Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Hướng dẫn Giáo viên vận dụng PPDH tích cực để dạy các bài Luyện tập chung của môn toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.69 KB, 13 trang )

1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
- Tên sáng kiến: “Hướng dẫn giáo viên vận dụng một số phương pháp dạy
học tích cực trong tiết dạy luyện tập, luyện tập chung, ôn tập toán
nhằm nâng cao chất lượng môn toán trong nhà trường”
- Họ và tên: Nguyễn Thị Hoa
- Thời gian đã được triển khai thực hiện: Từ tháng 15/08/ 2012 đến tháng 02/2013
I. SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN SÁNG KIẾN :
- Trong quá trình dự giờ kiểm tra đánh giá và xây dựng tiết dạy giỏi cho giáo trong nhà trường.
Qua các tiết dạy luyện tập và luyện tập chung. Trên tiết dạy thực tế của giáo viên cho thấy có nhiều giáo
viên còn lúng túng khi dạy các tiết này. Hầu hết giáo viên đã chú trọng đổi mới phương pháp nhưng
chưa đi thực chất vào chiều sâu, chưa triệt để, chỉ mới dừng lại ở cải tiến phương pháp. Ít chú trọng đến
cách dẫn dắt học sinh tìm hiểu khám phá và lĩnh hội kiến thức. Do không nắm được phương pháp dạy
luyện tập. Những hạn chế nêu trên thể hiện qua nội dung bài soạn còn thiếu chưa đủ nội dung cần dạy
trong tiết luyện tập nên hiệu quả tiết dạy chưa cao.
- Khi dạy các tiết luyện tập, luyện tập chung giáo viên thường tiến hành một cách đơn giản
cho một HS làm bài tập trên bảng lớp cả lớp làm vở nháp. HS làm xong, GV cho HS nhận xét,
GV nhận xét cho điểm và sửa sai nếu có (Tiết luyện tập biến thành tiết sửa bài tập) nhiều khi bài
khó giáo viên làm hộ cho HS. GV chưa đưa ra hệ thống câu hỏi để củng cố và khắc sâu kiến thức
cho HS. Từ đó tiết dạy học toán chưa phát huy được năng lực tư duy cần thiết trong giải toán,
chưa rèn cho HS cách tự tư duy tài liệu để tìm ra kiến thức cần học. Chưa chỉ và tập cho học sinh
cách tự học cụ thể( Phương pháp tự học ).
- Mặc dù một số giáo viên đã chuẩn bị bài rất công phu, bên cạnh đó một số giáo viên chưa
chuẩn bị bài giảng đúng với trọng tâm, bài giảng còn mang hình thức chung chung, chưa phân loại
đối tượng học sinh. Chưa chỉ cho học sinh được đường đi cụ thể, chưa chỉ ra được các thiếu sót
cụ thể, hướng khắc phục cho học sinh dù đó là những lỗi nhỏ nhất.
- Giáo viên chưa mạnh dạn điều chỉnh nội dung dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của
BGD & ĐT đề phù hợp với đối tượng lớp mình phụ trách.


- Mặc dù đã chú trọng trong việc huy động kiến thức cũ để khơi gợi kiến thức mới song
chưa thường xuyên (thể hiện chưa rõ trong phần bài soạn).
- Các tiết trả bài kiểm tra giáo viên chưa chỉ ra được các thiếu sót cụ thể, hướng khắc phục
cho học sinh dù đó là những lỗi nhỏ nhất.
HS không có phương pháp học tốt luôn thụ động chờ GV giảng
Một số em bị hổng kiến thức dẫn đến chán nản. Khả năng tiếp thu còn hạn chế và chưa
linh động trong cách làm bài. Học sinh chưa xác định đúng đắn động cơ học tập, học một cách thụ
động, làm bài một cách qua loa, đại khái, ý thức phần đấu vươn lên chưa cao.
- Nhiều tiết dạy luyện tập thực hành hầu như học sinh chưa có thói quen đặt câu hỏi ngược
lại cho giáo viên thường là học sinh trả lời câu hỏi của giáo viên.
II. PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN:
Sáng kiến: “Hướng dẫn giáo viên vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong tiết dạy
luyện tập, luyện tập chung, ôn tập toán nhằm nâng cao chất lượng môn toán trong nhà trường”
Thực hiện trong các khối lớp tại trường tiểu học phường 9.
2
III . MÔ TẢ TẢ SÁNG KIẾN (Cách giải quyết): Hướng dẫn giáo viên Vận dụng các
phương pháp tích cực
*A Phương pháp dạy học các bài luyện tập, thực hành:
Mở chuyên đề giúp giáo viên nắm vững vị trí, mục tiêu chung của tiết luyện tập
1. Vị trí của tiết luyện tập.
Tiết luyện tập có tác dụng hoàn thiện các kiến thức cơ bản mà tiết lý thuyết vừa cung cấp.
Nâng cao lý thuyết trong chừng mực có thể.
Làm cho học sinh nhớ và khắc sâu hơn những vấn đề lý thuyết đã học.
2. MỤC TIÊU CHUNG CỦA TIẾT LUYỆN TẬP
a - Hoàn thiện hoặc nâng cao ở mức độ phổ thông cho phép đối với phần lý thuyết của tiết
học trước thông qua một số tiết học trước, thông qua một hệ thống bài tập đã được sắp xếp hợp lý
theo kế hoạch lên lớp.
* Hệ thống bài tập gồm: Các bài tập trong SGK,
b - Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng, thuật toán hoặc nguyên tắc giải toán dựa trên cơ sở
nội dung lý thuyết đã học và phù hợp với đa số học sinh một lớp, thông qua hệ thống bài tập SGK.

c - Thông qua phương pháp và nội dung rèn luyện cho học sinh nề nếp làm việc có tính
khoa học, phương pháp tư duy cần thiết.
* Một vài điều cần lưu ý:
Tiết luyện tập không phải chỉ là tiết giải các bài tập đã cho học sinh làm ở nhà hay sẽ cho
học sinh làm trên lớp mà còn phải là tiết dạy cách suy nghĩ giải toán.
Trong tiết luyện tập phải xác định rõ:
* Thầy phải luyện cái gì?
* Trò phải tập cái gì?
Các bước thực hiện tiết luyện tập, luyện tập chung.
a. Bước 1 :
Cho HS trình bày lời giải các bài tập cũ đã cho HS làm ở nhà., nhằm kiểm tra:
- HS hiểu lý thuyết đến đâu.
- Kỹ năng vận dụng lý thuyết trong việc giải bài tập.
- HS mắc những sai phạm nào?
- Cách trình bày lời giải bằng ngôn ngữ, bằng kí hiệu chuẩn xác chưa ?
b. Bước 2:
- Giáo viên chốt lại những vấn đề có tính chất trọng tâm, chưa chỉ ra được các thiếu sót cụ
thể, hướng khắc phục cho học sinh dù đó là những lỗi nhỏ nhất. chưa chỉ ra được các thiếu sót cụ
thể, hướng khắc phục cho học sinh dù đó là những lỗi nhỏ nhất. Giáo viên chốt lại vấn đề theo nội
dung sau:
- Chỉ ra những sai sót của học sinh, những sai sót thường mắc phải mà giáo viên tích luỹ
được trong quá trình giảng dạy. Nhắc lại một số vấn đề chủ yếu về lý thuyết mà học sinh chưa vận
dụng được khi giải bài tập.
+ Phân tích những sai lầm và nguyên nhân dẫn đến những sai lầm đó ( nếu có).
+ Khẳng định những chỗ làm đúng, làm tốt của học sinh để kịp thời động viên.
+ Đưa ra những cách giải khác ngắn gọn hơn, hay hơn hoặc vận dụng lý thuyết linh hoạt hơn
(nếu có thể). Hướng dẫn cho HS cách trình bày, diễn đạt bằng ngôn ngữ, ký hiệu toán học…
c. Bước 3:
Làm thêm bài tập mới có trong hệ thống bài tập SGK, nhằm đạt được yêu cầu:
- Kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh phần lý thuyết mở rộng mà giáo viên đưa ra ở đầu giờ

học (nếu có).
- Hoàn thiện lý thuyết, khắc phục sai lầm HS thường mắc phải.
3
- Rèn luyện một vài thuật toán cơ bản mà HS cần ghi nhớ trong quá trình học tập.
- Rèn luyện cách phân tích bài toán, tìm phương hướng giải quyết bài toán.
- Khắc sâu hoàn thiện lý thuyết qua các bài tập có tính chất phản ví dụ, các bài tập vui có
tính thiết thực.
d. Bước 4: Củng cố sau tiết luyện tập, hướng dẫn học bài về nhà.
- Hệ thống lại những dạng toán đã luyện, phương pháp giải các dạng toán đó.
- Kiến thức sử dụng trong tiết luyện tập.
- Dặn dò chuẩn bị cho tiết học sau
* Tóm lại
Tiết luyện tập, luyện tập chung nào thì cũng có ba phần chủ yếu:
- Hoàn thiện lý thuyết.
- Rèn luyện kỹ năng thực hành.
- Phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
Vì vậy trong tiết luyện tập thực hành điều quan trọng là không phải học sinh làm được
nhiều bài và giáo viên cung cấp thêm nhiều bài tập cho học sinh mà chính là giáo viên cùng học
sinh khai thác được các tiềm năng trong các bài tập có sẵn trong sách giáo khoa, tổ chức trao đổi ý
kiến về các cách làm bài của học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau và củng cố nhiều lần về
kiến thức trọng tâm của tiết luyện tập đã đề ra.
* Khi soạn bài giáo viên cần phân loại đối tượng học sinh trong từng tiết dạy, chỉ ra đường
đi cụ thể cho học sinh, chốt kiến thức sau mỗi bài, lượng giá được tỉ lệ % học sinh thực hiện được.
* Trong dạy luyện tập thực hành cần cho học sinh có thói quen đặt câu hỏi ngược lại cho
giáo viên
* Mỗi giáo viên cần mạnh dạn điều chỉnh nội dung, kế hoạch dạy học sao cho sát với đối
tượng của lớp mình phụ trách.
* Phần kiểm tra bài cũ việc huy động kiến thức cũ để khơi gợi kiến thức mới cần phải thực hiện
thường xuyên kể cả trong bài soạn (tránh tình trạng khi dự giờ, lên tiết tốt mới thực hiện)
* Trong lúc chấm chữa bài cho học sinh và đặc biệt chấm chữa bài qua các tiết kiểm tra

giáo viên cần phải nêu ra được các thiếu sót cụ thể chỉ ra được hướng khắc phục cho học sinh cho
dù đó là lỗi nhỏ nhất (cần thống kê đầy đủ số liệu từng phần cụ thể).
3 . QUI TRÌNH SOẠN BÀI
*Nghiên cứu tài liệu:
- Trước hết phải nghiên cứu lại phần lý thuyết mà học sinh được học. Qua đó phải xác định
kiến thức nào là kiến thức cơ bản, trọng tâm, kiến thức nào nâng cao, mở rộng cho phép.
- Tiếp theo là nghiên cứu các bài tập trong SGK:
a) Cách giải từng bài toán như thế nào?
b) Có thể có bao nhiêu cách giải bài toán này.
c) Cách giải nào là thường gặp? Cách giải nào là cơ bản?
d) Ý đồ của tác giả đưa ra bài toán này để làm gì ?
e) Mục tiêu và tác dụng của từng bài tập như thế nào?
- Nghiên cứu sách tham khảo, sách giáo viên kỹ sau đó tập trung xây dựng nội dung tiết
luyện tập và phương pháp luyện tập.
* Nội dung bài soạn:
a) Mục tiêu của tiết luyện tập.
b) Cấu trúc tiết luyện tập:
b.1- kiểm tra kiến thức cũ:
- Số lượng bài tập, dự kiến thời gian.
- Chốt lại vấn đề gì qua các bài tập này?
4
b.2-Cho học sinh làm bài tập mới.
- Số bài tập trong SGK.
- Số lượng bài tập, dự kiến thời gian cho mỗi bài tập.
- Bài tập đưa ra có dụng ý gì ?
b.3- Hướng dẫn học sinh học bài, làm bài ở nhà sau tiết bài tập.
- Hệ thống các bài tập cho về nhà làm. (nhưng bài ở lớp HS làm chưa xong.)
- Gợi ý gì đối với từng bài tập cho học sinh yếu, học sinh giỏi?
* Thực hiện nội dung đã nêu ở trên trong tiết luyện tập.
Tiến trình được thực hiện trên lớp thế nào để phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo

của học sinh theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học.
- Các bài tập trong các tiết luyện tập thực hành thường sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó,
từ đơn giản đến phức tạp, từ thực hành và luyện tập trực tiếp đến vận dụng một cách tổng hợp và
linh hoạt hơn. GV có thể tổ chức dạy học các bài ôn tập thực hành như sau:
a) Hướng dẫn học sinh nhận ra kiến thức đã học trong đó có dạng bài tương tự đã làm
trong các bài tập.
- Nếu học sinh tự đọc đề bài và nhận ra được dạng bài tương tự đã làm hoặc các kiến thức
đã học thì tự học sinh sẽ biết cách làm bài và trình bày bài làm.
- Nếu HS nào chưa tự nhận ra được dạng bài tương tự hoặc các kiến thức đã học thì GV
hướng dẫn gợi ý hoặc tổ chức đôi bạn giúp nhau để tự HS nhớ lại kiến thức, cách làm GV không
làm thay những gì HS có thể làm được.
VD: Khi HS làm các bài tập về số thập phân ở lớp 5, GV giúp HS tự nhớ lại cách làm dạng bài
tương tự đã có khi học số tự nhiên, nhớ lại kiến thức mới học số thập phân có liên quan đến việc làm bài
tập đó. Đây là cơ hội để HS củng cố các kiến thức và kỹ năng cơ bản về các phép tính cộng trừ nhân
chia.Chẳng hạn khi làm các bài tập cộng trừ nhân chia số thập phân có mang tên đơn vị thì GV cho HS
hoạt động nhóm cùng trao đổi nhớ lại quy tắt thực hiện 4 phép tính đã học như: cộng số thập phân, trừ số
thập phân, nhân số thập phân, chia số thập phân lần lượt.
- Cần chú ý cách đặt tính ở phép tính cộng và trừ số thập phân, đánh dấu phẩy vào kết quả
ở phép tính nhân số thập, cách thực hiện chia số thập phân cho số thập phân( Xoá dấu phẩy ở số
chia và dời dấu phẩy ở số bị chia sang phải).
- Ví dụ: Bài tập1/ tiết luyện tập chung tuần 11.
- GV cho học sinh hoạt động nhóm để tìm hiểu cách tính bài toán tìm X, nêu kết quả và
cách thực hiện.
b) Giúp HS tự làm bài theo khả năng của từng HS:
- GV nêu yêu cầu HS làm bài lần lượt theo yêu cầu chuẩn kiến thức kỹ năng. Chẳng hạn như tiết
luyện tập chung tuần 11 có 5 bài tập thì chuẩn kiến thức kỹ năng yêu cầu GV hướng dẫn HS hoàn thành
bài tập 1, 2 và 3 cho cả lớp, riêng bài 4, 5 khuyến khích cho HS trong lớp có thể làm được vào vở bài
tập luyện buổi chiều.
- Không nên bắt HS phải chờ đợi nhau trong quá trình làm bài, HS đã làm xong bài tập nào
nên tự kiểm tra( hoặc nhờ bạn, cô giáo kiểm tra) rồi chuyển sang bài tập tiếp theo.

- GV phải chấp nhận tình trạng trong cùng một khoảng thời gian, có HS này làm được nhiều
bài tập hơn HS khác. GV nên hỗ trợ hoặc tổ chức cho HS khá giỏi hỗ trợ HS yếu cách làm bài không
làm thay cho HS yếu. GV khuyến khích HS khá giỏi hoàn thành các bài tập mà chuẩn kiến thức không
yêu cầu ngay ở lớp. Ở trên lớp GV giúp HS cả lớp tìm được cách giải quyết hợp lý.
- Ví dụ: Bài tập 2/ SGK tiết luyện tập tuần 16
- GV cho HS đọc đề bài - tìm hiểu đề - trao đổi trong nhóm lớn nhớ lại kiến thức tìm tỷ số
phần trăm của 2 số - đưa ra bước giải của bài toán.
* GV gợi ý 2 khái niệm mới đối với HS: số % đã thực hiện được và số % vượt mức so với
kế hoạch cả năm.
- HS trao đổi trong cả lớp - độc lập giải toán.
5
- Cùng kiểm tra kết quả của nhau trong bàn.
c) Tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng HS:
- GV cho HS trao đổi ý kiến (nhóm, cả lớp) về cách giải 1 bài tập khuyến khích HS nêu
nhận xét về cách giải của bạn, tự rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh cách giải của mình.
- Sự hỗ trợ giữa các HS trong nhóm, lớp giúp HS tự tin vào khả năng của bản thân, tự rút
kinh nghiệm về cách học cách làm bài của mình và tự sửa chữa thiếu sót của bản thân.
- HS phải nhận ra điều hỗ trợ giúp đỡ bạn cũng có ích cho bản thân.
d) HS cần có thói quen tự kiểm tra đánh giá kết quả luyện tập thực hành:
e) HS cần có thói quen tìm và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vần đề của bài
tập, không nên thoả mãn với các kết quả đã đạt được.
- Khi HS chữa xong bài GV nêu gương những HS hoàn thành tốt bài cũng như những HS
đã có cố gắng trong luyện tập thực hành tạo cho HS niềm tin vào sự tiến bộ của bản thân.
- Khuyến khích HS tìm ra nhiều cách giải cho 1 bài toán.
* Với những phương pháp dạy học trên GV không nhất thiết phải lựa chọn thêm bài tập
cho đối tượng HS, mà chỉ giúp HS khai thác, thực hiện phần nội dung mà chuẩn kiến thức kỹ năng
yêu cầu cần đạt ở mỗi bài học. Dạy học trên cơ sở chuẩn kiến thức kỹ năng sẽ góp phần thực hiện
chương trình đạt mức chất lượng cơ bản về dạy học. Tạo sự ổn định trong dạy học để nâng cao
chất lượng. Tạo cơ hội để hỗ trợ cho HS yếu và là cơ sở để phát triển năng lực cá nhân của HS,
tạo cho HS có hứng thú tìm tòi, sáng tạo trong học toán.

VD: Khi dạy các bài luyện tập thực hiện các phép tính nhân, chia ở lớp 3 học sinh thường
gặp một số khó khăn, sai lầm sau:
a- Học phép nhân:
- Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ 2, 3 lần liên tục, học sinh
thường chỉ nhớ lần đầu tiên mà quên không nhớ các lần tiếp theo.
VD: 1719
x 4
4876
- Trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1( nhớ 2, nhớ 3 ) học sinh thường chỉ nhớ 1.
VD: 2913
x 4
9652
* Giáo viên phân tích và sửa sai cho học sinh: Đối với 2 lỗi trên, giáo viên cần khắc phục cho
học sinh bằng cách: yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính (vừa tính, vừa nhẩm) như phép tính
mẫu trong sách giáo khoa và viết số cần nhớ ra lề phép tính.
- Lúc đầu khi mới học nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số, học sinh còn hay sai
trong cách ghi kết quả.
VD:
26
X 3
618
* Giáo viên phân tích và sửa sai cho học sinh: Ở đây, ta cần giải thích cho học sinh rằng: Nếu
làm như vậy thì tích có tới 61 chục, nhưng thực ra chỉ có 7 chục mà thôi. Vì:
+ Ở lượt nhân thứ nhất: 3 nhân 6 đơn vị được 18 đơn vị, tức là 1 chục và 8 đơn vị, viết 8 ở
cột đơn vị, còn 1 chục nhớ lại( ghi bên lề phép tính)để thêm vào kết quả lượt nhân thứ hai – nhân
hàng chục.
+ ở lượt nhân thứ hai: 3 nhân 2 chục được 6 chục, thêm 1 chục đã nhớ là 7 chục, viết 7 ở cột chục.
6
Giáo viên cũng có thể một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của phép tính bằng cách:
Phân tích từ số 26 = 2 chục + 6 đơn vị và hướng dẫn học sinh nhân bình thường theo hàng ngang

rồi cộng các kết quả lại.
b- Học phép chia:
- Học sinh thường ước lượng thương sai trong phép chia có dư nên dẫn đến tìm được số dư lớn
hơn số chia và lại thực hiện chia số dư đó cho số chia. Cuối cùng, tìm được thương lớn hơn số chia.
* Nguyên nhân của lỗi sai này là:
- Do học sinh chưa nắm được quy tắc “ Số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia ”
- Học sinh không thuộc bảng nhân, bảng chia, kĩ năng trừ nhẩm để tìm số dư còn chưa tốt.
*Để sửa chữa sai lầm này:
- Khi dạy học sinh cách ước lượng trong phép chia , cần lưu ý cho học sinh quy tắc trong
phép chia có dư: “ Số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”.
- Khi dạy về nhân, chia trong bảng, giáo viên cần yêu cầu học sinh phải học thật thuộc các
bảng nhân, chia trước khi dạy chia viết.
- Dạy cho học sinh làm tính chia phải được tiến hành từ dễ đến khó, theo từng bước một.
- Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học chia viết là: Các em thường quên chữ số
“0” trong phép chia có chữ số “0” ở thương.
*Nguyên nhân và cách khắc phục lỗi sai này:
- Do học sinh không nắm được quy tắc thực hiện chia viết “có bao nhiêu lần chia thì có
bấy nhiêu chữ số được viết ở thương”. Giáo viên cũng cần lưu ý học sinh: Chỉ duy nhất trong lần
chia đầu tiên là được lấy nhiều hơn một chữ số ở số bị chia để chia, còn các lần chia tiếp theo lấy
từng chữ số để chia và khi lấy một chữ số để chia thì phải viết được một chữ số ở thương.
- Bên cạnh đó, giáo viên cũng lưu ý học sinh nên viết đủ phép trừ ở các lượt chia như sau:
VD: 816 4
016 28
- Hướng dẫn học sinh cách nhân khi thực hiện phép chia có dư trong mỗi lượt chia như sau:
VD: 43 : 5
Cách 1: Đếm ngược từ 43 cho đến khi gặp một tích( hoặc số bị chia) trong bảng nhân
5( chia 5) : 43 ; 42 ; 41 ; 40.
40 : 5 = 8
Vậy 43 : 5 = 8 ( dư 3 )
Cách 2 : Tìm số lớn nhất( không vượt quá 43) trong các tích (số bị chia) của bảng nhân

(chia 5) ta được 40 ; 40 : 5 = 8. Vậy 43 : 5 = 8 ( dư 3 )
Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả học tập toán thường xuyên dưới
trung bình. Việc lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng cần thiết ở những học sinh này thường đòi
hỏi nhiều công sức và thời gian so với những học sinh khác. Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay
từ bước đầu tiên, không hiểu bài toán nói gì do đó không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy,
giáo viên nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm, tạo điều
kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó. Để hiểu một kiến thức, rèn luyện một kĩ năng
nào đó, học sinh yếu kém cần những bài tập cùng thể loại và mức độ với số lượng nhiều hơn so
với các em khá giỏi và trung bình.
Đặc biệt, giáo viên cần đấu tranh kiên trì với những thói quen xấu của học sinh như: chưa học
lý thuyết đã lao vào làm bài tập, không đọc kĩ đầu bài trước khi làm bài tập, viết nháp lộn xộn,
* Quy trình dạy các bài ôn tập cuối năm:
1. Tổ chức lớp
2. Định hướng mục đích, nhiệm vụ học tập
3. Tổ chức cho học sinh hệ thống hóa, khái quát hóa trên cơ sở đã được chuẩn bị
trước nhằm xây dựng nên những bảng tổng kết, các sơ đồ, biểu đồ,
7
4. Tổng kết bài học
5. Hướng dẫn công việc ở nhà.
Các hoạt động dạy học ôn tập
Có nhiều cách dạy học ôn tập, một phương án là: Hoạt động hóa người học thông qua
việc bài tập hóa những kiến thức cơ bản.
Giờ học được thiết kế theo chùm 4 bài tập tương ứng với 4 loại đối tượng học sinh là: Giỏi
- Khá - Trung bình - Yếu, kém.
Phương pháp chủ yếu là mỗi đối tượng học sinh được giao một bài tập thích hợp theo mức
độ tăng dần. Bài tập được chuẩn bị theo bảng sau:
Đối tượng
Mức độ
Ghi chú
Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4

Học sinh Yếu,
kém
Bài 1.1 Bài 1.2 Bài 1.3 Bài 1.4
Học sinh Trung
bình
Bài 2.1 Bài 2.2 Bài 2.3 Bài 2.4
Học sinh Khá Bài 3.1 Bài 3.2 Bài 3.3 Bài 3.4
Học sinh Giỏi Bài 4.1 Bài 4.2 Bài 4.3 Bài 4.4
Ghi chú: Mức độ được tăng dần từ mức 1 đến mức 4 (có thể phân bậc mịn hơn nữa càng tốt),
trong đó:
• Bài 1.4 tương đương bài 2.1
• Bài 2.4 tương đương bài 3.1
• Bài 3.4 tương đương với bài 4.1,
Với sự chuẩn bị như vậy, giáo viên giao nhiệm vụ, học sinh tự giác chiếm lĩnh tri thức. Giờ
học được diễn biến theo tiến trình:
Hoạt động 1
Giáo viên giao nhiệm vụ bằng cách, yêu cầu mỗi đối tượng làm một bài
tập thích hợp. Tất nhiên là có sự hạn chế thời gian.
Hoạt động 2
Giáo viên theo dõi hoạt động của học sinh và giải đáp thắc mắc cũng như đưa
ra những hướng dẫn hoặc gợi ý cho mỗi đối tượng, học sinh độc lập làm bài.
Hoạt động 3
Kiểm tra kết quả công việc sau khoảng thời gian cho phép.
Nếu học sinh nào làm đúng, nhanh nhất sẽ được khen và được thưởng (thông qua
việc mời học sinh đó chữa bài cho cả lớp), giáo viên đừng quên cho điểm.
Còn với những học sinh chưa hoàn thành công việc trong thời gian cho phép thì
cần học tập lời giải của bạn và tự điều chỉnh.
Giáo viên cần giúp học sinh lấp được lỗ hổng trong kiến thức của HS.
Hoạt động 4
Giáo viên chuẩn hóa kiến thức. Chú ý thông qua hoạt động này, giáo viên giúp

học sinh nắm được tri thức và tri thức phương pháp.
Các hoạt động được diễn ra và lặp lại cho đến khi hoạt động nhận thức được thực hiện.
Ưu điểm, nhược điểm hoạt động hóa người học thông qua việc bài tập hóa những
kiến thức cơ bản.
Cách dạy học ôn tập như thế có những ưu điểm, nhược điểm chính sau:
Ưu điểm: Học sinh được hoạt động độc lập, tự giác hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức phù
hợp với trình độ nhận thức của mình.
Nhược điểm: Chuẩn bị vất vả, điều khiển giờ học phức tạp vì có nhiều học sinh hiểu
không giống nhau, nếu điều khiển không khéo giờ học sẽ bị phân tán và phản tác dụng. Mặt khác,
trong quá trình tự học như vậy, học sinh nào tự giác tích cực sẽ đạt hiệu quả cao hơn, ngược lại
một số học sinh kém, hoạt động chậm hơn luôn bị động và rất dễ dẫn đến chán học.
Khi dạy ôn tập giáo viên cần lưu ý:
8
Để chuẩn bị cho tiết ôn tập, yêu cầu học sinh làm việc ở nhà: trả lời các "câu hỏi tự kiểm
tra" và chuẩn bị các bài tập.
Mục "Tóm tắt những kiến thức cần nhớ" trong SGK nhằm mục đích để cho học sinh tra cứu nếu
cần thiết, không nên giảng lại cho học sinh trong giờ học ôn tập.
Tiết ôn tập không phải là để giáo viên nhắc lại các kiến thức đã học, mà là để giúp học sinh
nhớ lại, làm lại và tìm ra mạch kiến thức cơ bản của một nội dung được học"sợi chỉ " liên kết
các kiến thức ấy với nhau. Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới ( kiến thức đã học) để huy động.
Nếu học sinh tự đọc đề bài, tự nhận ra các dạng bài tương tự, các kiến thức đã học thì nội dung bài
dạy và học sinh học sẽ thuận lợi hơn. Nếu học sinh chưa nhận ra kiến thức đã học trong bài tập thì
giáo viên giúp học sinh bằng cách gợi ý, hướng dẫn nhớ lại kiến thức (hoặc nhờ học sinh giúp bạn
nhớ lại) không nên vội làm thay cho học sinh.
* Giúp học sinh tự thực hành theo khả năng của học sinh ( phân hóa đối tượng )
- Giáo viên bao giờ cũng yêu cầu học làm các bài tập đã sắp xếp thứ tự trong sách giáo khoa
hoặc do giáo viên sắp xếp. Không tự ý bỏ bài nào kể các bài tập học sinh cho là dễ ( đây là dạng bài tập
phổ cập bắt buộc 100 % học sinh phải thực hiện được.)
- Không nên bắt buộc học sinh phải chờ đợi nhau trong quá trình làm bài. Học sinh làm được
bài nào nên tự kiểm tra (hoặc giáo viên, hoặc bạn kiểm tra rồi chuyển sang làm bài tập tiếp theo)

- Trong cùng một khoảng thời gian của tiết học, phải chấp nhận có học sinh làm được
nhiều bài tập hơn học sinh khác. Hãy giúp học sinh yếu, không làm thay (giáo viên – bạn chỉ
dùm). Học sinh khá, giỏi có thể làm hết các bài tập trong sách giáo khoa hoặc bài tập phát triển
giáo viên đã chuẩn bị.
Tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh .
- Tăng cường cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ.
- Sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm giúp học sinh tự sửa chữa và tự điều chỉnh.
Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả thực hành luyện tập.
- Tập cho học sinh thói quen tự kiểm tra lại kết quả một cách chính xác.
- Trong một số trường hợp giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra bài của bạn mình rồi báo
cáo kết quả cho giáo viên.
- Khuyến khích học sinh tự nêu những hạn chế trong bài của mình hoặc của bạn.
Tập cho học sinh thói quen tìm nhiều phương án để giải quyết vấn đề :
- Khi sửa bài hoặc khi đánh giá kết quả của học sinh giáo viên nên động viên, nêu gương học sinh
đã hoàn thành bài tập tạo cho các em niềm tin và sự tiến bộ của bản thân.
- Khuyến khích học sinh tìm ra nhiều cách giải và chọn cách giải tối ưu nhất.
Nên có các bảng hệ thống thể hiện mối liên quan hệ thống của kiến thức cần ôn tập, qua đó
khắc sâu, hệ thống và nâng cao các kiến thức cơ bản đã học. Các kiến thức trong bảng liên quan
với nhau cả theo hàng lẫn theo cột. Tận dụng các sơ đồ để hệ thống kiến thức.
Trong tiết ôn tập trên lớp, giáo viên chọn một vài bài tập có nội dung tổng hợp liên quan đến
nhiều kiến thức cần ôn tập và cùng làm việc với học sinh, qua đó nhắc lại, khắc sâu, hệ thống và nâng
cao các kiến thức cần nhớ và phương pháp giải. Không nên đi sâu vào những tính toán cụ thể.
Luôn luôn thay đổi hình thức ôn tập cho phong phú, đa dạng và hiệu quả khoảng 10/15
phút cho mỗi hình thức. Trong bất kì hình thức nào, HS cũng phải được chủ động tham gia vào
quá trình ôn tập kiến thức.
Tóm lại biết phát huy tính tích cực chủ động của HS trong học toán, cũng như khai thác
được khả năng vô tận của các em, thì kết quả học tập của HS sẽ nâng cao rõ rệt. Chúng ta sẽ góp
phần hình thành cho các em các phẩm chất năng động, sáng tạo, những phẩm chất cần thiết
cho con người phát triển toàn diện của thời kỳ đất nước bước vào công nghiệp hóa hiện đại hóa.
*B. Phương pháp dạy học phân hóa đối tượng.

9
DHPH là phương pháp dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá nhân) hoặc
nhóm người học. Ở tiểu học DHPH thường được thể hiện ở việc lấy chuẩn kiến thức kỹ năng làm
nền cơ bản, ngoài kế hoạch dạy học thông thường phân hóa để có những kế hoạch dạy học phù
hợp đưa HS yếu kém đạt chuẩn và giúp các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức
cao hơn.
- Quy trình thực hiện DHPH trong môn toán ở TH thường diễn ra như sau: Đánh giá,
phân loại trình độ, năng lực học toán của HS là Xây dựng kế hoạch, nội dung và lựa chọn hình
thức, PPDH cho phù hợp với từng nhóm đối tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt à Tổ chức triển
khai thực hiện à Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh, hoàn thiện.
1- Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối tượng HS
theo trình độ
- Kết hợp kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: GV cần thận trọng khi
đưa ra kết luận một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào. Do vậy cần phải kết hợp nhiều hình thức
kiểm tra trong dạy học để có kết quả khách quan và chính xác. Ngoài việc kiểm tra định kỳ và kiểm tra
thường xuyên, GV nên có sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý đến
những trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để tiến hành DHPH phù hợp.
- Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho HS tự đánh giá: Hiện nay GV
thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại sâu hơn, GV thiết kế đề kiểm tra
kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá
không theo thang điểm 10 mà là GV ghi nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng
được bao nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của mình đồng thời có
thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
2- Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
DHPH trong môn toán thường được vận dụng vào khâu dạy kiến thức mới; thực hành
giải bài tập toán và giao bài tập về nhà.
- Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lý thuyết:
Kỹ thuật cơ bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm
vụ. HS khá giỏi sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn hoặc nhiều nhiệm vụ hơn hoặc thực hiện không có
sự hướng dẫn. HS TB hoặc yếu sẽ thực hiện ít nhiệm vụ đơn giản hơn hoặc ít hơn, hoặc được

những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn
- Đối với dạng bài toán có lời văn, kỹ thuật nâng dần độ khó thường dùng là:
+ Giữ nguyên bài toán mẫu thay đổi số liệu
+ Thay tình huống bài toán bằng tình huống tương tự cùng bản chất về mối quan hệ
+ Thay một dữ liệu đã cho bằng một bài toán đơn sau đó kết nối bài toán đã cho thành bài
toán phức hợp hơn.
+ Kết hợp nhiều bài toán đơn để tạo ra bài toán phức hợp hơn.
+ Cho tình huống mở, HS tự điền dữ liệu và thực hiện.
+ Cho dữ liệu, HS tự đặt tình huống (ngữ cảnh) và thực hiện.
Về phân loại mức độ khó xét về mục đích dạy học toán để rèn luyện và phát triển tư duy
cho HSTH, tác giả Trần Ngọc Lan đã phân ra làm 3 dạng theo mức độ từ dễ đến khó như sau:
Dạng 1: Các bài tập rèn luyện các thao tác tư duy cơ bản. Chẳng hạn các bài tập dạng cơ
bản đại trà như đọc số, viết số, so sánh số, tính toán thuần túy trong bảng hoặc ngoài bảng, đếm số
hình, đổi đơn vị đo, giải bài toán đơn, )
Ví dụ: Đọc số 195080126 (Toán 4, tr.160, bài 3)
HS đọc Một trăm chín mươi lăm triệu không trăm tám mươi nghìn một trăm hai mươi sáu.
GV hỏi: Để đọc được số này, em thực hiện phân lớp như thế nào? ( phân lớp đơn vị, lớp
nghìn, lớp triệu.
Chữ số 9 trong số trên có giá trị là bao nhiêu? (90000000), chữ số 8 trong số trên có giá trị
bao nhiêu? (80000)
10
Dạng 2: Các bài tập này có ưu thế trong việc rèn luyện và phát triển tư duy hình thức
(như các kỹ năng trình bày, diễn đạt, suy luận logic ). Chẳng hạn các dạng toán “ Tìm số thỏa
mãn điều kiện cho trước, các bài toán có lời văn điển hình, các bài toán có nội dung hình học gắn
liền thực tiễn, bài toán suy luận đơn giản,
Với dạng toán này, khi tổ chức thực hiện GV cần chú ý đến yêu cầu HS trình bày những
lâp luận logic để giải bài toán. Ví dụ: Tìm x biết 57 < x < 62 và a) x là số chẵn; b) x là số lẻ; c) x
là số tròn chục.
- Sau khi HS thực hiện câu a) với kết quả là 58, 60. GV có thể đặt câu hỏi Vì sao x không
thể là 59 và 61 ? (vì x phải là số chẵn) Hoặc x cần tìm thỏa mãn mấy điều kiện. Đó là những điều

kiện nào?
Dạng 3: Một số bài tập có ưu thế trong việc rèn luyện tư duy phê phán, tư duy thuật
giải, tư duy sáng tạo, Chẳng hạn như dạng toán phát hiện lỗi sai và chữa lại cho đúng, tính
nhanh, giải bài toán bằng nhiều cách, bài toán mở , )
Khi tổ chức DHPH nội dung thực hành luyện tập và sửa bài tập toán, thường yêu cầu cao
về năng lực tổ chức và quản lý lớp học của người GV. Do đó GV cần dự kiến về thời gian và biện
pháp sao cho phù hợp nhất để phát huy khả năng của từng HS.
3- Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi DHPH
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm đôi (nhóm đối
ngẫu), nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình độ. Trong DHPH, nhóm hỗn
hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các nhóm là như nhau, với mục đích là HS giỏi sẽ giúp đỡ
HS yếu hơn. Nhóm theo trình độ được sử dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm
khác nhau, như ví dụ nêu ở trên hoặc trong thực hành giải bài tập để mỗi nhóm được yêu cầu làm
những bài tập với độ khó khác nhau.
4- Giao tiếp trong dạy học phân hóa .
Đối với GV, lời nói của GV trong dạy học hoặc giao tiếp với HSTH rất có ý nghĩa vì đặc
điểm tâm lý cơ bản của lứa tuổi này là rất vô tư và hồn nhiên, các em đặt rất nhiều niềm tin vào
giáo viên. Do vậy GV cần có kỹ thuật nói rõ ràng, tốc độ vừa phải dễ nghe, thân thiện nhưng
nghiêm túc và luôn khuyến khích. Không nên gay gắt hay nặng lời với những HS yếu kém. Với
mỗi trường hợp, cần tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ HS phù hợp.
Đối với HS, GV nên khuyến khích HS nói lại bằng ngôn ngữ của mình khi hiểu một nội dung
học tập nào đó. Ví dụ như mô tả lại cách hiểu các mối quan hệ trong một bài toán, cách thực hiện các
bước giải một bài toán, để giúp HS hiểu sâu sắc và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp GV có cơ sở để
đánh giá HS trung thực hơn.
Để DHPH thành công, trong giao tiếp hàng ngày với HS, GV cần lưu ý về sự tinh tế trong
ứng xử đối với các nhóm HS để tạo điều kiện cho mọi HS đều cố gắng vươn lên phát triển tối đa
và tối ưu khả năng của mình, đồng thời cũng lưu ý đến sự “phân biệt” làm tổn thương về mặt tâm
lý đối với HS khi DHPH. Do đó GV cũng lưu tâm đến giáo dục cảm xúc trí tuệ và giáo dục giá trị
cho HS như cần phải yêu thương, giúp đỡ nhau trong học tập, biết trung thực trong học tập, biết
tôn trọng kết quả của mình và của người khác, không coi thường người khác khi mình giỏi hơn,

không bi quan khi mình chưa giỏi như bạn Ngoài ra GV cũng cần tăng cường trao đổi và giao
tiếp tốt với phụ huynh HS hoặc các tổ chức giáo dục ngoài trường để phối hợp trong việc giáo dục
toàn diện cho HS nói chung và môn toán nói riêng.
* C- Minh họa quy trình một số tiết dạy môn Toán vận dụng phương
pháp dạy học phân hóa đối tượng.
Ví dụ 1: Tiết dạy bài mới
11
TIẾT 86: DẤU HIỆU CHIA HẾT CHO 9
I.MỤC TIÊU
- Biết dấu hiệu chia hết cho 9.
- Bước đầu biết vận dụng dấu hiệu chia hết cho 9 trong một số tình huống đơn giản để làm
đúng các bài tập 1,2.
- HS yêu thích môn học.
II .ĐỒ DÙNG DẠY HỌC.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Kiểm tra bài cũ:
- Gọi HS trung bình, yếu nêu dấu hiệu chia hết cho 5; HS khá nêu dấu hiệu chia hết cho cả
2 và 5.
- Hai HS trung bình lên bảng mỗi em viết hai số có 4; 5 chữ số chia hết cho 5; chia hết
cho cả 2 và 5.
- GV nhận xét cho điểm.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài: GV nêu mục đích, yêu cầu của tiết học.
b.Hướng dẫn HS hoạt động
*Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tự tìm ra dấu hiệu chia hết cho 9.
- HS Trung bình, yếu nêu VD về các số chia hết cho 9 và các số không chia hết cho 9, viết
thành hai cột trong vở nháp.
- GVhướng sự chú ý của HS vào cột bên trái để HS nhận ra dấu hiệu chia hết cho 9
- HSKG nêu dấu hiệu chia hết cho 9.
- GV nhận xét, kết luận: HSTB nhắc lại : Các số có tổng các chữ số chia hết cho 9 thì chia

hết cho 9.
- Các số không chia hết cho 9 có đặc điểm gì?
- HSKG rút ra kết luận về các số không chia hết cho 9.
- GV kết luận; HSTB nhắc lại: Các số không có tổng các chữ số chia hết cho 9 thì không
chia hết cho 9.
- HSKG: Nêu căn cứ khác nhau về dấu hiệu chia hết cho 2 hoặc 5 và dấu hiệu chia hết cho 9.
*Hoạt động 3: Thực hành
Bài 1: HS nêu yêu cầu của bài; GV yêu cầu HS nêu cách làm.
- Nếu HS còn lúng túng chưa hiểu cách làm GV có thể hướng dẫn HS làm mẫu một vài số.
(Dành cho HS chậm)
- Gọi một vài HS đọc bài làm của mình và giải thích lý do tại sao chọn các số đó. Cho HS
nhận xét các số bạn chọn xem đã đúng chưa.
- GV củng cố dấu hiệu chia hết cho 9.
Bài 2:- Cho HSTB đọc và nêu lại yêu cầu của đề bài.
- HS tự làm bài vào vở. Cho HS đổi chéo bài để kiểm tra bài cho nhau, sau đó cho HS lên
bảng làm bài.
- Lớp nhận xét, nêu lí do chọn số.
- GV củng cố dấu hiệu không chia hết cho 9.
Bài 3 (dành cho HSKG )
- Cho HS tự làm bài vào vở, sau đó cho vài HS lên bảng viết số chia hết cho 9, GV nhận xét.
- GV củng cố bài toán lập các số chia hết cho 9.
Bài 4 (dành cho HSKG )
- Cho HS nêu yêu cầu của bài tập.
12
- GV hướng dẫn HS tìm một chữ số thích hợp viết vào ô trống để được số chia hết cho 9
bằng cách nhẩm tổng các chữ số rồi tìm chữ số còn thiếu.
- HS tự làm bài, sau đó cho một vài HS lên bảng chữa bài.
- GV nhận xét chốt kết quả đúng.
3. Củng cố dặn dò
- Gọi HSTB, yếu: Nêu dấu hiệu chia hết cho 9?Nêu dấu hiệu không chia hết cho 9.

- GV nhận xét tiết học, dặn HS chuẩn bị bài sau.

Ví dụ: Tiết Ôn luyện.
ÔN: DẤU HIỆU CHIA HẾT CHO 9, CHO 3
1 MỤC TIÊU :
- Củng cố về dấu hiệu chia hết cho 9 và chia hết cho 3. HS làm được các bài tập có liên
quan đến dấu hiệu chia hết cho 9 và chia hết có 3.
- Rèn kĩ năng nhận biết về dấu hiệu chia hết cho 3, cho 9.
- HS biết hợp tác khi làm bài.
2. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC :
a. Kiểm tra bài cũ:
- Gọi HS TB, yếu:
+ Nêu dấu hiệu chia hết cho 3, cho 9. Số chia hết cho 9 có chia hết cho 3 hay không ?
- Gọi HSK:
+ Số chia hết cho 3 có chia hết cho 9 hay không ?
- HSKG nhận xét, nhắc lại.
b. Bài mới : Tiến hành dưới hình thức : Luyện tập – Thực hành
Bài 1: Trong các số sau: 0; 9; 273; 1269; 26814; 106272; 54036; 72729.
a/ Số nào chia hết cho 3.
b/ Số nào chia hết cho 9.
c/ Số nào chia hết cho cả 3 và 9.
- GV gọi 1 HS TB nêu yêu cầu của bài.
- Yêu cầu HS tự làm, GV HD thêm cho HS yêú, TB.
- Gọi 3 HS TB, yêú lên bảng làm và giải thích kết quả.
- GV cùng HS nhận xét và chốt kết quả.
- Gọi HS TB nhắc lại dấu hiệu chia hết cho 3, 9 và chia hết cho cả 3 và 9.
Bài 2: Cho các số 0; 4; 5. Hãy viết tất cả các số chia hết cho cả 3 và 9.
- Yêu cầu HS tự làm bài. 1 HS K lên bảng làm.
- Lớp nhận xét và giải thích, GV chốt kết quả.
Bài 3 (Dành cho HS K, G). Tìm x biết x là số chia hết cho 3 và 359 < x < 370

- Gọi HS TB đọc đề bài.
- GV lưu ý HS :Số phải tìm vừa phải chia hết cho 3 vừa phải lớn hơn 359 và nhỏ hơn 370.
- HS tự làm, GV HD thêm cho HS TB,Y. 1 HS K, G lên làm bài.
- Lớp nhận xét và chốt đáp án.
Bài 4 (Dành cho HS K, G). Tìm x biết x là số chia hết cho 9 và 629 < x < 640
- GV tiến hành tương tự BT3.
c.Củng cố, dặn dò
- HS nhắc lại nội dung bài vừa ôn. GV gọi HS TB, Yếu nhắc lại dấu hiệu chia hết cho 3,
9. Gọi HS K : Số chia hết cho 3 có chia hết cho 9 hay không ?
13
- Nhận xét tiết học. Dặn HS về ôn bài.
IV . Kết quả, hiệu quả mang lại:
Khi giáo viên vận dụng phương pháp dạy học phân hóa đối tượng chất lượng môn Toán
của trường tôi có tiến bộ rõ rệt. Hầu hết tất cả các em đã có phương pháp học tập ở lớp cũng như
việc tự học ở nhà. Những lỗ hổng kiến thức toán học của các em đã dần được bồi đắp. Được động
viên, khích lệ, các em đã mạnh dạn, tự tin hơn trong các hoạt động trong lớp cũng như ngoài giờ.
Được giải và nắm được cách giải các bài toán vừa sức, các em hăng say học tập, hứng thú hơn với
môn Toán. Qua các đợt kiểm tra định kỳ, tôi thấy bài thi của các em đã có kĩ năng giải đúng,
tương đối chính xác các dạng bài tập, việc trình bày bài khoa học hơn, ít nhầm lẫn, lộn xộn. Số
lượng HS khá giỏi được nâng lên; những em đầu năm lực học trung bình đã tiến lên lực học trung
bình khá; số em điểm yếu, kém đã đạt được mức trung bình.
X Loại

Đầu năm Giữa kỳ I Cuối kỳ I
SL % SL % SL %
Giỏi 95 12,1 347 34,6 533 53,4
Khá 209 26,6 345 34,4 277 27,8
Trung bình 366 46,5 226 22,5 167 16,7
Yếu 117 14,9 86 8.6 21 2.1
Số học sinh giỏi môn toán tăng dần lên và học sinh yếu của trường cũng giảm

dần đi như bảng thống kê.
V.Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:
- Từng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong trường tiểu học Phường 9 ở
môn Toán
- Góp phần mở rộng vốn sống, rèn tư duy lô-gich, tư duy suy luận, bồi dưỡng tâm hồn, hình
thành nhân cách cho học sinh.
- Tạo nền tảng cho học sinh học tốt môn Toán cấp Trung học cơ sở.
VI. Kiến nghị, đề xuất:
*Khi dạy bài mới hay luyện tập, luyện tập chung, ôn tập toán, giáo viên cần chú ý một số
điểm sau:
+ Khi soạn bài thì phải phân hóa đối tượng trong từng tiết dạy.
+ Việc huy động kiến thức cũ để hình thành kiến thức mới phải duy trì thường xuyên trong từng
bài soạn (nếu có) để học sinh – giáo viên thấy được sự đồng tâm, mở rộng của chương trình.
+ Trong quá trình dạy học nên khuyến khích học sinh tìm được nhiều cách giải tối ưu, biết lật đi
lật lại vấn đề đó chính là tìm được lối đi ( Không nhất thiết yêu cầu học thuộc quy tắc nào cả ).
+ Các cấp lãnh đạo: Cần tổ chức mở chuyên đề, hội thảo phổ biến việc vận dụng các
phương pháp tích cực vào việc dạy học toán như: Dạy học phân hóa đối tượng, Phương pháp dạy
học các bài luyện tập, thực hành để mọi giáo viên cùng thực hiện.
Rất mong được sự góp ý của quý đồng nghiệp./
Ý kiến xác nhận của Thủ trưởng đơn vị Người báo cáo
………………………………… ……….
…………………………………………….
…………………………………………….
……………………………………………. Nguyễn Thị Hoa

×