Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

hóa chất nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1007.43 KB, 32 trang )

TRƯỜNG HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
(Vietnam National University of Agriculture)
KHOA MÔI TR NGƯỜ
TIỂU LUẬN HÓA CHẤT DUNG TRONG NÔNG NGHIỆP
& Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Đ
Ề TÀI: “ Xây dựng phương án đánh giá khả năng ảnh hưởng của tính
trạng sử dụng hóa chất dùng trong nông nghiệp tới môi trường tại xã Xuân
Nộn, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.”
Sinh viên làm bài: Lê Thị Thu Trinh
Lớp: CDK4MTB Mã sinh viên: 578316
GIÁO VIÊN H NG D NƯỚ Ẫ : PGS.TS. NGUY N NHỄ Ư
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 1

HÀ N

I 2014
1.
Đ
ặt vấn đề.
S

d

ng phân bón hoá h

c và h

p ch

t b



o v

th

c v

t là chìa
khoá thành công c

a cu

c cách m

ng xanh, trong n

n nông
nghi

p, công nghi

p hoá (nông nghi

p đ

u t
ư
cao) đ

đ


m b

o nhu
c

u v

l
ươ
ng th

c, th

c ph

m. Tuy nhiên, nh

ng năm g

n đây có
nhi

u d

u hi

u đáng lo ng

i do s




nh h
ưở
ng c

a phân bón hoá
h

c, hoá ch

t b

o v

th

c v

t đ
ế
n môi tr
ườ
ng và s

c kho

con
ng

ườ
i. V

n đ

này không ch

x

y ra

các n
ướ
c phát tri

n mà nó
đang ngày tr

nên nghiêm tr

ng

các n
ướ
c đang phát tri

n.
Vi
ệt Nam là nước sản xuất nông nghiệp, khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm
của Việt Nam thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng nhưng cũng thuận

lợi cho sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, cỏ dại gây hại mùa màng. Do
vậy việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) để phòng trừ sâu hại dịch
bệnh bảo vệ mùa màng, giữ vững an ninh lương thực quốc gia vẫn là một
biện pháp quan trọng và chủ yếu. Cùng với phân bón hóa học, thuốc BVTV
là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm an ninh lương thực cho loài người.
Ngoài mặt tích cực là tiêu diệt các sinh vật gây hại mùa màng, thuốc
BVTV còn gây nhiều hậu quả nghiêm trọng như: phá vỡ cân bằng hệ sinh
thái đồng ruộng, gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường sống và ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng và cả cho người sản xuất.
Xuân Nộn là một xã của huyện Đông Anh, dân số đông và sống chủ
yếu bằng nghề nông. Việc sử dụng hóa chất trong ngành nông nghiệp của
xã Xuân Nộn khá lớn và mức độ ảnh hưởng của nó cũng là một vấn đề mà
chúng ta cần quan tâm nhiều hơn.
Vì vậy, việc tìm hiểu mức độ sử dụng hóa chất BVTV ở xã Xuân Nộn,
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 2
ảnh hưởng của thuốc BVTV đến môi trường sống nhằm bổ sung những
kiến thức đã học và nâng cao nhận thức trong việc bảo vệ môi trường sống
cho cộng đồng là rất cần thiết đối với những sinh viên ngành môi trường.
2.
Hoá chất dùng trong nông nghiệp.
Hóa chất dung trong nông nghiệp bao gồm các hóa chất dung trong
trồng trọt và chăn nuôi.
Thuốc BVTV là những hợp chất hoá học (vô cơ, hữu cơ), những chế
phẩm sinh học (chất kháng sinh, vi khuẩn, nấm, siêu vi trùng, tuyến trùng,
…), những chất có nguồn gốc thực vật, động vật, được sử dụng để bảo vệ
cây trồng và nông sản, chống lại sự phá hại của những sinh vật gây hại (côn
trùng, nhện, tuyến trùng, chuột, chim, thú rừng, nấm, vi khuẩn, rong rêu, cỏ
dại, …).
Phân bón là những chất hoặc hợp chất có chứa một hay nhiều chất dinh
dưỡng thiết yếu đối với cây trồng, giúp cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt

cho năng suất, chất lượng cao hoặc làm tăng độ phì nhiêu của đất. Phân bón
là dinh dưỡng do con người bổ sung cho cây trồng. Trong quá trình sử dụng
chúng có thể tác đọng và gây ảnh hưởng tới môi trường.
Căn cứ vào nguồn gốc, phân bón sử dụng trong nông lâm nghiệp được
chia làm 3 loại:
- Phân hóa học: Là loại phân bón được sản xuất theo qui trình công
nghiệp. Trong quá trình sản xuất có sử dụng một số nguyên liệu tự nhiên
hoặc tổng hợp. Tùy thuộc vào nguyên tố dinh dưỡng có chứa trong phân
bón, phân hóa học có thể là phân đạm, lân, kali, canxi, lưu huỳnh… Phân
hóa học có thể là phân đơn (chứa 1 nguyên tố dinh dưỡng), phân đa nguyên
tố (chứa 2 hoặc nhiều nguyên tố dinh dưỡng).
- Phân hữu cơ: – Bao gồm các loại phân có nguồn gốc từ động thực vật
như phân chuồng , phân xanh và các loại phân chế biến. Dùng bón cho đất
để làm tăng độ phì nhiêu của đất.
- Phân vi sinh: Là phân bón có chứa các loài vi sinh vật có định đạm,
chuyển hóa lân hoặc vi sinh vật phân giải chất hữu cơ.
Các chất phụ gia cho thực phẩm, thức ăn chăn nuôi không có độc tính
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 3
trường diễn.
Thuốc thú y có độc tính cao, nếu dung không đúng, quá liều, không
đúng chỉ định có thể gây ngộ độc cho vật nuôi và ảnh hưởng xấu tới môi
trường.
3.
Một số loại phân thường dung trong nông nghiệp.
Phân hóa học hay phân vô cơ là những hóa chất chứa các chất dinh
dưỡng thiết yếu cho cây được bón vào cây nhằm tăng năng suất, có các loại
phân bón hóa học chính: phân đạm, phân lân, phân kali, phân phức hợp,
phân hỗn hợp, phân vi lượng.

Phân đạm


Hình 1: Phân đạm
Phân đạm là tên gọi chung của các loại phân bón vô cơ cung
cấp đạm cho cây.
Đạm là chất dinh dưỡng rất cần thiết và rất quan trọng đối với cây. Đạm
là nguyên tố tham gia vào thành phần chính của clorophin, prôtit, các axit
amin, các enzym và nhiều loạivitamin trong cây. Bón đạm thúc đẩy quá
trình tăng trưởng của cây, làm cho cây ra nhiều nhánh, phân cành, ra lá
nhiều; lá cây có kích thước to, màu xanh; lá quang hợp mạnh, do đó làm
tăng năng suất cây.
Phân đạm cần cho cây trong suốt quá trình sinh trưởng, đặc biệt là giai
đoạn cây sinh trưởng mạnh.
Có các loại phân đạm thường dùng sau đây:
-
Phân urê
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 4
Phân urê (CO(NH
2
)
2
) có 44–48% nitơ nguyên chất. Loại phân này
chiếm 59% tổng số các loại phân đạm được sản xuất ở các nước trên thế
giới. Urê là loại phân có tỷ lệ nitơ cao nhất. Trên thị trường có bán 2 loại
phân urê có chất lượng giống nhau:
+ Loại tinh thể màu trắng, hạt tròn, dễ tan trong nước, có nhược điểm là hút
ẩm mạnh.
+ Loại có dạng viên, nhỏ như trứng cá. Loại này có thêm chất chống ẩm
nên dễ bảo quản, dễ vận chuyển nên được dùng nhiều trong sản xuất nông
nghiệp.
Phân urê có khả năng thích nghi rộng và có khả năng phát huy tác dụng

trên nhiều loại đất khác nhau và đối với các loại cây trồng khác nhau. Phân
này bón thích hợp trên đất chua phèn.
Phân urê được dùng để bón thúc. Có thể pha loãng theo nồng độ 0.5–
1.5% để phun lên lá.
Trong chăn nuôi, urê được dùng trực tiếp bằng cách cho thêm vào khẩu
phần thức ăn cho lợn, trâu bò. Phân này cần được bảo quản kỹ trong túi
pôliêtilen và không được phơi ra nắng. Bởi vì khi tiếp xúc với không khí và
ánh nắng urê rất dễ bị phân huỷ và bay hơi. Các túi phân urê khi đã mở ra
cần được dùng hết ngay trong thời gian ngắn.
Trong quá trình sản xuất, urê thường liên kết các phần tử với nhau tạo
thành biuret. Đó là chất độc hại biuret đối với cây trồng. Vì vậy, trong phân
urê không được có quá 1,5% biuret (theo Tiêu chuẩn Việt Nam).
-
Phân amoni nitrat
Phân amôn nitrat (NH
4
NO
3
) có chứa 33–35% nitơ nguyên chất. Ở các
nước trên thế giới loại phân này chiếm 11% tổng số phân đạm được sản
xuất hàng năm.
Phân này ở dưới dạng tinh thể muối kết tinh có màu vàng xám. Amôn
nitrat dễ chảy nước, dễ tan trong nước, dễ vón cục, khó bảo quản và khó sử
dụng. Là loại phân sinh lý chua. Tuy vậy, đây là loại phân bón quý vì có
chứa cả NH
4
+ và cả NO
3
-, phân này có thể bón cho nhiều loại cây trồng
trên nhiều loại đất khác nhau. Amôn nitrat bón thích hợp cho nhiều loại cây

trồng cạn như thuốc lá, bông, mía, ngô…
Phân này được dùng để pha thành dung dịch dinh dưỡng để tưới cây
trong nhà kính và tưới bón thúc cho nhiều loại rau, cây ăn quả.
-
Phân amoni sunphat
Còn gọi là phân SA, sunphat đạm (NH
4
)
2
SO
4
có chứa 20–21% nitơ
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 5
nguyên chất. Trong phân này còn có 24-25% lưu huỳnh (S). Trên thế giới
loại phân này chiếm 8% tổng lượng phân hoá học sản xuất hàng năm. Phân
này có dạng tinh thể, mịn, màu trắng ngà hoặc xám xanh. Phân này có mùi
nước tiểu (mùi amôniac), vị mặn và hơi chua. Cho nên nhiều nơi gọi là
phân muối diêm.
Sunphat đạm là loại phân bón tốt vì có cả N và lưu huỳnh là hai chất
dinh dưỡng thiết yếu cho cây.
Phân này dễ tan trong nước, không vón cục. Thường ở trạng thái tơi rời,
dễ bảo quản, dễ sử dụng. Tuy nhiên, nếu để trong môi trường ẩm phân dễ
vón cục, đóng lại thành từng tảng rất khó đem bón cho cây.
Có thể đem bón cho tất cả các loại cây trồng, trên nhiều loại đất khác
nhau, miễn là đất không bị phèn, bị chua. Nếu đất chua cần bón thêm vôi,
lân mới dùng được đạm sunphat amôn. Phân này dùng tốt cho cây trồng
trên đất đồi, trên các loại đất bạc màu (thiếu S).
Đạm sunphat được dùng chuyên để bón cho các loài cây cần nhiều S và
ít N như đậu đỗ, lạc v.v. và các loại vây vừa cần nhiều S vừa cần nhiều N
như ngô.

Cần lưu ý đạm sunphat là loại phân có tác dụng nhanh, rất chóng phát
huy tác dụng đối với cây trồng, cho nên thường được dùng để bón thúc và
bón thành nhiều lần để tránh mất đạm.
Khi bón cho cây con cần chú ý là phân này dễ gây cháy lá. Không nên
sử dụng phân đạm sunphat để bón trên đất phèn, vì phân dễ làm chua thêm
đất.
-
Phân amoni clorua
Phân này (NH
4
Cl) có chứa 24–25% nitơ nguyên chất. Đạm clorua có
dạng tinh thể mịn, màu trắng hoặc vàng ngà. Phân này dễ tan trong nước, ít
hút ẩm, không bị vón cục, thường tơi rời nên dễ sử dụng. Là loại phân sinh
lý chua. Vì vậy, nên bón kết hợp với lân và các loại phân bón khác. Đạm
clorua không nên dùng để bón cho thuốc lá, chè, khoai tây, hành, tỏi, bắp
cải, vừng, v.v.
Ở các vùng khô hạn, ở các chân đất nhiễm mặn không nên bón phân
đạm clorua, vì ở những nơi này trong đất có thể tích luỹ nhiều clo, dễ làm
cho cây bị ngộ độc.
-
Phân Xianamit canxi
Phân này có dạng bột không có tinh thể, màu xám tro hoặc màu trắng,
đốt không có mùi khai. Xianamit canxi có chứa 20 – 21% N nguyên chất,
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 6
20 – 28% vôi, 9 – 12% than. Vì có than cho nên phân có màu xám đen.
Cũng có loại phân tỷ lệ than thấp hoặc không có than nên phân có màu
trắng. Cần chú ý chống ẩm cho phân khi bảo quản, bởi vì nếu phân hút ẩm
sẽ bị biến chất, hạt phân phình to lên làm rách bao bì và làm hỏng dụng cụ
đựng. Phân này dễ bốc bụi. Khi bám vào da sẽ làm hỏng da, phân bay vào
mắt sẽ làm hỏng giác mạc mắt, vì vậy khi sử dụng phân này phải rất cẩn

thận. Phân này có phản ứng kiềm, bởi vậy có thể khử được chua, dùng rất
tốt ở các loại đất chua. Xianamit canxi thường được dùng để bón lót. Muốn
dùng để bón thúc phải đem ủ trước khi bón. Bởi vì phân này khi phân giải
tạo ra một số chất độc có thể làm hỏng móng chân trâu bò, hại da chân
người nông dân. Thường sau 7 – 10 ngày các chất độc mới hết. Thưởng
xianamit canxi được trộn ủ với phân rác làm cho phân chóng hoai mục.
Phân này không được dùng để phun lên lá cây.
-
Phân amoni photphat
Là loại phân vừa có đạm, vừa có lân. Trong phân có tỷ lệ đạm là 10-
18%, tỷ lệ lân là 44-50%. Phôtphat đạm có dạng viên, màu xám tro hoặc
trắng,nói chung màu sắc tùy thuộc vào nhà sản xuất và không ảnh hưởng
tới chất lượng. Trên thị trường hiện nay đang lưu hành hai loại phân bón
ammonphot là DAP(18-46-0)và MAP(10-50-0) Phân dễ chảy nước. Vì vậy,
người ta thường sản xuất dưới dạng viên và được đựng trong các bao
nilông. Phân rất dễ tan trong nước và phát huy hiệu quả nhanh. Phân được
dùng để bón lót, bón thúc đều tốt. Phân là loại dễ sử dụng. Phân DAP là
loại phân trung tính nên có thể sử dụng trên các loại đất khác nhau, còn
phân MAP là loại chua sinh lý(pH: 4-4.5) nên không thích hợp đối với các
loại đất chua. Phân có tỷ lệ đạm hơi thấp so với lân, cho nên cần bón phối
hợp với các loại phân đạm khác, nhất là khi bón cho các loại cây cần nhiều
đạm.

Những điều cần chú ý khi sử dụng phân đạm
Ở nước ta có 3 loại phân đạm thường được dùng phổ biến nhất, đó là:
phân urê, phân amôn sunphat và phân amôn phôtphat. Khi được sử dụng
hợp lý, 1 kg N nguyên chất có thể thu được 10 – 22 kg thóc hoặc 25 –
35 kg ngô hạt. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các loại phân hoá học cần chú
ý đến những điểm sau đây:
-

Phân cần được bảo quản trong các túi nilông. Chỗ để phân cần thoáng
mát, khô ráo, mái kho không bị dột. Không để chung phân đạm cùng
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 7
với các loại phân khác.
-
Cần bón đúng đặc tính và nhu cầu của cây trồng. Cây có những đặc tính
rất khác nhau. Nhu cầu của cây đối với N cũng rất khác nhau. Có cây
yêu cầu nhiều N, có cây yêu cầu ít. Nếu bón N nhiều, vượt quá yêu cầu
của cây, N cũng gây ra những tác hại đáng kể. Bón đúng yêu cầu của
cây, N phát huy tác dụng rất tốt.
-
Cần bón đúng dạng phân theo đặc điểm của cây và của đất đai. Đối với
các loại cây trồng cạn như: ngô, mía, bông v.v bón đạm nitrat là thích
hợp, nhưng đối với lúa nước nên bón đạm clorua hoặc SA. Đối với các
loại cây họ đậu nên bón đạm sớm, trước khi nốt sần được hình thành
trên rễ cây. Khi trên rễ cây đã có các nốt sần, không nên bón đạm, vì
đạm ngăn trở hoạt động cố định đạm từ không khí của các loài vi khuẩn
nốt sần.
-
Cần bón đạm đúng với đặc điểm của đất:
Phân có tính kiềm nên bón cho đất chua. Phân chua sinh lý nên bón cho
đất kiềm. Đất lầy thụt, nhiều bùn không cần bón phân đạm.
-
Cần bón đạm đúng lúc. Tốt nhất là bón vào thời kỳ sinh trưởng mạnh
nhất của cây.
-
Cần bón đạm đúng liều lượng và cân đối với lân và kali.
-
Bón phân đạm cần lưu ý đến diễn biến của thời tiết. Không bón lúc mưa
to, lúc ruộng vườn đầy nước.

-
Không bón đạm tập trung vào một lúc, một chỗ, mà cần chia thành
nhiều lần để bón và bón vãi đều trên mặt đất ở những nơi cần bón.
Không bón đạm quá thừa. Vì khi thừa đạm, cây phát triển mạnh, dễ đổ
ngã, ra hoa chậm, ít hạt, hạt lép nhiều, quả dễ rụng, nhiều sâu bệnh,
phẩm chất quả giảm. Tốn tiền mua phân đạm mà không thu được kết
quả gì, gây lãng phí.
-
Bón phân đạm cần kết hợp với làm cỏ, xới đất, sục bùn (đối với lúa).
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 8

Phân lân
Hình 2: phân lân
Lân có vai trò quan trọng trong đời sống của cây trồng. Lân có trong
thành phần của hạt nhân tế bào, rất cần cho việc hình thành các bộ phận
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 9
mới của cây. Lân tham gia vào thành phần các enzim, các prôtêin, tham gia
vào quá trình tổng hợp các axit amin. Lân kích thích sự phát triển của rễ
cây, làm cho rễ ăn sâu vào đất và lan rộng ra chung quanh, tạo thêm điều
kiện cho cây chống chịu được hạn và ít đổ ngã. Lân kích thích quá trình đẻ
nhánh, nảy chồi, thúc đẩy cây ra hoa kết quả sớm và nhiều. Lân làm tăng
đặc tính chống chịu của cây đối với các yếu tố không thuận lợi: chống rét,
chống hạn, chịu độ chua của đất, chống một số loại sâu bệnh hại v.v… Ở
một số loại đất trên nước ta, lân trở thành yếu tố hạn chế đối với năng suất
cây trồng. Đặc biệt ở hầu hết các loại đất trồng lúa ở các tỉnh phía Nam.
Thiếu lân không những làm cho năng suất cây trồng giảm mà còn hạn chế
hiệu quả của phân đạm. Hiệu suất của phân lân khá cao. Trên một số loại
đất ở Tây Nguyên bón 1 kg P2O5 cho hiệu quả thu được 4,3 – 7,5 kg cà
phê nhân, 8,5 kg thóc. Ở các vùng đất phèn mới khai hoang, hiệu suất của
phân lân càng cao hơn, 1 kg P2O5 mang lại 9,0 kg thóc, ở mức bón 40 –

60 kg P2O5/ha. Bón quá nhiều phân lân trong nhiều trường hợp có thể làm
cho cây bị thiếu một số nguyên tố vi lượng. Vì vậy, cần bón thêm phân vi
lượng, nhất là Zn.
-
Phôtphat nội địa
Đó là loại bột mịn mang, màu nâu thẫm hoặc đôi khi có màu nâu nhạt.
Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi rất nhiều, từ 15% đến 25%. Loại
phân thường có trên thị trường có tỷ lệ là 15 – 18%. Trong phân phôtphat
nội địa, phần lớn các hợp chất lân nằm ở dạng khó tiêu đối với cây trồng.
Phân có tỷ lệ vôi cao, cho nên có khả năng khử chua. Vì lân trong phân ở
dưới dạng khó tiêu, cho nên phân chỉ dùng có hiệu quả ở các chân đất chua.
Ở các chân ruộng không chua, hiệu lực của loại phân này thấp; ở loại đất
này, loại phân này dùng bón cho cây phân xanh có thể phát huy được hiệu
lực. Phân này chỉ nên dùng để bón lót, không dùng để bón thúc. Khi sử
dụng có thể trộn với phân đạm để bón, nhưng trộn xong phải đem bón
ngay, không được để lâu. Phân này dùng để ủ với phân chuồng rất tốt. Phân
phôtphat nội địa ít hút ẩm, ít bị biến chất, cho nên có thể cất giữ được lâu.
Vì vậy, bảo quản tương đối dễ dàng.
-
Phân apatit
Là loại bột mịn, màu nâu đất hoặc màu xám nâu. Tỷ lệ lân nguyên chất
trong phân thay đổi nhiều. Thường người ta chia thành 3 loại: loại apatit
giàu có trên 38% lân; loại phân apatit trung bình có 17 – 38% lân; loại phân
apatit nghèo có dưới 17% lân. Thường loại apatit giàu được sử dụng để chế
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 10
biến thành các loại phân lân khác, còn loại trung bình và loại nghèo mới
được đem nghiền thành bột để bón cho cây. Phần lớn lân trong phân apatit
ở dưới dạng cây khó sử dụng. Apatit có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử
chua cho đất. Phân này được sử dụng tương tự như phôtphat nội địa. Sử
dụng và bảo quản phân này tương đối dễ dàng vì phân ít hút ẩm và ít biến

chất.
-
Supe lân
Là loại bột mịn màu trắng, vàng xám hoặc màu xám thiếc. Một số
trường hợp supe lân được sản xuất dưới dạng viên. Trong supe lân có 16 –
20% lân nguyên chất. Ngoài ra, trong phân này có chứa một lượng lớn
thạch cao. Trong phân còn chứa một lượng khá lớn axit, vì vậy phân có
phản ứng chua. Phân dễ hoà tan trong nước cho nên cây dễ sử dụng. Phân
thường phát huy hiệu quả nhanh, ít bị rửa trôi. Supe lân có thể dùng để bón
lót hoặc bón thúc đều được. Phân này có thể sử dụng để bón ở các loại đất
trung tính, đất kiềm, đất chua đều được. Tuy nhiên, ở các loại đất chua nên
bón vôi khử chua trước khi bón supe lân. Supe lân có thể dùng để ủ với
phân chuồng. Nếu supe lân quá chua, cần trung hoà bớt độ chua trước khi
sử dụng. Có thể dùng phôtphat nội địa hoặc apatit. Nếu đất chua nhiều
dùng 15 – 20% apatit để trung hoà, đất chua ít dùng 10 – 15%. Nếu dùng
tro bếp để trung hoà độ chua của supe lân thì dùng 10 – 15%, nếu dùng vôi
thì tỷ lệ là 5 – 10%. Phân supe lân thường phát huy hiệu quả nhanh, cho
nên để tăng hiệu lực của phân, người ta thường bón tập trung, bón theo hốc,
hoặc sản xuất thành dạng viên để bón cho cây. Phân này có thể dùng để hồ
phân rễ mạ. Supe lân ít hút ẩm, nhưng nếu cất giữ không cẩn thận phân có
thể bị nhão và vón thành từng cục. Phân có tính axit nên dễ làm hỏng bao
bì và dụng cụ đong đựng bằng sắt.
-
Tecmô phôtphat (phân lân nung chảy, lân Văn Điển)
Phân có dạng bột màu xanh nhạt, gần như màu tro, có óng ánh. Tỷ lệ
lân nguyên chất trong tecmô phôtphat là 15 – 20%. Ngoài ra trong phân
còn có canxi 30% một ít thành phần kiềm, chủ yếu là magiê 12 – 13%, có
khi có cả kali. Tecmô phôtphat có phản ứng kiềm, cho nên không nên trộn
lẫn với phân đạm vì dễ làm cho đạm bị mất. Phân này không tan trong
nước, nhưng tan được trong axit yếu. Cây sử dụng dễ dàng. Phân có thể sử

dụng để bón lót hoặc bón thúc đều tốt. Tecmô phôtphat phát huy hiệu lực
tốt ở các vùng đất chua, vì phân có phản ứng kiềm. Phân sử dụng có hiệu
quả trên các vùng đất cát nghèo, đất bạc màu vì phân chứa nhiều vôi, có
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 11
các nguyên tố vi lượng và một ít kali. Phân này thường được bón rải, ít khi
bón tập trung và ít được sản xuất dưới dạng viên. Không sử dụng tecmô
phôtphat để hồ phần rễ mạ. Tecmô phôtphat ít hút ẩm, luôn ở trong trạng
thái tơi rời và không làm hỏng dụng cụ đong đựng.
-
Phân lân kết tủa
Phân có dạng bột trắng, nhẹ, xốp trong giống như vôi bột. Phân có tỷ lệ
lân nguyên chất tương đối cao, đến 27 – 31%. Ngoài ra trong thành phần
của phân có một ít canxi. Phân này được sử dụng tương tự như tecmô
phôtphat. Phân ít hút ẩm cho nên bảo quản dễ dàng.

Phân kali
Hình 3: Phân kali
Nhóm phân bón cung cấp chất dinh dưỡng kali cho cây. Kali có vai trò
chủ yếu trong việc chuyển hoá năng lượng trong quá trình đồng hoá các
chất dinh dưỡng của cây. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối
với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại
bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu
hạn, chịu rét. Kali làm tăng phẩm chất nông sản và góp phần làm tăng năng
suất của cây. Kali làm tăng hàm lượng đường trong quả làm cho màu sắc
quả đẹp tươi, làm cho hương vị quả thơm và làm tăng khả năng bảo quản
của quả. Kali làm tăng chất bột trong củ khoai, làm tăng hàm lượng đường
trong mía. Trên phương diện khối lượng, cây trồng cần nhiều K hơn N.
Nhưng vì trong đất có tương đối nhiều K hơn N và P, cho nên người ta ít
chú ý đến việc bón K cho cây. Trong cây K được dự trữ nhiều ở thân lá,
rơm rạ, cho nên sau khi thu hoạch kali được trả lại cho đất một lượng lớn.

SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 12
Kali có nhiều trong nước ngầm, nước tưới, trong đất phù sa được bồi hàng
năm. Vì vậy, việc bón phân kali cho cây không được chú ý đến nhiều. Hiện
nay, trong sản xuất nông nghiệp càng ngày người ta càng sử dụng nhiều
giống cây trồng có năng suất cao. Những giống cây trồng này thường hút
nhiều K từ đất, do đó lượng K trong đất không đủ đáp ứng nhu cầu của cây,
vì vậy muốn có năng suất cao và chất lượng nông sản tốt, thì phải chú ý
bón phân kali cho cây. Mặt khác, các bộ phận thân lá cây, rơm rạ, v.v sau
khi thu hoạch sản phẩm chính của nông nghiệp, hiện nay được sử dụng
nhiều để nuôi trồng nấm, làm vật liệu độn chuồng, làm chất đốt, v.v và bị
đưa ra khỏi đồng ruộng, vì vậy, việc bón kali cho cây càng trở nên cần
thiết. Những nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học cho thấy trừ đất phù
sa sông Hồng có hàm lượng kali tương đối khá, còn lại phần lớn các loại
đất ở nước ta đều nghèo kali. Hàm lượng kali ở các loại đất này thường là
dưới 1%. Ở các loại đất xám, đất cát, đất bạc màu, đất nhẹ ở miền Trung
nước ta, kali có ý nghĩa rất lớn trong việc làm tăng năng suất cây trồng.
Kali cũng cho kết quả tốt trên đất xám Đông Nam Bộ. Để sử dụng hợp lý
phân kali cần chú ý đến những điều sau đây:
+ Bón kali ở các loại đất trung tính dễ làm cho đất trở nên chua. Vì vậy ở
các loại đất trung tính nên kịp thời bón thêm vôi.
+ Kali nên bón kết hợp với các loại phân khác.
+ Kali có thể bón thúc bằng cách phun dung dịch lên lá vào các thời gian
cây kết hoa, làm củ, tạo sợi.
+ Có thể bón tro bếp để thay thế phân kali.
+ Bón quá nhiều kali có thể gây tác động xấu lên rễ cây, làm cây teo rễ.
Nếu bón quá thừa phân kali trong nhiều năm, có thể làm cho mất cân đối
với natri, magiê. Khi xảy ra trường hợp này cần bón bổ sung các nguyên tố
vi lượng magiê, natri.
Các loại cây có phản ứng tích cực với phân kali là: chè, mía, thuốc lá,
dừa, chuối, khoai, sắn, bông, đay, v.v

-
Phân kali clorua
Phân có dạng bột màu hồng như muối ớt. Nông dân ở một số nơi gọi là
phân muối ớt. Cũng có dạng clorua kali có màu xám đục hoặc xám trắng.
Phân được kết tinh thành hạt nhỏ. Hàm lượng kali nguyên chất trong phân
là 50 – 60%. Ngoài ra trong phân còn có một ít muối ăn (NaCl). Clorua kali
là loại phân chua sinh lý. Phân này khi để khô có độ rời tốt, dễ bón. Nhưng
nếu để ẩm phân kết dính lại với nhau khó sử dụng. Hiện nay, phân clorua
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 13
kali được sản xuất với khối lượng lớn trên thế giới và chiếm đến 93% tổng
lượng phân kali. Cloria kali có thể dùng để bón cho nhiều loại cây trên
nhiều loại đất khác nhau. Có thể dùng phân này để bón lót hoặc bón thúc.
Bón thúc lúc cây sắp ra hoa làm cho cây cứng cáp, tăng chất lượng nông
sản. Clorua kali rất thích hợp với cây dừa vì dừa là cây ưa clo. Không nên
dùng phân này để bón vào đất mặn, là loại đất có nhiều clo, và không bón
cho thuốc lá là loại cây không ưa clo. Phân này cũng không nên dùng bón
cho một số loài cây hương liệu, chè, cà phê, vì phân ảnh hưởng đến chất
lượng nông sản.
-
Phân kali sunphat
Phân có dạng tinh thể nhỏ, mịn, màu trắng. Phân dễ tan trong nước, ít
hút ẩm nên ít vón cục. Hàm lượng kali nguyên chất trong sunphat kali là 45
– 50%. Ngoài ra trong phân còn chứa lưu huỳnh 18%. Phân này có thể sử
dụng thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Sử dụng có hiệu quả cao đối với
cây có dầu, rau cải, thuốc lá, chè, cà phê. Sunphat kali là loại phân chua
sinh lý. Sử dụng lâu trên một chân đất có thể làm tăng độ chua của đất.
Không dùng sunphat kali liên tục nhiều năm trên các loại đất chua, vì phân
có thể làm tăng thêm độ chua của đất.
-
Một số loại phân kali khác

Phân kali – magie sunphat có dạng bột mịn màu xám. Phân có hàm
lượng K2O: 20 – 30%; MgO: 5 – 7%; S: 16 – 22%. Phân này được sử dụng
có hiệu quả trên đất cát nghèo, đất bạc màu. Phân "Agripac" của Canada có
hàm lượng K2O là 61%. Đây là loại phân khô, hạt to, không vón cục, dễ
bón, thường được dùng làm nguyên liệu để trộn với các loại phân bón khác
sản xuất ra phân hỗn hợp. Muối kali 40% có dạng muối trắng kết tinh có
lẫn một ít vảy màu hồng nhạt. Ngoài hàm lượng kali chiếm 40% trong khối
lượng phân, trong thành phần của phân còn có muối ăn với tỷ lệ cao hơn
muối ăn trong phân clorua kali. Phân này cần được sử dụng hạn chế trên
các loại đất mặn.
4.
Đặc điểm tự nhiên ảnh hưởng tới nông nghiệp.
Xã Xuân Nộn nằm ở phía bắc của huyện Đông Anh, có địa hình khá là
bằng phẳng.
Với khí hậu nhiệt đới, ẩm là điều kiện tốt cho sự sinh trưởng và phát
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 14
triển của cây trồng.
Đất phù sa được bồi đắp hàng năm bởi sông Cà Lồ(khoảng 30% diện
tích đất). Đặc điểm của nhóm đất này là có tầng đất dày, thành phần cơ giới
nhẹ, hàm lượng mùn và chất dinh dưỡng tương đối cao, kết cấu tơi xốp, giữ
nước và giữ phân tốt.
Hình: sông Cà Lồ
Đất phù sa không được bồi hàng năm (khoảng 50% diện tích đất), tập
trung ở khu vực trong đê, đất này được phát triển trên đất phù sa cổ. Đặc
điểm nhóm đất này là tầng canh tác trung bình, có thành phần cơ giới nhẹ
và trung bình, hàm lượng dinh dưỡng khá đến trung bình.
Vì vậy mà các loại cây trồng và cỏ dại, các loại sâu bệnh phát triển tốt.
Và việc sử dụng hóa chất BVTV để diệt cỏ dại, sâu bệnh là rất phổ biến của
người dân nơi đây.
Ngoài ra thì có khoảng 20% diện tích đất là đất xám bạc màu và nâu

vàng. Loại đất này có tầng canh tác nông, phân bố trên địa hình cao, vàn
cao, thành phần cơ giới nhẹ và trung bình,kết cấu rời rạc, giữ phân, giữ
nước kém, đất chua và nghèo dinh dưỡng. do đó mà phân bón hóa học và
thuốc kích thích sinh trưởng cây trồng là được sử dụng một cách triệt để.
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 15
Hình: đất xám, bạc màu
5.
Tình hình sản xuất và sử dụng hóa chất trong nông nghiệp.
Phần lớn thu nhập của người dân trên địa bàn xã Xuân Nộn là từ sản
xuất nông nghiệp.
Hình: ruộng đồng ở xã Xuân Nộn
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 16
Hình: lúa mà người dân đã làm
Xã Xuân Nộn, có hơn 2700 hộ sản xuất nông nghiệp với tổng diện tích
gieo trồng là 1168 ha. Trong đó thì có 30 ha cây ngô giống và giống lúa
CXT 30, 9,3 tấn thóc khang dân, BC 15 và và một số giống lúa khác.
Những loại cây trồng chủ yếu và trên khoảng diện tích:
STT Loại cây trồng Diện tích gieo trồng
(đơn vị: ha)
1 Lúa 647
2 Ngô 35
3 Lạc 50
4 Đậu tương 40
5 Rau(su hào, bắp cải, bí đao, rau
muống,…)
167
6 Khoai (khoai tây, khoai lang) 40
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 17
7 Cà (cà chua, cà tím) 20
8 Và một số cây trồng khác 179

Bảng 1: Loại cây trồng chính ở xã Xuân Nộn ( số liệu năm 2013)
Những loại phân bón và hóa chất BVTV dung chủ yếu:
-
Phân bón NPK 12-5-10 (công ty Hà Anh).
-
Phân bón supe lân lâm thao (công ty supe phốt phát và hóa chất lâm
thao).
-
Phân NPK 13-13-13+ TE.
-
Đạm UREA- Hà Bắc.
-
Kali Belarus- C.L.S (công ty Hà Anh).
-
Và các loại thuốc BVTV trị các loại sâu bệnh: bọ trĩ, rầy nâu, rầy trắng,
sâu đất, sâu xanh, nấm, sâu đục thân,…
6.
Tình hình sử dụng thuốc BVTV của xã Xuân nộn trong những năm qua.
Những vụ sản xuất gần đây, Xuân Nộn liên tiếp được mùa. Thành công
này không thể không kể đến vai trò của ngành chuyên môn trong việc dự
báo, dự tính các đối tượng sâu bệnh gây hại, từ đó khuyến cáo nông dân áp
dụng các biện pháp phòng chống kịp thời. Tuy nhiên, qua mỗi chiến dịch
phòng trừ sâu bệnh, việc lạm dụng thuốc BVTV ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khoẻ người dân và gây ô nhiễm môi trường càng ngày càng gia tăng.
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 18
Hình: việc sử dụng hóa chất BVTV ngày càng phổ biến
Theo thống kê, người dân Xuân Nộn đã sử dụng các loại hóa chất rất
cao. Mỗi năm khoảng 10 tấn thuốc BVTV , đây là nguồn ô nhiễm phát sinh
từ sản xuất nông nghiệp thải ra cỏc sụng nội đồng gây ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khoẻ của người dân và huỷ hoại môi trường sinh thái.

Lo iạ
cây
tr ngồ
Di n tíchệ
canh tác
trung bình 2
L ng thu c BVTV sượ ố ử
d ngụ
T ngổ
l ngượ
thu cố
V xuân ụ V mùa ụ
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 19
ch y uủ ế v (ha)ụ 2013(t n)ấ 2013 (t n)ấ BVTV cả
n m (t n)ă ấ
Lúa 647 5.2 6.09 11.29
Ngô 35 0.912 0.901 1,813
Rau,
hoa
167 1.15 1.208 2,358
uĐậ
t ngươ
40 0.22 0.286 0.506
L cạ 50 0.3 0.34 0.64
Bảng 2 – Số lượng thuốc BVTV sử dụng trên một số cây trồng năm 2013
Nếu làm một phép tính đơn giản, để phun trừ rầy lúa, khô vằn vàng lá,
sâu đục thân mỗi đợt hết khoảng 53.000 VNĐ/1 sào ruộng; nếu tính ra như
vậy thì mỗi năm người dân Xuân Nộn phải bỏ ra rất nhiều tiền và công sức
để có vụ hoàn hảo. Nhưng điều đáng nói, hàng tấn thuốc hoá học đổ ra
đồng ruộng, môi trường, trong khi đó, sâu bệnh vẫn nhiều và cứ vụ sau lại

được dự báo mật độ cao hơn vụ trước.
Trong những năm gần đây, nông nghiệp ở Xuân Nộn phát sinh nhiều
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 20
loại sâu bệnh nguy hiểm như sâu cuốn lá nhỏ, rầy nâu, rầy lưng trắng, sâu
đục thân 2 chấm. Vì lý do này, lượng thuốc BVTV được sử dụng trên cánh
đồng không có chiều hướng giảm sút; tình trạng sử dụng số lượng lớn
thuốc BVTV phổ biến trên địa bàn toàn xã.
Hình: hóa chất dung trong nông nghiệp
7.
Điều tra về việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp của người dân xã
Xuân Nộn.
Trên địa bàn xã Xuân Nộn, số hộ dân làm nông nghiệp chiếm khoảng
86%. Và chủ yếu là trồng lúa nước, ngô, lạc, đậu tương và rau quả.
Xã có 7 thôn và sau khi điều tra 35 hộ dân ở các thôn cho thấy: các loại
phân bón thường dùng là:
-
Phân bón NPK 12-5-10 (công ty Hà Anh).
-
Phân bón supe lân lâm thao (công ty supe phốt phát và hóa chất lâm
thao).
-
Phân NPK 13-13-13+ TE.
-
Đạm UREA- Hà Bắc.
-
Kali Belarus- C.L.S (công ty Hà Anh).
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 21
-
Và một số phân bón khác của Trung Quốc.
-

Ngoài ra thì còn có phân xanh, phân chuồng.
Bà Nguyễn Thị Lan thôn Xuân Nộn, xã Xuân Nộn cho biết: “Cách
trồng và bòn phân thì ở đây không ai được học, thường là có các bí quyết
riêng và kinh nghiệm từ xưa các cụ truyền lại. Nhưng cũng phải phụ thuộc
vào ông trời, nếu thuận lợi mới được mùa không thì cả làng đói một vụ.”
Hình: người dân bón phân
Căn cứ vào thời kỳ bón, người ta chia ra: bón lót và bón thúc.
– Bón lót: Là bón phân vào đất trước khi gieo trồng. Bón lót nhằm cung
cấp dinh dưỡng cho cây con ngay khi nó mới mọc, mới bén rễ.
– Bón thúc: Là bón phân trong thời gian sinh trưởng của cây. Bón thúc
nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu dinh dưỡng của cây trong thời kỳ tạo điều
kiện cho cây sinh trưởng, phát triển tốt.
+ Căn cứ vào hình thức bón người ta chia thành các cách: bón vãi (rải), bón
theo hàng, theo hốc hoặc phun trên lá. Mỗi một cách bón đều có ưu, nhược
điểm riêng.
Những vấn đề cần lưu ý khi sử dụng phân bón:
Bón phân đó là đưa điều tốt đến cho cây trồng, vì vậy càng nhiều càng
tốt. Thế nhưng hiệu quả của việc bón phân chỉ có thể thu được khi bón hợp
lý, có nghĩa là phù hợp với hoạt động bình thường của hệ sinh thái nông
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 22
nghiệp. Bón phân không hợp lý sẽ gặp phải phản ứng chống lại của hệ sinh
thái đồng ruộng và chỉ có thể dẩn đến những hậu quả xấu.
Thực tế cho thấy, muốn sử dụng phân bón đạt hiệu quả cao người sử dụng
phải biết được nhiều yếu tố liên quan, có thể tóm tắt 3 yếu tố sau:
- Biết được đặc điểm của đất đai :
Đất trồng của mình thuộc loại đất như thế nào chất gì nhiều, chất gì ít
cần bổ sung bao nhiêu, đất chua hay kiềm nếu đất chua nên bón các loại
phân có tính kiềm và ngược lại. Đất cát giữ nước và giữ phân kém vì vậy
khi bón nên chia làm nhiều lần bón để tránh hiện tượng rửa trôi Trong canh
tác cần bón cân đối.

-
Biết được đặc điểm của cây trồng :
Mỗi loại cây trồng yêu cầu chủng loại tỉ lệ khác nhau. Cây ăn lá cần
bón nhiều phân đạm, Cây lấy củ quả cần nhiều lân và kali, cây mía cần
nhiều kali. Cây họ đậu cần ít đạm rất cần nguyên tố molipđen. Riêng cây
hồ tiêu cần rất nhiều dinh dưỡng. Mỗi giai đoạn sinh trưởng cần những loại
phân và tỉ lệ khác nhau có nắm vững đặc điểm của từng loại cây trồng thì
chúng ta bón phân mới đúng và đạt hiệu quả.
-
Biết được đặc điểm của phân bón:
Phân bón có nhiều loại mỗi loại có một đặc điểm riêng. Có loại thích
cho loại đất này , không thích hợp cho loại đất kia hoặc bón tốt cho loại cây
trồng này nhưng không nên bón cho loại cây trồng kia vì vậy hiểu được
từng loại phân là cơ sở cho việc bón phân hợp lý nâng cao hiệu quả phân và
bảo đảm duy trì độ phì nhiêu của đất.
Bí quyết riêng, kinh nghiệm xưa luôn là yếu tố hàng đầu của người dân.
Trong nông nghiệp, việc có bí quyết riêng là rất tốt. Nó sẽ thuận lợi cho
việc sản xuất nông nghiệp nhanh và đạt hiệu quả. Nhưng nếu không nắm rõ
về quy trình sử dụng, không am hiểu về hóa chất cũng có rất nhiều khả
năng bí quyết đó của người dân làm ảnh hưởng tới môi trường.
Có thể bón phân thừa hoặc thiếu so với hướng dẫn của bộ nông nghiệp.
Nếu bón thừa phân có thể gây ra những rối loạn hay mất cân bằng trong
toàn bộ quá trình đồng hóa, dị hóa của câyvà gây ảnh hưởng tới môi
trường, ảnh hưởng tới nguồn nước ngầm, tới đất, làm đất chua.Còn nếu bón
thiếu phân thì dẫn tới cây phát triển kém, còi cọc,…
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 23
8.
Ảnh hưởng của hóa chất bảo vệ thực vật đến con người và môi trường.
-
Bao bì:

Hình: thu gom bao bì thuốc sâu.
Liệu người dân đã biết thu gom bao bì sau khi sử dụng thuốc BVTV
hay chưa. Hay vẫn vứt bừa bãi ra đồng ruộng. Ở Xuân Nộn, người dân
chưa có biện pháp xử lý trong việc thu gom bao bì, ý thức chưa tốt trong
hành động đó mà sau khi sử dụng thuốc trừ sâu vẫn vứt bao bì ngay trên bờ
ruông, trên mặt đường. việc này làm ảnh hưởng tới môi trường.
-
Đầu tiên ta có thể thấy nó ảnh hưởng trực tiếp tới đất.
-
Ô nhiễm không khí xung quanh.
-
Ảnh hưởng tới sinh vật. có những loài sẽ chết, nhưng có những loài sẽ
thích nghi, tích tụ chất độc và dẫn tới đột biến, dị dạng.
-
Quá trình khuếch đại sinh học và ảnh hưởng tới con người qua đường
nước ngầm,…
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 24

Hình: bao bì thuốc trừ sâu chưa được xử lý
-
Bảo hộ:
Theo quy định, để đảm bảo cho sức khỏe người sử dụng, khi phun
thuốc, sử dụng thuốc BVTV phải đầy đủ các vật dụng bảo hộ: áo mưa,
khẩu trang, mũ nó,gang tay cao su, đi giầy hoặc ủng,… Nhưng theo quan
sát thì Xã Xuân Nộn, có rất ít người trạng bị đầy đủ các thứ trên khi sử
dụng thuốc BVTV. Hầu hết là vẫn còn thiếu trang thiết bị khi sử dụng.
SVTT: Lê Thị Thu Trinh Page 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×