng, cùng thời với ông để so sánh, đối chiếu nhằm chỉ
ra những nét riêng, nét độc đáo trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Nhƣ đã biết, Thế giới nghệ thuật bao gồm nhiều phƣơng diện nhƣ: đề tài, chủ
đề, nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật và
ngôn ngữ nghệ thuật Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án của mình, chúng tôi
xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể là đi sâu vào nghiên cứu một số phƣơng diện
cơ bản của Thế giới nghệ thuật nhƣ: thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân
vật, thời gian, không gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong các sáng tác
của nhà văn Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 - vì
đây là giai đoạn sáng tác nhiều, tiêu biểu và thành công nhất của Nguyên Hồng.
Còn một số phƣơng diện khác nhƣ: đề tài, chủ đề, lời văn nghệ thuật, giọng điệu
nghệ thuật cũng đã đƣợc một số tác giả đề cập đến khá rõ trong các chuyên luận
và bài báo của mình, nên chúng tôi không chủ trƣơng đi sâu vào nghiên cứu.


4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích tác phẩm để tìm hiểu kỹ
những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai
đoạn trƣớc Cách mạng. Đó là cơ sở để có những nhận xét, đánh giá tổng hợp nhất
về Thế giới nghệ thuật của nhà văn.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng trong
quá trình khảo sát các tác phẩm cụ thể của nhà văn, thống kê và phân loại từng
kiểu nhân vật, ngôn ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật trong Thế giới nghệ
thuật của Nguyên Hồng.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: để có sự đối sánh và có cái nhìn sâu hơn
về đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi nghiên cứu và so sánh sáng tác của Nguyên
Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945; so sánh với một số tác phẩm,
một số nhân vật trong tác phẩm của các tác giả cùng thời, cùng hoặc khác khuynh
hƣớng sáng tác của Nguyên Hồng, nhằm chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo trong
Thế giới nghệ thuật của nhà văn.
- Vận dụng lý thuyết thi pháp học (về thời gian, không gian nghệ thuật,
ngôn ngữ nghệ thuật ) để phục vụ trong quá trình nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài
6.1. Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu một cách khá toàn
diện và hệ thống về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng thời
kỳ trước 1945. Luận án đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu các sáng tác của
Nguyên Hồng nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong Thế giới nghệ thuật
của nhà văn, nhất là trong việc dựng lên một thế giới nhân vật phong phú, phức
tạp, độc đáo và sinh động của những con ngƣời lao động sống dƣới đáy xã hội
thực dân phong kiến; Chỉ ra những đặc điểm về không gian và thời gian nghệ
thuật, cũng nhƣ những nét đặc sắc riêng về ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác
của nhà văn. Qua đó khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình, Nguyên
Hồng đã xây dựng đƣợc một Thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo không lẫn với


5
bất cứ nhà văn nào. Và qua Thế giới nghệ thuật này, nhà văn đã thể hiện đƣợc
một cách sâu sắc và cảm động chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo cao
cả của mình.
6.2. Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở để khẳng định những đóng góp quan trọng
của Nguyên Hồng vào quá trình phát triển trào lƣu văn học hiện thực phê phán giai
đoạn 1930 - 1945 nói riêng và đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung.
6.3. Nếu luận án này thành công, hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
ích cho học sinh, sinh viên và những ngƣời quan tâm đến tác giả Nguyên Hồng nói

riêng và văn xuôi Việt Nam thời kỳ hiện đại giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám
nói chung.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án
bao gồm bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chƣơng 2. Khái niệm Thế giới nghệ thuật và những cơ sở hình thành nên Thế
giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.
Chƣơng 3. Thế giới nhân vật.
Chƣơng 4. Thời gian, không gian và ngôn ngữ nghệ thuật.


6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu chung về Nguyên Hồng
Gần 3/4 thế kỷ trôi qua - kể từ khi cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng
ra đời và đƣợc nhận Giải thƣởng của Tự lực văn đoàn (1937) - đã có rất nhiều bài
viết, những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp, những đóng góp của
nhà văn. Cho đến nay, việc nghiên cứu về Nguyên Hồng cũng vẫn đang đƣợc tiếp
tục và đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng trân trọng. Điều đó chứng tỏ sức sống của
tác phẩm Nguyên Hồng rất bền vững trong lòng ngƣời đọc nhiều thế hệ, và theo
thời gian những giá trị đặc biệt của nó ngày càng đƣợc phát hiện, đƣợc khẳng định
một cách trân trọng.
Theo khảo sát của chúng tôi, đến nay đã có khoảng hơn 50 công trình
nghiên cứu chung về Nguyên Hồng, trong đó có khoảng 20 bài nghiên cứu có đề
cập đến phƣơng diện Thế giới nghệ thuật. Bên cạnh đó có hàng chục luận án, luận
văn khoa học nghiên cứu về sáng tác của ông. Đặc biệt khi ông qua đời, đã có hơn
20 bài viết về những Hồi ức và kỷ niệm về nhà văn, thể hiện tình cảm trân trọng tài
năng và nhân cách của Nguyên Hồng trong lòng bạn bè, đồng nghiệp và bạn đọc.

Ngay từ trƣớc năm 1945, có một số nhà nghiên cứu đã phát hiện tài năng
văn học của nhà văn, đã đánh giá đƣợc những mặt mạnh, mặt hạn chế của ngòi bút
Nguyên Hồng. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có một số bài viết nhận xét, đánh
giá về văn chƣơng của Nguyên Hồng của các tác giả: Thạch Lam, Trọng Quy,
Trƣơng Chính, Vũ Ngọc Phan… Cụ thể, khi tiểu thuyết Bỉ vỏ đƣợc nhận Giải
thƣởng của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã nhận xét về văn của Nguyên Hồng
nhƣ sau: ''Văn lúc nào cũng minh bạch, giản dị, một đôi khi thấm thía, rung động,
có nhiều đoạn đẹp đẽ và sâu sắc… ông quan sát khéo, chỉ tả những cái gì đáng để
ý, những tình cảm chân thật, những cảm giác đúng” [116, tr. 39]. Đồng thời tác giả
cũng chỉ ra nhƣợc điểm khó tránh khỏi của một ngƣời mới vào nghề viết văn, đó
là:“Nhiều chỗ vụng về, cẩu thả, nhiều câu văn chưa gãy gọn. Nhưng đó là những
lỗi của một người mới viết văn và sẽ mất đi với kinh nghiệm và từng trải trong
nghề ” [116; tr. 39]. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nhận xét của một Giải thƣởng,
Thạch Lam mới chỉ dừng lại ở một vài dòng nhƣ vậy về tác giả trẻ tuổi này.


7
Cũng năm 1938, khi giới thiệu Bỉ vỏ, tác giả Trọng Quy đã nhận xét: “Tác
phẩm không hổ thẹn với sự được Ban giám khảo chú ý đến”, vì đây là “một thiên
phóng sự tả rõ cách sinh hoạt của một hạng người” của “một cán bút linh hoạt mới
mẻ”, “biết làm cho người khác phải cảm động” [127, tr. 8]). Trọng Quy đã khẳng
định vị trí xứng đáng của Bỉ vỏ khi đƣợc nhận Giải thƣởng Tự lực văn đoàn chính là
ở sự mới mẻ của cây bút Nguyên Hồng cũng nhƣ tính nhân đạo của tác phẩm.
Tuy nhiên, không chỉ có những ý kiến ghi nhận sự thành công của Bỉ vỏ, mà
còn có những đánh giá về hạn chế của tác phẩm này. Năm 1939, Trƣơng Chính đã
nhận xét về Bỉ vỏ khi ông nhìn nhận từ góc độ Dưới mắt tôi nhƣ sau: “Quyển Bỉ
vỏ là một quyển tiểu thuyết tầm thường, không đặc sắc. Tác giả còn thiếu nghệ
thuật, thiếu kinh nghiệm, ngòi bút của ông còn non nớt, vụng về” ; các tình tiết
“được sắp đặt một cách thô sơ… Nhà văn ấy kiên tâm và thành thực, nhưng ông
chỉ thành công lúc ông giản dị và sâu sắc hơn” [17, tr. 173], đây là một nhận xét

nghiêm khắc và khách quan về nghệ thuật của một cuốn tiểu thuyết đầu tay của
Nguyên Hồng.
Năm 1940, khi viết Lời tựa cho tập tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ
ấu, Thạch Lam đã nhận thấy khả năng thể hiện “những rung động cực điểm của
một linh hồn trẻ dại” của ngòi bút Nguyên Hồng… Tác giả của Gió lạnh đầu mùa
đã rất tinh tế khi nhận thấy những cảm xúc chân thành của một trái tim dễ xúc
động qua từng trang hồi ký đẫm nƣớc mắt của nhà văn hiện thực trẻ tuổi này.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại, năm 1942, Vũ Ngọc Phan đã công phu giới
thiệu gƣơng mặt 78 nhà văn Việt Nam, trong đó có nhà văn Nguyên Hồng. Về
Nguyên Hồng, tác giả đã khẳng định sự thành công của nhà văn qua những sáng
tác đầu tay, nhất là cuốn Bỉ vỏ của ông. Vũ Ngọc Phan nhận xét: “truyện thật là
hay… cách viết có mạch lạc mà đi đến đoạn kết một cách tự nhiên”, đồng thời ông
cũng đƣa ra một nhận định khái quát khá chính xác về tƣ tƣởng nghệ thuật của
“nhà văn xã hội này”: “Ở tập văn nào của Nguyên Hồng cũng vậy, tư tưởng nhân
từ, bác ái của tác giả bao giờ cũng tràn lan và đó chính là cái phần cốt yếu của
nhà văn xã hội cầu mong ánh sáng” [116, tr. 48]. Nhƣ vậy, nhà phê bình Vũ Ngọc
Phan đã chỉ ra đƣợc cái cốt lõi, cái đặc trƣng và giá trị trong sáng tác của Nguyên
Hồng, đó là: Tƣ tƣởng nhân đạo và khát vọng có một xã hội công bằng tốt đẹp hơn,
nhất là đối với những ngƣời nghèo khổ.


8
Năm 1944, trong cuốn “Văn chương và xã hội” (Đại học Thƣ xã Hà Nội),
khi nghiên cứu một số tác phẩm của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc cách mạng nhƣ
“Bỉ vỏ”, “Bảy Hựu”, “Những ngày thơ ấu”, tác giả Lƣơng Đức Thiệp nhận xét:
đây là “cây bút linh động cho ta cảm thấy sâu xa lòng yêu thiết tha của chính tác
giả đối với các nhân vật trong truyện” [159, tr. 98]. Nhận xét này khẳng định thêm
tính nhân đạo của nhà văn Nguyên Hồng.
Qua một số ý kiến, nhận xét trên, chúng ta nhận thấy khá rõ một điểm: ngay
đƣơng thời, ngƣời ta cũng đã chỉ ra những mặt mạnh, những thành công của nhà

văn Nguyên Hồng. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là tƣ tƣởng nhân từ bác ái, cũng nhƣ
đã chỉ ra những mặt hạn chế của Nguyên Hồng khi buổi đầu đến nghề văn còn đầy
non nớt này.
Đồng thời cũng qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy: Trong vòng 10 năm
(1936 - 1945), Nguyên Hồng đã có khá nhiều sáng tác (54 truyện ngắn, 03 truyện
vừa, 01 hồi ký, 03 tiểu thuyết) với mảng nội dung hiện thực đặc sắc nhƣng thực sự
những sáng tác này của Nguyên Hồng cũng chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của
giới nghiên cứu, phê bình nhƣ những trƣờng hợp nhà văn hiện thực khác. Hầu hết
các ý kiến nhận định, phê bình chỉ tập trung vào hai tác phẩm nổi tiếng của
Nguyên Hồng là: Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu, còn những sáng tác khác của ông
đều chƣa hoặc rất ít đề cập đến. Các tác giả (do những lý do chủ quan và khách
quan nào đó) cũng chƣa thấy hết đƣợc giá trị nhiều mặt của các sáng tác ấy, cũng
nhƣ chƣa phát hiện và đánh giá đúng mức đƣợc tài năng và cống hiến của Nguyên
Hồng, mặc dù bƣớc đầu cũng đã ít nhiều động chạm vào những vấn đề đó khi nhận
xét đánh giá về ông.
Từ sau năm 1945 cho tới tận hiện nay, Nguyên Hồng và tác phẩm của ông
tiếp tục đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, chú ý nhìn nhận, đánh giá và khẳng định
những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Những tác phẩm của nhà văn vẫn
tiếp tục trở thành đối tƣợng nghiên cứu hấp dẫn trong đời sống nghiên cứu, phê
bình văn học của nƣớc nhà. Trong khi đó, một số những nhà văn hiện thực khác
nhƣ Vũ Trọng Phụng, Nam Cao vẫn chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của giới
nghiên cứu, phê bình, mà phải đợi đến thời kỳ đổi mới, các tác phẩm của họ mới
đƣợc chú ý nghiên cứu và đƣợc đánh giá sâu sắc, công bằng và toàn diện hơn.
Có thể nhắc đến những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê
bình tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vũ Ngọc


9
Phan, Chu Nga, Trần Đăng Suyền, cùng các mục từ giới thiệu về Nguyên Hồng,
tiểu thuyết Bỉ vỏ, Hồi ký Những ngày thơ ấu trong cuốn Từ điển Văn học của tác

giả Nguyễn Hoành Khung; Những đề tài nghiên cứu về sáng tác của nhà văn
Nguyên Hồng của các tác giả: Lê Hồng My, Bạch Văn Hợp, Phạm Hồng Lan,
Nguyễn Duy Tờ, Lê Thị Hải Vân Qua các công trình nghiên cứu này, chúng tôi
thấy các vấn đề về tƣ tƣởng nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, lời văn nghệ thuật,
cảm hứng sáng tạo,… trong sáng tác của Nguyên Hồng đã đƣợc đề cập đến ở
những mức độ khác nhau. Các ý kiến, nhận xét đều sâu sắc và tinh tế nhƣng phần
lớn là những nhận xét, nhận định có tính chất khái quát, hoặc nghiên cứu sâu một
phƣơng diện nào đó thuộc về nội dung hoặc nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên
Hồng, cụ thể là một số ý kiến tiêu biểu nhƣ sau:
- Đánh giá sự đóng góp của Nguyên Hồng đối với sự vận động và phát triển
khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám
năm 1945 nói riêng và đối với nền Văn học hiện đại Việt Nam nói chung trên
những phƣơng diện cụ thể. Tiêu biểu cho xu hƣớng đánh giá này là các công trình
nghiên cứu: “Nguyên Hồng” [Phan Cự Đệ -116], “Nguyên Hồng, con người và sự
nghiệp” [Nguyễn Đăng Mạnh -116], “Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của
anh” [Chu Nga -116]
- Khẳng định chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyên Hồng khi viết về
các nhân vật dƣới đáy xã hội thực dân phong kiến, đặc biệt là nhân vật ngƣời phụ
nữ và trẻ em. Xu hƣớng này đƣợc thể hiện trong các công trình nghiên cứu:
“Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp” [Nguyễn Đăng Mạnh -116], “Một cuộc
đời sáng tạo trong đau khổ” [Vƣơng Trí Nhàn - 111], “Cảm hứng cần lao trong
sáng tác của Nguyên Hồng” [Phan Diễm Phƣơng -116]
- Chỉ ra đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là “nhà văn của
niềm tin và ánh sáng”, “nhà văn của lòng thương cảm thống thiết”, “một ngòi bút
hiện thực giàu chất lãng mạn”… “Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng
sống” [Hà Minh Đức - 116], “Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng” [77],
“Nhà văn của tình thương” [1]
- Khẳng định mặt mạnh của Nguyên Hồng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật,
cũng nhƣ trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ, giọng điệu nhƣ bài viết: “Đặc sắc hồi ký
Nguyên Hồng” [Nguyễn Đăng Điệp -116], “Giọt lệ lớn và đoàn tàu chợ” [Linh Thi -

116]; hay chuyên luận: “Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng” [Lê Hồng My - 101]


10
Khi cắt nghĩa cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng, Phan Cự Đệ cho rằng
cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn “Bắt nguồn từ một chủ nghĩa nhân
đạo sâu sắc với những lớp người cùng khổ. Anh là một cây bút đôn hậu, luôn
hướng tới cái cao đẹp, trong sáng, niềm tin yêu thắm thiết” [116, tr. 112]. Khái
quát về “Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh” tác giả Chu Nga đã giới
thiệu và khái quát: “Nguyên Hồng sau cách mạng chỉ là sự kế tiếp một cách logic
Nguyên Hồng những năm trước cách mạng” [116, tr. 157] - Đây là một nhận xét
rất chính xác về sự nhất quán trong quan niệm sáng tác của Nguyên Hồng cả ở hai
giai đoạn trƣớc và sau năm 1945. Đồng thời Chu Nga cũng nhấn mạnh đến sự
đóng góp riêng biệt của Nguyên Hồng vào dòng văn học hiện thực phê phán:
“Trước tiên cần khẳng định ở anh những đóng góp đáng kể với tư cách là một nhà
văn hiện thực phê phán tiến bộ nhất, tiếp cận gần nhất với cách mạng. Anh không
chỉ hiểu cách mạng mà còn viết về cách mạng, cũng không phải chỉ viết một cách
cảm tính, mà ít nhiều có quan điểm, có lý luận” [116, tr. 157], và đó còn là “tiếng
nói yêu thương nhân đạo (…) sôi nổi, lạc quan, tràn đầy một lòng tin ở ngày mai
tươi sáng vì nhìn thấy được những phẩm chất đẹp đẽ ở những con người nghèo
khổ hôm nay”[116, tr. 158]… Nhƣ vậy, tác giả đã đề cập đến cảm hứng chủ đạo
trong sáng tác của Nguyên Hồng, đó là tình cảm yêu thƣơng, trân trọng con ngƣời
lao động.
Cùng quan điểm nhƣ trên, Phan Diễm Phƣơng, Vƣơng Trí Nhàn, Đỗ
Trung Thoại đều cho rằng cảm hứng sáng tác của Nguyên Hồng là cảm hứng về
cuộc sống lầm than, đói khổ của ngƣời lao động trong xã hội cũ. “Cảm hứng cần
lao… đã được phô diễn một cách ám ảnh, đầy sức lay động đối với những con
người đồng cảm” [116, tr. 225]… “Cảm hứng cần lao và tranh đấu của Nguyên
Hồng cũng chính là cảm hứng nhân đạo nơi ông” [116, tr. 227]… “Giá trị phổ
biến của hàng ngàn, hàng ngàn trang sách được bắt nguồn vào những cảnh sống

của con người, hướng về con người ” [116, tr. 229]. Vƣơng Trí Nhàn khẳng định
cuộc đời Nguyên Hồng là “Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ”, “Văn xuôi
Nguyên Hồng là một thứ sản phẩm giàu chất tự truyện”, đồng thời tác giả cũng
đánh giá Những ngày thơ ấu là tác phẩm đỉnh cao của Nguyên Hồng: “Khách
quan và tỉnh táo mà đánh giá, phải nhận toàn bộ cuộc đời và sáng tác của Nguyên
Hồng về sau không có cái nào vượt được Những ngày thơ ấu” [116, tr. 219]. Và
“Trước đau khổ, Nguyên Hồng thấy nên cam chịu, và tìm thấy lẽ sống, cảm hứng


11
sáng tạo của mình trong chính sự đau khổ” [116, tr. 220]. Đỗ Trung Thoại thấy ở
Nguyên Hồng là“một nhà văn lớn, một nhân cách lớn… chủ nghĩa nhân đạo là tư
tưởng chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm của ông… Nguyên Hồng là nhà văn của
nhân dân lao động và ông thuộc về những người lao động” [119].
Trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, tác giả Lê Hồng My,
Trần Đăng Suyền đã chỉ rõ quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng là “Đề cao
vai trò của văn chương nghệ thuật, khẳng định ý nghĩa cao quý của nghề cầm bút”
[134, tr. 134] “Nhà văn, (người nghệ sĩ) phải trung thực, chân thành trên trang
viết: say mê, tin tưởng vào cuộc sống; phải cần cù học hỏi và không ngừng sáng
tạo” ”[134, tr. 135] “Nghệ thuật phải “bắt rễ” vào cuộc sống của người lao
động và hướng tới tương lai tốt đẹp. Bạn đọc quần chúng là “lẽ sống của ngòi bút”
[134, tr. 137]. Đây chính là quan điểm nghệ thuật nhất quán của Nguyên Hồng
trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Đánh giá Nguyên Hồng ở một góc nhìn khác, GS.TS. Trần Đăng Suyền đã
phân tích một cách sâu sắc Sự gặp gỡ, giao thoa của những khuynh hướng, trào
lưu văn học trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng. Tác giả đã phân
tích và khẳng định: “Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã xuất hiện nhiều
khuynh hướng, nhiều trào lưu văn ọhc: Chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực
và khuynh hướng văn học cách mạng; chúng vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung
cho nhau để cùng phát triển. Sáng tác của Nguyên Hồng thể hiện quy luật vận

động và phát triển, sự gặp gỡ và giao thoa của nhiều khuynh hướng, trào lưu văn
học… Có được điều đó là do ngòi bút Nguyên Hồng gắn bó sâu sắc với thời đại,
với cuộc đời rộng lớn, với những người cùng khổ. Có được điều đó còn do những
sáng tác hiện thực chủ nghĩa của ông được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa
nhân đạo, đi sâu vào bản chất của sự sáng tạo nghệ thuật, thể hiện quy luật vận
động và phát triển tất yếu của tiến trình lịch sử văn học dân tộc” [137, tr. 55-59].
Nhƣ vậy, về cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng, các
nhà nghiên cứu, phê bình đều nhất trí rằng cảm hứng sáng tác của Nguyên Hồng là
cảm hứng cần lao, bắt nguồn từ cuộc sống tăm tối, cực khổ của những ngƣời dƣới
đáy xã hội thực dân phong kiến trƣớc Cách mạng. Cảm hứng sáng tác ấy đƣợc thể
hiện qua một tấm lòng nhân đạo thiết tha, trĩu nặng với những cảnh đời đen tối
trong xã hội đƣơng thời.


12
Khi nói đến Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng, nhiều tác giả đều
cho rằng Nguyên Hồng có phong cách nghệ thuật riêng. Nguyễn Đăng Mạnh là
một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu về Nguyên Hồng, trong các công
trình nghiên cứu của mình, tác giả cũng đặc biệt chú ý đến tƣ tƣởng và phong cách
nghệ thuật của nhà văn. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, trong cuốn Giáo
trình Lịch sử Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, Nguyễn Đăng Mạnh đã
khẳng định: "Nguyên Hồng là nhà văn có phong cách rõ rệt quy định bởi những
đặc điểm về hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, về tư tưởng, tình cảm, về sự tiếp
thu ảnh hưởng xã hội và văn học" [100, tr. 20]; Đồng thời tác giả cũng chỉ ra một
vài nét tiêu biểu của phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng
tháng Tám là "tình cảm say sưa bồng bột", và "tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết
tha", " một nội dung trữ tình sôi nổi, một cảm hứng lãng mạn mãnh liệt ”. Ở
một công trình nghiên cứu khác, ông cũng đã bàn về phong cách lãng mạn của
Nguyên Hồng: “Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng có một cái gì rất gần gũi
với thần thoại, cổ tích, truyện Tàu, lại giông giống như thế giới đầy dông bão của

những trường ca, những thiên truyện ngắn lãng mạn chủ nghĩa của Mácxim
Goorki hay tiểu thuyết của Víchto Huygô, trong đó có sự đối lập giữa ánh sáng và
bóng tối, giữa bão táp và nắng vàng, giữa quỷ dữ và thiên thần…” [116, tr. 100]
và “Nguyên Hồng có thiên hướng xây dựng những tích cách phi thường, những
hình tượng kỳ dị, những tâm trạng được phóng đại, những tình huống dữ dội,
những quang cảnh rộng lớn, náo động đầy dông bão (…) phù hợp với một giọng
văn thống thiết của một tâm hồn nồng nhiệt muốn giãi bày trực tiếp trên những
trang sách ” [116, tr. 100,101]
Phan Cự Đệ là một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết
nghiên cứu về Nguyên Hồng, ông đã tiếp cận sáng tác của nhà văn từ nhiều góc độ
khác nhau nhƣ: cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, màu sắc trữ tình Về
phong cách nghệ thuật, tác giả khẳng định: "Cùng đứng trong chủ nghĩa hiện thực
phê phán nhưng Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ
Trọng Phụng mỗi người có một phong cách riêng. Phong cách nghệ thuật của
Nguyên Hồng cũng mang những màu sắc thẩm mỹ độc đáo” [116, tr. 112]. Nhà
nghiên cứu cũng chỉ ra yếu tố trữ tình lãng mạn nhƣ một đặc điểm phong cách
nghệ thuật của Nguyên Hồng: "Không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng
một bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nặng
nề về trí tuệ. Ở anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên


13
trong đôi lúc cứ muốn lấn lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả"
[116, tr. 121]. Khi giới thiệu quá trình sáng tác từ Bỉ vỏ đến Cửa biển, Phan Cự Đệ
cũng đã lý giải sự chuyển biến về tƣ tƣởng và nghệ thuật của Nguyên Hồng từ sau
Cách mạng tháng Tám gắn liền với quá trình nhận thức về cách mạng, đi theo cách
mạng của nhà văn. Tác giả khẳng định sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật
của Nguyên Hồng, "Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng giờ đây giàu có,
phong phú hơn trước nhưng nhìn chung vẫn là một phong cách hiện thực giàu chất
lãng mạn cách mạng và chất trữ tình say đắm" [116, tr. 142].

Tác giả Bạch Văn Hợp khi đi sâu vào nghiên cứu Đặc điểm phong cách
nghệ thuật của Nguyên Hồng đã chỉ ra phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng
là: nhà văn của “lòng thương cảm thống thiết những kiếp người cùng khổ” [77, tr.
200], một “ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn” [77, tr. 66] và một “bút pháp
sôi nổi, nồng nhiệt” [77, tr. 123];… có những nhân vật khác thường nhƣ: “nhân vật
giàu nghĩa khí mang dáng dấp anh hùng hảo hán” [77, tr. 110], “nhân vật mang
dáng dấp cổ tích huyền thoại” [77, tr. 114], “nhân vật thánh thiện” [77, tr. 116],
“nhân vật quỷ sứ” [77, tr. 119]; mặt mạnh của Nguyên Hồng là “cách sử dụng
thành ngữ độc đáo” [77, tr. 125], “ngôn ngữ gây ấn tượng” [77, tr. 134], “ngôn
ngữ giàu cảm xúc” [77, tr. ]; một “giọng điệu sôi nổi thiết tha và cấu trúc chồng
tầng của lời văn nghệ thuật” [77, tr.159]; một “thủ pháp trần thuật giàu xúc cảm”
[77, tr. 173] trong sáng tác của nhà văn.
Nhƣ vậy, ý kiến của các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng phong
cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là phong cách hiện thực, giàu chất lãng mạn và
chất trữ tình, là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo, của lòng thƣơng cảm thống thiết
đối với những ngƣời cùng khổ trong xã hội cũ.
Ngoài ra còn một số ý kiến, nhận xét khác về sự nghiệp và quá trình sáng
tác của Nguyên Hồng, về Thế giới nghệ thuật của nhà văn thời kỳ trƣớc năm
1945, nhưng thực sự chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu một cách
hệ thống, toàn diện về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai
đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đặc biệt, sau khi nhà văn qua đời đã có một số công trình nghiên cứu tổng
hợp về Nguyên Hồng, một số bài viết của các tác giả là các nhà thơ, nhà văn
cùng thời với Nguyên Hồng nhƣ Kim Lân, Nguyễn Tuân, Huy Cận, và các nhà


14
nghiên cứu, phê bình, các nhà thơ thuộc các thế hệ sau nhƣ: Hà Minh Đức, Tế
Hanh, Bùi Hiển, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Quang Thân, Ngô Văn Phú, Nội dung
những bài viết này là những hồi ức, kỷ niệm liên quan đến nhà văn của các tác

giả, bày tỏ lòng yêu quý, trân trọng, ngợi ca tài năng, phẩm chất nghệ sĩ và những
bài học đầy ý nghĩa đƣợc rút ra từ cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn hiện thực
xuất sắc Nguyên Hồng.
Gần đây nhất, tháng 11/2013, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng đã tổ chức
Hội thảo “Nhà văn Nguyên Hồng - cuộc đời và sự nghiệp văn chương” (Nhân
Kỷ niệm 95 năm ngày sinh của nhà văn Nguyên Hồng, tại Hải Phòng). Trong
khuôn khổ của một Hội thảo, các ý kiến của GS. TS. Trần Đăng Suyền, PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Thiện, TS. Lê Thị Bích Hồng, TS. Nguyễn Đức Thuận nhà thơ
Hữu Thỉnh, nhà văn Đình Kính, nhà văn Đỗ Nhật Minh, nhà văn Cao Năm, Lƣu
Văn Khuê, nhà sử học Lê Văn Lợi, nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoàng Minh Đáng… đều thể
hiện sự ngƣỡng mộ, trân trọng tài năng và nhân cách Nguyên Hồng. Các ý kiến đều
đánh giá cao sự đóng góp của Nguyên Hồng đối với sự phát triển của nền văn
chƣơng Việt Nam hiện đại. Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Liên hiệp các Hội
Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã ghi nhận những
đóng góp của Nguyên Hồng, đó là: “Nguyên Hồng là một tác gia lớn, một tác giả sử
thi tầm cỡ nhất của văn chương Việt Nam hiện đại, một nhà văn thực sự xuất sắc
của thế kỷ XX” [119]. GS. TS. Trần Đăng Suyền đã khẳng định: “Nguyên Hồng là
nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, thống thiết; sáng tác của ông làm phong
phú thêm chủ nghĩa nhân đạo của nền văn học dân tộc” [119]. Với một cái nhìn
tổng quan về Nguyên Hồng từ “một cái nhìn thế kỷ” - PGS.TS. Đoàn Trọng Huy
[119] đã có những đánh giá rất trân trọng và xác đáng về nhà văn: “Nguyên Hồng đã
sống với những sự kiện lớn lao của đất nước… với tư cách chứng nhân lịch sử, cũng
là người tham gia làm nên lịch sử, Nguyên Hồng đã sống và viết hết mình. Những
trang viết của nhà văn có sự mặn mòi của mồ hôi lao động, có cái nồng ấm của
nước mắt pha lẫn vẻ rạng rỡ của nụ cười. Tất cả những gì trên mặt giấy đều được
giãi bày tươi thắm bằng máu huyết tâm hồn” (Nguyên Hồng từ cái nhìn thế kỷ)
Tóm lại: Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyên
Hồng, các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao tài năng và nhân cách của
ông, khẳng định Nguyên Hồng là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào



15
lƣu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Với những đóng góp của mình,
Nguyên Hồng đã có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện quá trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam thế kỷ XX.
1.2. Tình hình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng
Nhƣ chúng tôi đã trình bày ở trên, đã có những công trình nghiên cứu,
những bài viết về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở những phƣơng diện
nhƣ: đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ
thuật, trong sáng tác của nhà văn trƣớc cách mạng. Tuy nhiên, theo khảo sát,
chúng tôi nhận thấy, những nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những nhận định
chung nhất, hoặc đi sâu vào một số phƣơng diện nhƣ: nhân vật, ngôn ngữ nghệ
thuật mà chƣa có một công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ
thuật của nhà văn.
Xuất phát từ quan niệm: Thế giới nghệ thuật “là chỉnh thể của hình thức
văn học”, “là sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được của
người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận
của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm”
[140, tr. 30], chúng ta hiểu rằng: Thế giới nghệ thuật chính là sự thống nhất của
mọi yếu tố: Đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian và không gian, ngôn từ nghệ thuật
tất cả tạo nên một Thế giới nghệ thuật mang nét riêng, mang cá tính sáng tạo của
nhà văn.
Từ cơ sở lý thuyết, lý luận nhƣ trên, tác giả luận án đã tìm hiểu lịch sử
nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở các phƣơng diện sau:
1.2.1. Về đề tài sáng tác
Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dƣơng Quảng Hàm (xuất bản
lần đầu1941, tái bản năm 1993), NXB Tổng hợp Đồng Tháp, có nội dung nghiên
cứu về “Các khuynh hướng phổ thông của tư tưởng trong quốc văn hiện đại”, đã
chia ra 3 khuynh hƣớng: Khuynh hƣớng về học thuật, khuynh hƣớng lãng mạn,
khuynh hƣớng tả thực. Tác giả đã xếp sáng tác của Nguyên Hồng vào khuynh

hướng tả thực cùng với Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang [51, tr. 466]. Cũng cùng
quan điểm này, Thế Phong khẳng định: “Nguyên Hồng là nhà văn xã hội hơn hết
theo đúng danh từ. Xã hội tính trong văn chương Nguyên Hồng là tả chân thực


16
sự” [123, tr. 77]. Giáo sƣ tiến sĩ khoa học N.I. Nikulin khi nghiên cứu Lịch sử văn
học Việt Nam, cho rằng “cuộc sống của tầng lớp dân nghèo thành thị cũng được
phản ánh trong những tác phẩm hiện thực”, và tác giả dẫn ra ví dụ tiêu biểu là
“tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng” [103, tr. 749].
Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyên Hồng sau này nhƣ Nguyễn Đăng Mạnh,
Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức… cũng đều thống nhất cho rằng đề tài sáng tác mà
Nguyên Hồng hƣớng đến là cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới
đáy xã hội thực dân phong kiến. “Từ thế giới những người lao động cực khổ nhất
trong xã hội. Nguyên Hồng đã đến với nghề văn” [116, tr. 78]; “Mỗi nhà văn đều
có một nguồn suối tinh thần yêu thương của họ, Ngô Tất Tố tiếp thu được cái hơi
thở khỏe mạnh, hồn hậu, lạc quan của nông dân, còn Nguyên Hồng thì bắt rễ sâu
vào cuộc sống và những tình cảm tốt đẹp của những người dân nghèo, thợ thuyền
thành phố. Anh luôn luôn nói đến người lao động nghèo khổ với lòng biết ơn tình
nghĩa, với sự gắn bó trọn đời chung thủy” [116, tr. 106]…
Có thể thấy rằng: các ý kiến, nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu,
phê bình (trƣớc và sau cách mạng) đều đã chỉ rõ: Đề tài sáng tác trong tác phẩm
của Nguyên Hồng là cuộc sống của những con ngƣời khốn khổ trong xã hội
đƣơng thời, nhà văn đã rất thành công khi viết về đề tài này - và điều này là
hoàn toàn chính xác. Chính vì vậy, trong luận án của mình, chúng tôi sẽ không
đi sâu vào nghiên cứu phƣơng diện này mà sẽ tập trung vào một số phƣơng diện
khác trong Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiện thực Nguyên Hồng.
1.2.2. Về chủ đề sáng tác
Trong nhận xét của Giải thưởng Tự lực văn đoàn, năm 1937 (báo Ngày nay,
năm 1938), Thạch Lam đánh giá sự thành công cũng nhƣ hạn chế trong tiểu thuyết

Bỉ vỏ nhƣ sau: “Cái đặc biệt của Nguyên Hồng có lẽ là cái màu sắc tự nhiên và sự
linh động. Người ta mừng rằng với một đầu đề như thế (đời một cô gái trụy lạc)
ông Nguyên Hồng đã khéo đứng trong phạm vi sự thật và sự cảm thấy, mà không
sa ngã vào những câu sáo và hoa mỹ,… còn nhiều chỗ vụng về… nhiều câu văn
chưa gãy gọn. Nhưng đó là lỗi của một người viết văn và sẽ mất đi với kinh
nghiệm và sự từng trải trong nghề”. Trong khuôn khổ của một Nhận xét Giải
thưởng Thạch Lam cũng mới chỉ nêu ý kiến nhận xét về sự tự nhiên và linh động
cũng nhƣ một số hạn chế trong văn Nguyên Hồng mà thôi.


17
Phan Cự Đệ khẳng định rằng: “Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên
Hồng trước Cách mạng là: những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng
vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn “ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh”
[116, tr. 111]. Tác giả đã nhấn mạnh đến bản chất nhân vật của Nguyên Hồng, đó
là: những ngƣời dân nghèo tuy bị xã hội đẩy đến sự bần cùng hóa (thậm chí lƣu
manh hóa), nhƣng ở họ luôn là niềm khao khát cuộc sống lƣơng thiện trong một xã
hội công bằng, đẹp đẽ hơn.
Còn nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thấy ở truyện ngắn của Nguyên Hồng
"phần nhiều pha một giọng phóng sự chua cay và kín đáo, phần nhiều dùng việc
thay lời, nên cái nghệ thuật của ông thật là sâu sắc” [116, tr. 44], “Ông đã đi từ
cuộc sống nghèo nàn của mấy hạng người bị xã hội khinh bỉ đến những cuộc sống
bên trong rất phức tạp và không kém phần ồn ào, nhộn nhịp” [116, tr. 48], “chỉ
khi nào lòng yêu nhân loại lên tới cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những
người bị xã hội ruồng bỏ” [116, tr. 43]. Vũ Ngọc Phan cũng đã nói đến cảm hứng
sáng tạo và giá trị nhân đạo toát ra trong sáng tác của Nguyên Hồng, đây là một ý
kiến rất đáng chú ý khi cắt nghĩa ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn.
Khái quát về toàn bộ đời văn Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu thấy
“Ngổn ngang gò đống kéo lên biết bao nhiêu là hạng người, là mẫu người của xã
hội cũ” “bao giờ ông cũng đặt niềm tin tưởng vững chắc vào cái cốt lõi tốt đẹp

của tính cách những con người lao động nghèo khổ” [116, tr. 379]. Đồng thời, tác
giả cũng cho rằng: Nguyên Hồng là “Nhà văn của thập loại chúng sinh” , “từ
trong lòng cái xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra, cầm cây bút sắt chấm vào
mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra văn chương riêng của mình” [116,
tr. 378]. Chúng ta thấy rằng: Nguyễn Minh Châu cũng nhƣ các nhà nghiên cứu,
phê bình trên đã nhấn mạnh đến đối tƣợng thẩm mỹ trong sáng tác của Nguyên
Hồng là những con ngƣời nghèo khổ trong xã hội cũ, đồng thời tác giả cũng khẳng
định niềm tin tƣởng vững chắc của Nguyên Hồng vào bản chất tốt đẹp của ngƣời
lao động - đó chính là chủ đề nổi bật, bao trùm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn
hiện thực này.
1.2.3. Về nhân vật
Ngay từ trƣớc Cách mạng, Trƣơng Chính tuy có những nhận xét khắt khe
về cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ nhƣ: còn thiếu nghệ thuật, thiếu kinh nghiệm, nhƣng ông
cũng đƣa ra nhận định khách quan về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng:


18
"Tác giả dồn hết nạn này đến nạn khác trên đầu Bính cho đến khi cô bị bắt, ở tù,
mới chịu thôi”, đó là nhận xét về một trong những đặc điểm xây dựng nhân vật ở
Nguyên Hồng trong một cuốn tiểu thuyết cụ thể.
Tác giả Hà Minh Đức khi đánh giá tổng quát về Nguyên Hồng và quá trình
sáng tác của nhà văn - đã nhận định: “Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng
sống”… “nhà văn của những xóm thợ”, “người đã đem vào trang sách muối mặn,
mồ hôi và đất bụi của cuộc đời” [116, tr. 13]. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh đến
đặc điểm nhân vật của Nguyên Hồng “thế giới nhân vật của Nguyên Hồng bị vây
bọc trong sự nghèo khổ không có lối ra (…) nhưng bao giờ cũng nuôi khát vọng
sống chân chính của con người… Cũng dễ nhận ra người dân lao động trong tác
phẩm của Nguyên Hồng ở cuộc đời nghèo khổ, lòng nhân ái và những khát vọng
sống của họ” [116, tr. 17]… Ở đây, nhà nghiên cứu đã khẳng định lòng nhân ái, sự
lạc quan và sức sống bất diệt ở các nhân vật của Nguyên Hồng. Đồng thời tác giả

cũng chỉ ra nhƣợc điểm trong cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng là: “còn
thiếu những nhân vật phản diện để tạo nên những đối trọng của các nhân vật
thuộc tầng lớp giàu nghèo khác nhau” [116, tr. 18]. Nói về những hạn chế của
Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn cho rằng:
“Nếu như tư tưởng của Nguyên Hồng tương đối ngày càng tiến bộ, thì về nghệ
thuật ông lại hay mắc phải nhược điểm là lý luận dài dòng và trực tiếp nói lên
nhiều ý nghĩa của mình thay cho việc mô tả sự việc và tính cách con người. Nhân
vật của ông thường triết lý về cảnh khổ của mình và của người khác hơn là hành
động… trong sáng tác của ông nhiều trang có tính chất bài báo hoặc bút ký trữ
tình, ông không chú trọng xây dựng điển hình cho thật sinh động” [125, tr.149 ]. Ý
kiến về hạn chế của Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật nhƣ trên không thấy có
ngƣời hƣởng ứng.
Tác giả Phan Cự Đệ cho rằng nhân vật của Nguyên Hồng “là những con
người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn ngoi lên ánh
sáng như những mầm cây xanh” [116, tr. 111]. Tác giả cũng nhận xét những đức
tính quý báu của nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ: “tình thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng khổ”, “tình nghĩa chung thủy và lòng hi
sinh cho hạnh phúc người khác”, “lòng tự trọng dù đói khổ vẫn không chấp nhận
lối sống trụy lạc, bán rẻ nhân phẩm để chạy theo đồng tiền và danh vọng”. Đồng
thời Phan Cự Đệ cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế trong cách xây dựng nhân


19
vật của Nguyên Hồng nhƣ: “dù sao, nhiều nhân vật dân nghèo của Nguyên Hồng
vẫn còn giữ một thái độ cam phận, nhẫn nhục, chịu đựng trước cảnh ngộ. Đôi lúc ta
có cảm tưởng dường như ngòi bút nhà văn chìm sâu một cách triền miên trong sự
khổ đau, say sưa trong một thứ chủ nghĩa cùng khổ”… “Nhược điểm này từ năm
1938 trở đi, dần dần được khắc phục” [116, tr. 111]. Nhƣ vậy, tác giả đã ghi nhận
sự thành công cũng nhƣ hạn chế về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng.
Khi nghiên cứu tổng quát “Nguyên Hồng - con người và sự nghiệp” [116],

tác giả Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã khái quát quá trình sáng tác trƣớc và sau
Cách mạng của Nguyên Hồng, đã chỉ ra những đặc điểm quan trọng trong sáng tác
của nhà văn. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là cảm hứng sáng tạo, là ba loại nhân vật
quen thuộc của nhà văn: “những người làm các nghề phu phen, tạp dịch nặng nề”
[tr. 82], “những người đàn bà dân nghèo thường kiếm ăn bằng việc buôn thúng
bán mẹt, hay bán hàng cơm, hàng nước”[tr. 83]; “những trẻ em nhà nghèo”
[tr. 86]; Ngoài ra còn có“loại nhân vật trẻ tuổi thuộc tầng lớp tiểu tư sản nghèo”
[tr. 86] và “những hạng người lưu manh côn đồ” [tr. 80]. Tuy nhiên, với một công
trình nghiên cứu tổng quan về “Nguyên Hồng, con ngƣời và sự nghiệp”, Nguyễn
Đăng Mạnh cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu chung về các loại nhân vật
của Nguyên Hồng, mà chƣa chỉ ra đặc điểm cụ thể của từng loại nhân vật cũng nhƣ
chƣa đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật xây dựng từng loại nhân vật ấy.
Nhận xét về tính cách nhân vật của Nguyên Hồng, có ý kiến nhận định rằng
“Trong thế giới nhân vật của ông, ta thường bắt gặp những tính cách phi thường,
những con người thánh thiện nhuốm vẻ tôn giáo và màu sắc lãng mạn. Đó là những
con người khác thường với những nét tính cách được tô đậm, phóng đại, được đẩy
lên đến mức cực đoan. Tất cả đều mang một nét chung nào đó khiến người đọc nhận
ra đây chính là những nhân vật, những đứa con tinh thần của Nguyên Hồng” [131,
tr. 420]. Theo chúng tôi, đây chính là một nhận xét chính xác và tinh tế bởi tác giả
đã chỉ ra sự khác biệt về nhân vật của Nguyên Hồng so với nhân vật của các nhà văn
khác cùng thời với ông, kể cả nhà văn hiện thực phê phán.
Về nghệ thuật sáng tạo của Nguyên Hồng, PGS.TS. Đoàn Trọng Huy cũng
khẳng định “Nguyên Hồng có nhiều hứng khởi để sáng tạo, đổi mới trên lĩnh vực
văn xuôi. Nghệ thuật ngôn từ phát triển do đi sâu vào đời sống nhiều mặt phong
phú và hết sức sinh động”. Từ góc nhìn của một nhà đạo diễn sân khấu, nghệ sĩ ƣu

×