Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Quản lý và kiểm soát các rủi ro thanh khoản, rủi ro giá cả, và rủi ro hối đoái, liên hệ thực tế với ngân hàng VIB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.04 KB, 38 trang )

Cùng với việc các cam kết hội nhập WTO bắt đầu có hiệu lực và lộ trình tăng
vốn lên 10.000 tỷ đồng vào năm 2015, các ngân hàng Việt Nam đang thực sự bước
vào giai đoạn cạnh tranh mới quyết liệt hơn với nhiều định chế tài chính quốc tế lớn
ngay trên thị trường nội địa truyền thống của mình. Để có thể tồn tại và phát triển bền
vững, các ngân hàng thương mại phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, một mặt
không ngừng gia tăng các dịch vụ và mặt khác nâng cao năng lực quản trị trong đó
năng lực quản trị rủi ro được xem là quan trọng hàng đầu.
I. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và một số loại rủi ro
1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Với tốc độ tăng trưởng khá cao của ngành ngân hàng - “mạch máu của nền
kinh tế”, cùng xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới,
thêm vào đó là những gì đã diễn ra trên thị trường tiền tệ Việt Nam trong thời gian gần
đây cho thấy vấn đề quản trị rủi ro trong các ngân hàng thương mại có ý nghĩa cấp
bách cả về lý luận và thực tiễn.
Bản chất của rủi ro:
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong
đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận
thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành
được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
• Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau
trong một phạm vi nhất định.
• Khi đề cập đến rủi ro, người ta thường nhắc đến hai yếu tố mang tính đặc trưng
của rủi ro là biên độ rủi ro: mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra và tần suất xuất hiện rủi
ro; số trường hợp thuận lợi để rủi ro xuất hiện/tổng số trường hợp đồng khả năng.
• Rủi ro là yếu tố khách quan, nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn mà
chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện và những tác hại của chúng gây ra.
Rủi ro xảy ra gây nhiều tổn thất về tài sản cho ngân hàng. Những tổn thất
thường gặp là mất vốn khi cho vay, gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận,
giảm sút giá trị của tài sản,
Rủi ro cũng làm giảm uy tín của ngân hàng. Một ngân hàng kinh doanh bị lỗ
liên tục hoặc thường xuyên không đủ khả năng thanh khoản có thể dẫn đến một cuộc


rút tiền quy mô lớn và con đường phá sản là tất yếu.
Như một hệ quả, rủi ro khiến ngân hàng bị lỗ và bị phá sản, sẽ ảnh hưởng đến
hàng triệu người gửi tiền, hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp ứng vốn làm cho
nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng cao, sức mua giảm sút, thất nghiệp tăng, gây rối
loạn trật tự xã hội, và hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng
trong nước và khu vực. Ngoài ra, sự phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng
loạn của hàng loạt ngân hàng khác và ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế.
2. Một số loại rủi ro.
2.1 Rủi ro thanh khoản
a) Định nghĩa
Rủi ro thanh khoản (Liquidity Risk): là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp
ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt
hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
b) Nguyên nhân:
- Dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế
do tác động của lạm phát và lòng tin.
Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây
đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông
lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu
tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của NHNN Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một
cách quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt đồng Việt Nam khá lớn từ lưu
thông thì một số NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ
cấu đầu tư.
- Các NHTM không thực hiện chính sách quản lý rủi ro thanh khoản một cách khoa học
và bài bản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa
các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng
dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng.
- Do tính lỏng của tài sản không ổn định.
Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số

tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này đối mặt với tình trạng lượng
tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác
không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Tổ chức này cũng đối mặt với
rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này có nguy cơ mất khả năng
thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay
tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những
nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu
ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản
nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh
khoản gắn liền với rủi ro tín dụng.
Ví dụ:
Năm 2003, NHTM cổ phần Á Châu bị một tin đồn thất thiệt về việc Tổng giám
đốc bỏ trốn. Thế là, dòng người gửi tiền có kỳ hạn, ào ạt đến rút tiền gửi trước hạn, ở
các chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh. NHNN Việt Nam, chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh
khẩn cấp tiếp vốn bằng tiền mặt cho NHTM cổ phần Á Châu. Tổng giám đốc NHTM
cổ phần Á Châu xuất hiện trên truyền hình Việt Nam, cải chính tin đồn thất thiệt, từ đó
mới dẹp được nạn khách hàng gửi tiền có kỳ hạn, ồ ạt đến rút tiền trước hạn, tự
nguyện hưởng lãi suất không kỳ hạn, bằng một phần tư lãi suất khi gửi. Trong vài
ngày, NHNN Việt Nam, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh tiếp hàng chục tỷ đồng tiền mặt
cho NHTM cổ phần Á Châu, dưới hình thức chiết khấu có thời hạn các giấy tờ có giá
và cho vay tái cấp vốn theo các hồ sơ cho khách hàng vay, nhưng chưa đến hạn trả nợ
NHTM cổ phần Á Châu;
Năm 2005, NHTM cổ phần nông thôn Ninh Bình, bị một tin đồn thất thiệt:
NHTM cổ phần này cho một tên lừa đảo vay mấy chục triệu USD, không thu hồi
được. Thế là, dòng người gửi tiền có kỳ hạn, ồ ạt đến rút tiền gửi có kỳ hạn trước hạn
ngày một đông. NHNN Việt Nam, chi nhánh tỉnh Ninh Bình phải ra tay cứu trợ, tiếp
gần chục tỷ đồng tiền mặt cho NHTM cổ phần nông thôn Ninh Bình, mới thoát nạn
RRTK
c) Chiến lược phòng ngừa của Ngân hàng

 Đối với Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước vẫn cần hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM thông qua các
công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh thực thi chính sách thắt chặt tiền
tệ, tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát. Đối với các NHTM lớn, có nhiều giấy tờ có giá
đủ tiêu chuẩn thì việc hỗ trợ thanh khoản sẽ thông qua nghiệp vụ thị trường mở tại
NHNN. Đối với các NHTM nhỏ không đủ giấy tờ có giá hoặc không có khả năng
cạnh tranh trên thị trường mở thì NHNN hỗ trợ thông qua công cụ tái cấp vốn. Việc hỗ
trợ này của NHNN rất ngắn hạn và các NHTM được yêu cầu phải điều chỉnh lại cơ
cấu nguồn và sử dụng nguồn cho phù hợp, hạn chế thấp nhất rủi ro thanh khoản.
 Đối với các NHTM
Thực hiện việc cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp.
Đây là công việc hết sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các
NHTM. Các ngân hàng cần xem lại cơ cấu danh mục tài sản nợ, tài sản có cho phù
hợp, nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động
và cho vay trên thị trường; cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung hạn,
giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn.
Thực hiện việc phát hành giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu cho vay vào các
lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro nhiều như chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng.
Các ngân hàng đều phải duy trì một tỷ lệ dự trữ (bao gồm tiền mặt trong ngân
hàng, tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và các tài sản có tính lỏng cao khác). Làm
như vậy để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương và để đối phó
với các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp ngân
hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý. Các ngân
hàng cần xem xét lại cơ cấu về danh mục tài sản nợ cho phù hợp nhằm hạn chế rủi ro
ở mức thấp nhất đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường I (huy
động tiền gửi từ các tổ chức và dân cư); cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho
vay trung, dài hạn, giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn.
Thực hiện việc phát hành các giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu huy động vốn giữa thị
trường I và thị trường II (thị trường liên ngân hàng); điều chỉnh cơ cấu cho vay vào
các lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng.

Thực hiện tốt quản lý rủi ro lãi suất khe hở lãi suất
Cần hoàn thiện các quy định liên quan đến huy động và cho vay (nhất là huy
động, cho vay trung, dài hạn) theo lãi suất thị trường; cần có cách giải quyết khoa học
để không xảy ra tình trạng các khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị
trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng
hơn. Hiện nay, xuất hiện một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn
không chịu trả nợ vay vì họ e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân
hàng. Vì thế, họ sẵn sàng chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so
ra vẫn còn thấp hơn lãi suất cho vay mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến
khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Thực hiện tốt quản lý rủi ro kỳ hạn
Sự không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng là lý do
quan trọng làm cho các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản trong thời gian qua. Vấn
đề sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn với tỷ trọng lớn hoặc cùng là ngắn
hạn và trung, dài hạn nhưng thời hạn cụ thể khác nhau (ví dụ như huy động trung, dài
hạn hai năm nhưng cho vay trung hạn ba năm) cũng làm cho ngân hàng khó khăn
trong việc kiểm soát dòng tiền ra và dòng tiền vào của mình.
Thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro
Thị trường tiền tệ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế, tuy nhiên, sau đợt biến
động của thị trường tiền tệ trong thời gian qua, chắc chắn các ngân hàng sẽ quan tâm
nhiều hơn và nó sẽ giúp cho ngân hàng quản lý tốt hơn tài sản nợ, tài sản có của mình.
Thị trường REPO là công cụ khá hiệu quả trong việc tạo ra tính lỏng cao cho các
chứng khoán nợ và cơ cấu tài sản có nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng một
cách nhanh chóng. Forward và Future cũng là những công cụ để cầm giữ lãi suất giao
dịch nhằm hạn chế rủi ro khi lãi suất thị trường biến động. Đặc biệt SWAP là công cụ
quan trọng để các ngân hàng có thể cơ cấu lại tài sản nợ, tài sản có trên bảng cân đối
tài sản của mình, nhằm hạn chế các tác động của rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn.
 Tóm lại
Với thực trạng thị trường như hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng quản lý rủi
ro thanh khoản nhằm giảm thiểu rủi ro vỡ nợ là mối quan tâm hàng đầu, là bài toán

khó đặt ra không chỉ với một ngân hàng riêng lẻ mà đối với toàn hệ thống từ Ngân
hàng Nhà nước cho tới các ngân hàng thương mại.
Quản lý rủi ro thanh khoản không đơn thuần chỉ là vấn đề của các dòng tiền,
vấn đề cơ cấu của tài sản Nợ - Có trên bảng cân đối tài sản mà nó chính là hoạt động
quản trị của một NHTM. Vì thế, các NHTM cần hiểu rõ tầm quan trọng của quản lý
rủi ro thanh khoản, chủ động xây dựng chính sách khung về quản lý rủi ro thanh
khoản, thiết lập các quy trình cụ thể nhằm xác định, đo lường, kiểm soát các rủi ro về
thanh khoản có thể xảy ra. Các ngân hàng cần có được khả năng dự báo với độ chính
xác cao các luồng tiền vào, luồng tiền ra, đặc biệt là các luồng tiền liên quan tới các
cam kết ngoại bảng và các nghĩa vụ tài sản nợ để chủ động đưa ra kế hoạch hoạt động
trong các tình huống bất ngờ.
Cuối cùng, các ngân hàng cũng cần hiểu rõ mối quan hệ hữu quan giữa các loại
rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá với rủi ro thanh khoản để có được định
hướng đúng đắn trong việc hoạch định chính sách kinh doanh của mình.
2.2 Rủi ro hối đoái
a) Định nghĩa
Rủi ro tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate (Forex) Risk): là loại rủi ro
phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc kinh doanh ngoại tệ khi tỷ giá biến
động theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng.
Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của ngân hàng
cũng như của khách hàng. Nhưng nhìn chung, bất cứ hoạt động nào mà ngân lưu thu
phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi ngân lưu chi phát sinh một loại đồng tiền
khác đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá. Rủi ro tỷ giá thể hiện ở chỗ khi tỷ giá thay
đổi làm cho ngân lưu thay đổi theo.
b) Nguyên nhân
Do rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh khi có sự biến động tỷ giá theo chiều hướng
bất lợi cho Ngân hàng, hầu hết các dịch vụ ngân hàng thương mại hình thành bên tài
sản Nợ, tài sản Có hay các khoản thanh toán bằng ngoại tệ đều chịu ảnh hưởng của rủi
ro và tổn thất ngoại hối. Rủi ro tỷ giá của NHTM có thể phát sinh qua những hoạt
động sau đây:

- Hợp đồng với khách hàng nội địa liên quan đến tài sản Có, tài sản Nợ và các giao dịch
ngoại bảng bằng ngoại tệ.
- Hợp đồng với khách hàng nước ngoài liên quan đến tài sản Có, tài sản Nợ và các giao
dịch ngoại bảng bằng ngoại tệ hay nội tệ.
- Mua và bán ngoại tệ (giao ngay và kỳ hạn) với khách hàng hoặc cung cấp dịch vụ
phòng ngừa tổn thất ngoại hối cho khách hàng.
- Giao dịch ngoại tệ trên tài khoản riêng của NHTM, chẳng hạn như giao dịch kinh
doanh ngoại tệ của ngân hàng trên thị trường quốc tế.
Bất luận là giao dịch gì, phát sinh như thế nào, suy cho cùng các giao dịch này
cũng hình thành nên các khoản phải thu và phải trả bằng ngoại tệ đối với NHTM, từ
đó gây ra rủi ro tỷ giá, dẫn tới tổn thất cho NHTM khi tỷ giá thay đổi
c) Chiến lược phòng ngừa của Ngân hàng
Đứng trước rủi ro tỷ giá, nhà quản lý phải ra quyết định: (1) chấp nhận trạng
thái mở với kỳ vọng kiếm lợi nhuận do thay đổi tỷ giá hay là (2) sử dụng các giải pháp
để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Đây là một quyết định không đơn giản. Để ra quyết định
này, trước hết, nhà quản lý ngân hàng phải dựa vào thông tin có ảnh hưởng để dự báo
tỷ giá, từ đó hình thành kỳ vọng về tỷ giá ngoại tệ trong tương lai. Kế đến, dựa vào
thái độ của nhà quản lý đối với rủi ro để ra quyết định có nên phòng ngừa rủi ro tỷ giá
hay không. Nếu quyết định nên phòng ngừa rủi ro để tránh tổn thất ngoại hối thì bước
tiếp theo nhà quản lý xem xét các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá như thế nào.
Để kiểm soát rủi ro do tỷ giá mang lại, các ngân hàng thường sử dụng các giải
pháp sau:
Giải pháp chiến lược
Giải pháp này phát sinh từ các nghiệp vụ vốn có của hầu hết các ngân hàng
thương mại là hoạt động cho vay và huy động vốn. Muốn áp dụng hiệu quả giải pháp
này, các nhà quản trị ngân hàng phải điều chỉnh các khoản cho vay và huy động vốn
ngoại tệ một cách sáng suốt, tỉnh táo có kết hợp với việc nghiên cứu sự biến động của
thị trường trong nước và quốc tế.
Trong thực tế, biện pháp này đã được các ngân hàng thương mại thường xuyên
áp dụng. Chẳng hạn, ở Việt Nam trong những năm 1994 - 1996, tỷ giá (VND/ USD)

tương đối ổn định, các ngân hàng thương mại đã chuyển một số USD khá lớn thành
các khoản tín dụng bằng VND để hưởng khoản lợi nhuận đặc biệt do sự chênh lệch lãi
suất giữa hai đồng tiền mang lại. Trong thời điểm này, nhiều ngân hàng thương mại
duy trì trạng thái ngoại hối âm (đoản thế) về USD. Đến giữa năm 1997, khi USD có
dấu hiệu lên giá, các ngân hàng có trạng thái ngoại hối ở tình thế đoản đã làm giảm
khoảng chênh lệch giữa tài sản có USD và tài sản nợ USD của mình bằng cách: tăng
các khoản dự trữ bằng USD; hạn chế việc chuyển đổi USD thành các khoản tín dụng
VND; thu hút các nguồn tiền gởi USD v v Kết hợp với một số chính sách về quản lý
ngọai hối của Nhà nước, các biện pháp trên đã giúp các ngân hàng thương mại vượt
qua cuộc khủng hoảng về tài chính. Tuy nhiên, biện pháp này đòi hỏi nhà quản trị một
thời gian tương đối dài để có thể biến ý tưởng thành hiện thực. Vì vậy, nó thường
được dùng để khắc phục các rủi ro tương đối dài hạn.
Giải pháp chiến thuật
Trong trường hợp các giải pháp chiến lược diễn ra ngoài dự kiến, các nhà quản
trị ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp chiến thuật. Biện pháp chiến thuật bắt nguồn
từ các giao dịch ở thị trường tiền tệ, thị trường vốn và các giao dịch có kỳ hạn
(Futures, Swaps, Options). Cụ thể, nếu một ngân hàng đang ở trạng thái trường về
USD nhưng ngân hàng dự đoán trong ba tuần sau USD sẽ giảm giá, để đối phó với rủi
ro này, ngân hàng sẽ thực hiện các giao dịch bán USD có kỳ hạn ba tuần ở thị trường
tiền tệ. Giả sử ba tuần sau, USD hạ giá như dự đoán, ngân hàng đã giảm được một
khoản thiệt hại đáng kể về ngoại hối. Biện pháp này thường được dùng để hạn chế các
rủi ro trung hạn.
Giải pháp kinh doanh
Bên cạnh mục đích tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng thương mại còn sử dụng
nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để kiểm soát rủi ro ngoại hối của mình nữa. Trong thực tế,
các biện pháp này được áp dụng rất linh động, nhạy bén và có một vai trò rất lớn; bởi
vì, nó giúp cho nhà quản trị giải quyết tình thế ngoại hối của mình trong vài phút.
Điểm cần lưu ý khi áp dụng giải pháp này là nếu các biện pháp chiến lược và chiến
thuật do các nhà quản trị cấp cao và cấp trung thực hiện thì biện pháp kinh doanh lại
do một vài nhân viên cấp thấp thi hành. Chính vì đặc điểm trên, ban giám đốc ngân

hàng cần phải quản lý liên tục, phải thiết lập các tình thế cụ thể và phải giới hạn mức
lỗ tối đa cho từng nhân viên để họ có thể chủ động đưa ra lệnh mua, lệnh bán hiệu quả
nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn trong kinh doanh.
Tóm lại
Do có sự khác biệt về mức độ phát triển của thị trường tài chính của từng nước,
chính sách quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia, cũng như năng lực quản lý của từng
ngân hàng nên việc áp dụng các biện pháp kiểm soát rủi ro tỷ giá hối đoái giữa các
ngân hàng trên thế giới cũng khác nhau. Ngân hàng ở các nước đang phát triển thường
áp dụng các biện pháp chiến lược để hạn chế rủi ro tỷ giá. Trong khi tại các nước có
thị trường tài chính phát triển, các ngân hàng lớn thích áp dụng các biện pháp chiến
thuật, biện pháp kinh doanh để kiểm soát tỷ giá. Mỗi biện pháp đều có những mặt
mạnh, điểm yếu riêng. Do đó, việc áp dụng khoa học, sáng suốt các biện pháp kiểm
soát nhằm đưa ngân hàng vượt qua rủi ro tỷ giá hối đoái là việc làm mà thiết nghĩ các
nhà quản trị ngân hàng nên quan tâm.
2.3 Rủi ro giá cả
a) Định nghĩa
Một trong những cách để có thể đạt được lợi nhuận trên thị trường tài chính là
nắm bắt những thay đổi có lợi trong lãi suất thị trường và tạo nên trạng thái bất cân
xứng giữa các dòng tiền của ngân hàng. Với những cơ hội này nếu như dự đoán đúng
sự thay đổi của lãi suất thì chúng ta có một khỏan lợi nhuận, ngược lại nếu biến động
lãi suất trái với kì vọng thì chúng ta bị tổn thất
Lãi suất trong lĩnh vực ngân hàng được hiểu chính là giá cả, đó là cái giá phải
trả để khách hàng có một khoản tín dụng ngân hàng cung cấp hay cái giá phải trả để
ngân hàng có một dòng tiền vào. Lãi suất thay đổi sẽ có tác động khác nhau đến lợi
nhuận của ngân hàng tùy thuộc vào trạng thái giữa dòng tiền ra và vào của ngân hàng.
b) Nguyên nhân
Trong những giao dịch trên thị trường tiền tệ, khi thời gian đáo hạn của các
khoản đầu tư không khớp với thời gian đáo hạn của các khoản ngân hàng đi vay thì rủi
ro giá nảy sinh.
Giả sử ngân hàng cho vay (hay đầu tư ) với thời hạn là 1 năm, trong khi đi vay

trên thị trường với thời hạn ngắn hơn là 6 tháng. Lãi suất của khoản cho vay là cố
định, và sau 6 tháng thì lãi suất thị trường thay đổi, chúng ta phải đi vay với một lãi
suất khác để tài trợ cho tài sản trên. Ngân hàng luôn kì vọng rằng lãi suất ngắn hạn
này sẽ ít nhất là bằng hoặc thấp hơn lãi suất hiện tại để chi phí mà ngân hàng tài trợ
cho tài sản hoặc là giữ nguyên hoặc là thấp hơn, và như thế là có lãi hơn,
Tài sản
Nợ
Tuy nhiên nếu lãi suất lại tăng lên cao hơn, chẳng hạn là 40%/6 tháng,
chúng ta phải tái đầu tư cho khoản tài sản với lãi suất cao hơn, ngân hàng buộc phải
tạo thanh khoản cho tài sản nhưng lại bị thiệt hại.
tài sản
nợ
30
20%/6 tháng
30%/ 1
20%/6 tháng
Tương tự với trường hợp ngược lại tức là khi ngân hàng đầu tư, cho vay với thời
hạn ngắn hơn thời hạn đi vay để tài trợ cho tài sản. Rủi ro giá xuất hiện khi ngân hàng
phải đầu tư vào tài sản có với mức giá thấp hơn giá ngân hàng phải trả để có nguồn
vốn đầu tư cho tài sản này.
Nói chung rủi ro giá cả xuất hiện khi:
- Với những khoản phải thu hay dòng tiền vào của ngân hàng (tài
sản như đầu tư, cho vay ) rủi ro nếu lãi suất giảm hay giá mà ngân hàng nhận
được từ những khoản đầu tư này giảm thấp hơn so với chi phí nó phải bỏ ra để
có vốn đầu tư
- Với những khoản phải trả hay dòng tiền ra của ngân hàng (khoản
đi vay, tiền gửi của khách hàng ) rủi ro xuất hiện khi lãi suất tăng hay mức giá
mà ngân hàng phải trả cao hơn khoản nó có thể thu về.
Chúng ta có thể xét một trường hợp khác là khi lãi suất thay đổi ảnh hưởng tới
giá trị của các khoản đầu tư của ngân hàng như trái phiếu, cổ phiếu. Lãi suất tăng làm

giá của những tài sản này giảm, nếu ngân hàng bán đi những tài sản này trong giai
đoạn lãi suất tăng thì phải chịu thiệt hại. Đó cũng là một loại rủi ro giá liên quan tới lãi
suất.
II. Bộ phận quản trị rủi ro.
1. Mô hình tổ chức chung.
Hội đồng quản trị
Ban Tổng giám đốc
Uỷ ban Quản lý rủi ro
Uỷ ban quản lý tài sản và công nợ (ALCO)
Uỷ ban quản lý rủi ro tín dụng
Phòng kiểm toán và kiểm soát nội bộ
Phòng
kế toán
Phòng tin học
Khối
phòng vốn
Phòng công nợ
Phòng
Quản lý tín dụng
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro hối đoái
Rủi ro lãi suất
Rủi ro tín dụng
Uỷ ban Quản lý rủi ro đóng vai trò thúc đẩy quá trình phát triển và duy trì một
mô hình quản lý rủi ro tiên tiến và phê duyệt cách thức và phương pháp đo lường định
lượng rủi ro.
Uỷ ban quản lý tài sản và công nợ (ALCO) Mục tiêu của ALCO bao gồm:Quản
lý bảng cân đối kế toán trong hạn mức rủi ro và thu nhập đã được phê duyệt của ngân
hàng; Đảm bảo cơ cấu rủi ro nhất quan với chiến lược về rủi ro của Hội đồng Quản
trị; Xem xét sản phẩm mới và sản phẩm hiện có về các mặt rủi ro, tài chính và mức

vốn; và Đảm bảo cân nhắc đến các yếu tố ảnh hưởng tiềm năng đối với các quyết định
về rủi ro của ngân hàng.
Phòng Kiểm toán và kiểm soát nội bộ (ICAD): báo cáo Tổng giám đốc, có vai
trò quan trọng trong việc xác định liệu việc thực thi chiến lược quản lý rủi ro có tuân
thủ theo các chính sách quản lý rủi ro đã được thiết lập, và liệu các kiểm soát nội bộ
hiện tại có đầy đủ và phù hợp. Việc ICAD là bộ phận độc lập với các hoạt động hàng
ngày và có nhiệm vụ xem xét hoạt động của tất cả các bộ phần là một vấn đề rất quan
trọng.
Uỷ ban Quản lý Rủi ro tín dụng: bao gồm các thành viên của Ban Giám đốc và
những cán bộ quản lý tín dụng cấp cao. Uỷ ban này chịu trách nhiệm duy trì tính đúng
đắn của khung quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng, bao gồm: Xây dựng và đề xuất
các chính sách và thủ tục quản lý rủi ro tín dụng để Ban Giám đốc phê duyệt; Xem xét
các giới hạn của danh mục dựa theo chiến lược về rủi ro của ngân hàng; Xem xét các
kế hoạch làm việc và các báo cáo lập bởi bộ phận Kiểm tra tín dụng Độc lập và Kiểm
toán nội bộ; Đánh giá khả năng thu hồi, tính chính xác của việc xếp hạng tín dụng, và
tính đầy đủ của việc lập dự phòng; Đánh giá và giám sát chất lượng danh mục tín
dụng và phân bố các thành phần của danh mục tín dụng; Duy trì và xem xét lại mô
hình hệ thống cho điểm tín dụng nhằm tuân thủ theo chính sách và nhằm phản ánh
đúng các điều kiện thị trường.
Năm phòng ban thuộc phần dưới cùng của sơ đồ là nơi cung cấp thông tin đầu tiên
cho các Uỷ ban quản lý rủi ro, vì các phòng ban này có liên quan đến các hoạt động có
rủi ro (Phòng tín dụng, Phòng Kinh doanh ngoại tệ) hay có khả năng thu thập thông
tin để đo lường rủi ro (Phòng Kế toán, Phòng tin học).
2. Quy trình thực hiện :
Ban quản trị rủi ro chịu trách nhiệm theo dõi, đánh giá và phân tích cũng như đề xuất
các giải pháp và quản trị đối với các loại hình rủi ro về thanh khoản, lãi suất, tỷ giá hối
đoái, giá cả để trên cơ sở đó báo cáo về toàn bộ hiện trạng rủi ro với tổng giám đốc,
uỷ ban ALCO và uỷ ban quản trị rủi ro của hội đồng quản trị đồng thời kiến nghị các
giải pháp thích hợp.
Chính sách quản trị rủi ro thị trường và các giới hạn rủi ro thị trường do Tổng giám

đốc xây dựng phải được thông qua phê duyệt của ALCO và uỷ ban quản trị rủi ro của
HĐQT
Hoạt động quản lý rủi ro có thể được xem như là một chu kỳ gồm 4 giai đoạn sau:
Xác định rủi ro
Định lượng rủi ro
Kiểm soát rủi ro
Quản lý rủi ro
Xác định rủi ro Định lượng rủi ro Quản lý rủi ro Kiểm soát rủi ro
Các rủi ro mà ngân
hàng gặp phải và
nguồn gốc của các
rủi ro cần phải được
nhận biết và định rõ
Khả năng chấp nhận
rủi ro của Ngân hàng
cần được xác định và
mô tả dựa trên các
mục tiêu kinh doanh
của Ngân hàng
Quy trình định
lượng rủi ro phải
được thiết kế chặt
chẽ sao cho có thể
bao gồm tất cả
những nguồn rủi ro
trọng yếu.
Quy trình định
lượng rủi ro cũng
cần phải đáp ứng
được nhu cầu của

người sử dụng
thông tin
Các giới hạn rủi ro phải
thống nhất với các chính
sách của Ngân hàng và
các giới hạn đã được
phê duyệt.
Quản lý rủi ro cũng cần
bảo đảm các hoạt động
kinh doanh của Ngân
hàng không phải gánh
chịu những rủi ro làm
ảnh hưởng nghiêm trọng
đến khả năng cạnh tranh
của Ngân hàng.
Các báo cáo về rủi
ro cần phải cung cấp
những thông tin
thcíh hợp, chính xác
và kịp thời về tình
trạng rủi ro của ngân
hàng cho Ban lãnh
đạo.
Các cá nhân thực
hiện hoạt động kiểm
soát rủi ro cần phải
độc lập với những
người thực hiện việc
chấp nhận rủi ro
(thực hiện các hoạt

động làm phát sinh
rủi ro)
3. Chức năng:
Khối quản lý rủi ro là Khối nghiệp vụ trực thuộc Ban điều hành, được
thành lập để thực hiện các nghiệp vụ quản lý rủi ro của Ngân hàng.
- Thực hiện báo cáo kết quả giám sát rủi ro, quản trị nội bộ lên Hội đồng quản trị, Ban
điều hành nhằm phục vụ công tác lập ngân sách, điều hành ngân sách, đánh giá thực
hiện ngân sách.
- Xây dựng chiến lược và các chính sách quản lý rủi ro trình lên Hội đồng Quản trị, Ban
điều hành.
- Xác định các rủi ro hiện hành, rủi ro chưa phát hiện và các rủi ro mới của Ngân hàng.
- Đề xuất chính sách, quy chế, quy trình, thủ tục, hạn mức và cơ chế kiểm soát rủi ro.
- Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin quản lý, hệ thống đo lường, đánh giá rủi ro,
các biện pháp phòng chống, giảm thiểu rủi ro.
- Đào tạo nhân viên, cập nhật về quản lý rủi ro và tự đánh giá hiệu quả quản lý rủi ro.
- Thực hiện tổng hợp các dữ liệu thị trường về lãi suất huy động để tham mưu trong
việc xây dựng các phương án, kịch bản huy động, kinh doanh vốn từng thời kỳ phù
hợp.
- Thực hiện kiểm soát rủi ro: Nhận dạng rủi ro, Đo lường rủi ro; Giám sát, kiểm soát;
Biện pháp hạn chế rủi ro và xử lý rủi ro.
- Xây dựng các quy định, quy trình cụ thể trong kiểm soát rủi hoạt động của Phòng
Nguồn vốn: rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng…
- Giám sát việc tuân thủ các quy trình, quy định của phòng Nguồn vốn để hạn chế các
kiểm soát rủi ro hoạt động của Phòng.
- Đóng vai trò thúc đẩy quá trình phát triển và duy trì một mô hình quản lý rủi ro tiên
tiến và phê duyệt cách thức, phương pháp đo lường định lượng rủi ro.
- Đảm bảo các rủi ro của ngân hàng được nhận thức rõ. Đảm bảo bản chất và quy mô
các rủi ro của ngân hàng nhất quán với phương hướng của ban lãnh đạo ngân hàng.
- Xem xét báo cáo quản lý rủi ro và có kế hoạch hoạt động khi rủi ro được phát hiện
không nhất quán với phương hướng của ban lãnh đạo ngân hàng.

- Phê duyệt các chính sách quản lý rủi ro và hạn mức cho các rủi ro chính về tín dụng,
thị trường (bao gồm cả rủi ro hối đoái và lãi suất), thanh khoản và hoạt động.
4. Quy trình một số nghiệp vụ quản trị rủi ro.
4.1. Quy trình thực hiện nghiệp vụ quản trị rủi ro thanh khoản
4.1.1. Cơ cấu tổ chưc quản lý rủi ro thanh khoản
Cơ cấu tổ chức cần được thiết lâp để thực hiện chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản.
Trách nhiệm quản lý rủi ro thanh khoản được giao cho Uỷ ban quản lý tài sản/công
nợ. Giữa các cá nhân chịu trách nhiệm quản lý rủi ro thanh khoản cần phải có liên hệ
chặt chẽ với những người chịu trách nhiệm theo dõi các điều kiện của thị trường. Điều
này có thể giúp việc ra quyết định và có các hoạt động kịp thời với các thay đổi trên
thị trường. Sau đây là một số phòng ban quan trọng trong ngân hàng liên quan tới việc
quản lý rủi ro thanh khoản:
Hội đồng Quản trị: có nhiệm vụ
- Phê duyệt chiến lược và các chính sách quan trọng liên quan đến quản lý rủi ro thanh
khoản;
- Giám sát tình hình thanh khoản và cơ cấu rủi ro của ngân hàng một cách định kỳ để
hiểu và đánh giá rủi ro thanh khoản của ngân hàng.
Uỷ ban quản lý rủi ro: có nhiệm vụ
- Đảm bảo rằng hoạt động của ngân hàng phù hợp với chiến lược thanh khoản đã
đặt ra;
- Đảm bảo các chính sách và thủ tục cần thiết cho quản lý rủi ro thanh khoản được
thực hiện;
- Quản lý tình hình thanh khoản và cơ cấu rủi ro của ngân hàng một cách định kỳ để
hiểu và đánh giá rủi ro thanh khoản của ngân hàng;
- Giám sát hoạt động của Uỷ ban quản lý tài sản/công nợ và việc xử lý các vấn đề
quan trọng của Uỷ ban này.
Uỷ ban quản lý tài sản/công nợ (ALCO)
ALCO có trách nhiệm quản lý khả năng thanh khoản nói chung, bao gồm các công
việc cụ thể như sau:
- Xây dựng và thực hiện các thủ tục quy trình quản lý khả năng thanh khoản, đảm

bảo rằng các thủ tục qui trình luôn được cập nhất để đảm bảo tính đầy đủ, thận
trọng;
- Xây dựng và xem xét các hạn mức đảm bảo khả năng thanh toán đầy đủ, các
trường hợp vượt hạn mức được xem xét và phê duyệt;
- Quyết định cơ cấu bảng cân đối kế toán –các tài sản và công nợ theo tính thanh
khoản và theo thời gian đáo hạn.
- Lập các báo cáo cho Ban Giám đốc, Uỷ ban quản lý rủi ro về các hoạt động thanh
khoản và cơ cấu rủi ro của ngân hàng một cách thường xuyên;
- Lập kế hoạch dự phòng chỉ rõ các hoạt động quản lý trong trường hợp có khủng
hoảng và khả năng thanh khoản;
Ban Giám đốc chi nhánh.
4.1.2. Quy trình thực hiện nghiệp vụ quản trị rủi ro thanh khoản.
Quy trình thực hiện nghiệp vụ quản trị rủi ro thanh khoản thực hiện như sau
Biện
pháp quản trị rủi
ro thanh khoản
Đo lường
rủi ro thanh
khoản
Kiểm
soát rủi ro thanh
khoản
Nhận
biết rủi ro thanh
khoản
Việc quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào các quy trình hoạt
động và quy trình kiểm soát. Những quy trình hoạt động chính bao gồm:
- Hàng ngày theo dõi sát sao các chi nhánh để đảm bảo các thiếu hụt hay thặng dư
về nguồn vốn được phát hiện và giải quyết kịp thời;
- Tận dụng mối liên hệ giữa các ngân hàng để có được sự linh hoạt tài chính và quản

lý tiền mặt hiệu quả.
- Quy trình quản lý tiền mặt hàng ngày đi đôi với cơ cấu của chức năng tài chính (ví
dụ: tâp trung hoá, địa phương hoá )
- Các quy trình liên quan đến các khoản phải trả cho phép ngân hàng tối đa giá trị
thời gian của khoản tiền (ví dụ: tận dụng lợi thế của các giảm giá, chiết khấu )
- Các thủ tục thu hồi hiệu quả, bao gồm cả việc nhắc nhỏ và đòi tiền bồi thường do
trả chậm
• Bước 1: Nhận biết rủi ro thanh khoản
Trên thực tế, không một ngân hàng nào có thể khẳng định dự trữ thanh khoản
của ngân hàng mình đã hợp lý hay không, nếu như chưa vượt qua thử thách của thị
trường. Do vậy, các nhà quản trị cần chú ý đến các tín hiệu sau đây của thị trường
tài chính:
Lòng tin của công chúng: Các cá nhân và tổ chức có lo ngại về khả năng
thanh khoản của ngân hàng?
Sự vận động trong giá cả cổ phiếu: Giá cổ phiếu của ngân hàng đang giảm
sút có phải do nhà đầu tư lo ngại về một cuộc khủng hoảng thanh khoản có thể
xãy ra đối với ngân hàng?
Phần bù rủi ro trên chứng chỉ tiền gửi và các khoản cho vay khác: Phần
bù rủi ro này có cao hơn mức bình quân trên thị trường; điều đó thể hiện nhà
đầu tư có những lo ngại về tương lai phát triển của ngân hàng?
Tổn thất trong việc bán tài sản: Ngân hàng có phải thường xuyên bán tài
sản với tổn thất đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản?
Khả năng đáp ứng yêu cầu tín dụng của khách hàng: Với khoản tín dụng
chất lượng cao, ngân hàng luôn có khả năng đáp ứng hay từ chối?
Vay vốn từ ngân hàng trung ương: Ngân hàng có phải nằm trong tình
huống bắt buộc phải vay những khoản lớn từ ngân hàng trung ương để đảm
bảo khả năng thanh toán?
Nếu câu trả lời là có cho bất kỳ tín hiệu nào trên đây, nhà quản trị cần xem xét lại
chiến lược quản trị và thực tế khả năng thanh khoản để có các quyết định thay đổi
phù hợp nhằm mang lại một kết quả tốt hơn cho trạng thái thanh khoản

• Bước 2: Đo lường rủi ro thanh khoản
Một số phương pháp xác định rủi ro thanh khoản
 Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn:
Phương pháp này bắt nguồn từ hai thực tế đơn giản sau: Một là, khả năng
thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm. Hai là, khả năng
thanh khoản của ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng. Hay thực chất
của phương pháp này là đo lường cung cầu thanh khoản, trong đó phần chủ yếu của
cung cầu thanh khoản là tiền gửi và cho vay nên phương pháp này tập trung vào đo
lường những thay đổi dự tính trong tiền gửi và cho vay của ngân hàng
Bước 1: Dự báo nhu cầu vay vốn và tiền gửi kỳ KH
Để xây dựng mô hình dự báo về tiền gửi và tiền vay trong tương lai, nhà
quản trị có thể sử dụng các kỹ thuật thống kê khác nhau cộng với kinh nghiệm của
mình. Chẳng hạn, một mô hình dự báo về sự thay đổi trong tiền gửi và tiền vay có
thể như sau:
Thay đổi dự kiến của tiền vay phụ thuộc vào các biến số sau:
 Tốc độ tăng trưởng dự kiến của GDP.
 Lợi nhuận doanh nghiệp dự kiến.
 Tỷ lệ tăng trưởng về cung tiền của ngân hàng thương mại.
 Tỷ lệ tăng trưởng của tín dụng thương mại.
 Tỷ lệ lạm phát dự báo.
Thay đổi dự kiến của tiền gửi phụ thuộc vào các biến số sau:
 Tăng trưởng về thu nhập cá nhân dự kiến.
 Mức tăng bán lẻ dự báo.
 Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền của ngân hàng trung ương.
 Lợi suất dự kiến của tiền gửi trên thị trường tiền tệ.
 Tỷ lệ lạm phát dự kiến.
Bước 2: Tính sư thay đổi dự tính về cho vay, tiền gửi kỳ KH
Sau khi xây dựng được mô hình dự báo nêu trên, ngân hàng có thể ước lượng
nhu cầu thanh khoản bằng cách tính:
Mức thặng dư (+

)
Thay đổi Thay
đổi
hay thâm hụt (-)
=
dự kiến - dự k
iến
thanh khoản của tiền gửi của tiền v
ay
Bước 3: Xác định khe hở thanh khoản
Khe hở thanh khoản = Tổng cung thanh khoản - Tổng cầu thanh khoản.
- Khe hở thanh khoản > 0: khe hở thanh khoản dương. Ngân hàng phải nhanh chóng
đầu tư phần thanh khoản thặng dư này để sinh lợi.
- Khe hở thanh khoản < 0: Khe hở thanh khoản âm. Ngân hàng phải tìm kiếm kịp
thời các nguồn tài trợ khác nhau với chi phí thấp nhất để bổ sung thiếu hụt thanh
khoản
 Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn
Nếu như phương pháp nguồn vốn và sử dụng vốn giúp ngân hàng đo lường cả
nguồn cung và nguồn cung thanh khoản thì phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn chỉ
quan tâm đến Cầu thanh khoản. Phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản dựa vào
việc phân chia cớ cấu nguồn vốn huy động theo khả năng nguồn vốn này bị rút ra khỏi
ngân hàng để xác định yêu cầu thanh khoản của ngân hàng
Phương pháp này được tiến hành theo trình tự hai bước:
Bước 1: Chia các khoản tiền gửi và các nguồn khác thành nhiều loại trên cơ
sở ước lượng xác suất rút tiền của khách hàng. Chẳng hạn, tiền gửi và các nguồn
khác của ngân hàng có thể chia thành ba loại:
 Loại 1: Ổn định thấp.
 Loại 2: Ổn định vừa phải.
 Loại 3: Ổn định cao.
Bước 2: Xác định mức dự trữ thanh khoản cho từng loại tiền gửi trên cơ sở

ấn định tỷ lệ dự trữ thích hợp với trạng thái của chúng. Ví dụ:
 Loại 1: 95%.
 Loại 2: 30%.
 Loại 3: 15%.
Như vậy, nhu cầu thanh khoản cho tổng các loại tiền gửi được tính như sau:
Dự trữ thanh khoản cho tài sản “Nợ” huy động = 95% x (Loại 1 – DTBB) +
30% x (Loại 2 – DTBB) + 15% x (Loại 3 – DTBB).
Đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải sẵn sàng khi khách
hàng có nhu cầu và đảm bảo các điều kiện tín dụng tức là các khoản vay chất lượng
cao. Trong trường hợp này, nhu cầu thanh khoản cho các khoản cho vay là:
Dự trữ thanh khoản cho tài sản “Có” cho vay = Dự trữ thanh khoản tài sản
“Nợ” huy động + Nhu cầu tiền vay tiềm năng.
 PP thang đáo hạn
Phương pháp này xây dựng thang đáo hạn để so sánh các dòng tiền ra và dòng tiền
vào trong mỗi ngày hoặc trong một thời kỳ nhất định, qua đó để xác định được các
trạng thái thanh khoản ròng và trạng thái thanh khoản tích luỹ.
- Các dòng tiền ra có thể được được xếp thứ tự theo ngày mà các tài sản Nợ đáo hạn,
ngày sớm nhất mà người gửi tiền tiết kiệm thực hiện quyển được rút tiền gửi trước
hạn, hoặc ngày sớm nhất mà các nhu cầu về vốn phát sinh một cách đột xuất.
- Các dòng tiền vào có thể được xếp thứ tự theo ngày mà các tài sản Có đáo hạn hoặc
căn cứ vào ước tính của ngân hàng về dòng tiền
Công cụ này cho phép người quản lý có thể quyết định mức tài sản thanh
khoản cần dự trữ để đáp ứng được nhu cầu dòng tiền ra trong một khoảng thời
gian nhất định trong tương lai. Khoảng thời gian để tính toán thang đáo hạn
thường ngắn, thông thường bắt đầu từ ngày tiếp theo và các khoảng 1-3 ngày,
3-5 ngày. Các khoảng thời gian tiếp theo có thể được kéo dài trong một kỳ hoặc
hơn một năm.
• Bước 3: Biện pháp quản trị rủi ro thanh khoản
 Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản “Có”
Chiến lược tiếp cận thanh toán thực sự còn gọi là học thuyết cho vay thương

mại: Khi thực hiện chiến lược này, ngân hàng chỉ cho vay ngắn hạn. Trong
trường hợp nhu cầu thanh khoản phát sinh, ngân hàng có thể thu hồi các
khoản cho vay hoặc bán nợ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Hạn chế của
chiến lược này là ngân hàng sẽ mất dần thị phần cho vay trung, dài hạn.
Chiến lược tiếp cận thị trường tiền tệ còn gọi là chiến lược tiếp cận thị trường vốn
ngắn hạn: Chiến lược này đòi hỏi ngân hàng phải dự trữ thanh khoản đủ lớn dưới hình thức nắm
giữ những tài sản có tính thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán ngắn hạn. Khi
xuất hiện nhu cầu thanh khoản, ngân hàng sẽ bán lần lượt các tài sản dự trữ cho đến khi nhu cầu
thanh khoản được đáp ứng. Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này thường được gọi là
sự chuyển hóa
tài sản, bởi lẽ nguồn cung thanh khoản được tài trợ bằng cách chuyển đổi tài sản phi
tiền mặt thành tiền mặt.
Những tài sản có tính thanh khoản phổ biến bao gồm: trái phiếu kho bạc, các
khoản vay ngân hàng trung ương, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác,
chứng khoán của các cơ quan chính phủ, chấp phiếu của ngân hàng khác. Như vậy,
trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản “Có”, một ngân hàng được
coi là quản trị thanh khoản tốt nếu ngân hàng này có thể tiếp cận nguồn cung thanh
khoản với chi phí hợp lý, số lượng vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời.
Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản “Có” có ưu điểm là ngân
hàng hoàn toàn chủ động trong việc tự đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho mình mà
không bị lệ thuộc vào các chủ thể khác. Tuy nhiên, chiến lược này cũng có những
nhược điểm sau:
- Một khi bán tài sản tức là ngân hàng mất đi thu nhập mà các tài sản này tạo
ra. Như vậy, ngân hàng đã chịu chi phí cơ hội khi bán đi các tài sản
đã

đầu
tư.
- Phần lớn các trường hợp khi bán tài sản đều tốn kém chi phí giao dịch như
hoa hồng trả cho người môi giới chứng khoán.

- Tổn thất càng lớn cho ngân hàng nếu các tài sản đem bán bị giảm giá trên thị
trường, hoặc bị người mua ép giá do phải gấp rút bán để đáp ứng nhu cầu
thanhkhoản.
Ngân hàng phải đầu tư nhiều vào các tài sản có tính thanh khoản cao, lại là các
tài sản có khả năng sinh lợi thấp nên tất yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của
ngân hàng
 Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản “Nợ”:
Trong chiến lược này, nhu cầu thanh khoản được đáp ứng bằng cách vay
mượn trên thị trường tiền tệ. Việc vay mượn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản tức thời và chỉ thực hiện khi có nhu cầu thanh khoản phát sinh.
Nguồn tài trợ cho chiến lược này thường bao gồm: vay qua đêm, vay ngân
hàng trung ương, bán các hợp đồng mua lại, phát hành chứng chỉ tiền gửi có thể
chuyển nhượng mệnh giá lớn, Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản
“Nợ” được các ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu
thanh khoản.
Nhược điểm của chiến lược này là ngân hàng bị phụ thuộc vào thị trường
tiền tệ khi đáp ứng nhu cầu thanh khoản (nhưng đồng thời cũng đem lại lợi
nhuận cao nhất) do sự biến động về khả năng cho vay và lãi suất trên thị
trường tiền tệ. Hơn nữa, một ngân hàng vay mượn quá nhiều thường bị đánh
giá là có khó khăn về tài chính, khi thông tin này lan rộng ra, những khách
hàng gửi tiền sẽ rút vốn hàng loạt hoặc ngân hàng phải huy động vốn với chi
phí cao gấp nhiều lần.
 Chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng
Như phân tích ở trên, cả hai chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản
“Có” và dựa vào tài sản “Nợ” đều có hạn chế: chịu chi phí cơ hội khi bán các tài sản
dự trữ hoặc bị phụ thuộc quá nhiều vào thị trường tiền tệ. Do đó, phần lớn các ngân
hàng thường dung hoà và kết hợp cả hai chiến lược trên để tạo ra chiến lược quản trị
thanh khoản cân bằng.
Định hướng của chiến lược này là: các nhu cầu thanh khoản thường xuyên,
hàng ngày sẽ được đáp ứng bằng tài sản dự trữ như tiền mặt, chứng khoán khả mại,

tiền gửi tại các ngân hàng khác ; các nhu cầu thanh khoản không thường xuyên
nhưng có thể dự đoán trước như nhu cầu thanh khoản theo thời vụ, chu kỳ, xu
hướng sẽ được đáp ứng bằng các thoả thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân
hàng đại lý hoặc nhà cung ứng vốn khác; các nhu cầu thanh khoản đột xuất không
thể dự báo được đáp ứng từ việc vay mượn trên thị trường tiền tệ; các nhu cầu
thanh khoản dài hạn được hoạch định và nguồn tài trợ là các khoản vay ngắn và trung
hạn, chứng khoán có thể chuyển hoá thành tiền
• Bước 4: Kiểm soát rủi ro thanh khoản
- Đảm bảo rằng hoạt động của ngân hàng phù hợp với chiến lược thanh khoản đã đặt
ra.
- Đảm bảo các chính sách và thủ tục cần thiết cho quản lý rủi ro thanh khoản được
thực hiện.
- Quản lý tình hình thanh khoản và cơ cấu rủi ro của ngân hàng một cách định kỳ để
hiểu và đánh giá rủi ro thanh khoản của ngân hàng.
- Giám sát hoạt động của Uỷ ban quản lý tài sản/công nợ và việc xử lý các vấn đề
quan trọng của Uỷ ban này.
Như vậy, thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản là vấn đề thường xuyên, then
chốt quyết định đến sự tồn tại của các ngân hàng. Tùy vào đặc điểm về phạm vi, quy
mô hoạt động, năng lực quản lý và môi trường kinh tế vĩ mô mà ngân hàng lựa chọn
chiến lược, phương pháp quản trị thanh khoản tương ứng. Các ngân hàng thương mại
Việt Nam nếu mong muốn nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả, an toàn trong
hoạt động, nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay, vấn đề thanh khoản, quản trị
rủi ro thanh khoản không thể xem nhẹ
4.2. Quy trình thực hiện nghiệp vụ quản trị rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là rủi ro ngân hàng có thể bị lỗ do biến động tỷ giá không thuận lợi khi
mà ngân hàng đang có các trạng thái mở, như tài sản có hoặc tài sản nợ trên bảng cân
đối hoặc các khoản mục ngoại bảng dưới dạng ngoại tệ. Khả năng thua lỗ có thể phát
sinh do quá trình đánh giá lại trạng thái ngoại tệ sang tiền đồng Việt Nam. Nhà quản
lý cần phải quan tâm tới ảnh hưởng của biến động tỷ giá tới giá trị đồng Việt Nam
tương ứng của các trạng thái ngoại tệ.

Quy trình thực hiện nghiệp vụ quản trị rủi ro hối đoái như sau:
• Bước 1: Nhận biết rủi ro hối đoái .
Rủi ro hối đoái có thể phát sinh do các đặc điểm trong hoạt động của ngân hàng:
- Sự mất cân đối về cơ cấu giữa tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ. Trạng thái mở
được tạo ra khi tài sản có bằng một loại tiền tệ nào đó không cân đối với tài sản nợ
bằng loại tiền tệ đó. Tài sản có lớn hơn tài sản nợ tạo ra trạng thái ngoại tệ dương
(trường thuần), ngược lại, tài sản nợ lớn hơn tài sản có tạo ra trạng thái ngoại tệ âm
(đoản thuần).
- Hoạt động phục vụ khách hàng, trong đó mục đích cơ bản là cung cấp các dịch vụ về
hợp đồng ngoại tệ trả ngay hoặc kỳ hạn nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng và để
thu lãi cho ngân hàng từ các dịch vụ đó. Ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu
mua và bán ngoại tệ của rất nhiều cơ quan Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước
trong việc xuất/ nhập khẩu dầu thô, xăng, dầu
Việc đánh giá các trạng thái mở cần tính đến cả các khoản mục nội và ngoại bảng, bao
gồm các tài khoản sau:
- Tài khoản tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng khác
- Tài khoản tiền gửi thanh toán của các ngân hàng khác tại ngân hàng
Nhận
biết rủi ro hối
đoái
Đo lường
rủi ro hối đoái
Biện
pháp quản trị rủi
ro hối đoái
Kiểm
soát rủi ro hối
đoái
- Tiền gửi khác và cho vay các ngân hàng khác
- Tiền gửi của khách hàng bằng ngoại tệ

- Các hợp đồng ngoại hối giao ngay
- Các hợp đồng ngoại hối kỳ hạn
• Bước 2: Đo lường rủi ro hối đoái
Một phương pháp phổ biến để đo lường và hạn chế rủi ro hối đoái là làm giảm các
trạng thái mở của mỗi loại tiền tệ vào cuối mỗi ngày giao dịch. Trạng thái mở thuần có
thể được biểu hiện bằng phần trăm của tổng vốn, tổng tài sản hay một định chẩn nào
đó.
Phương pháp này nhằm giám sát rủi ro hối đoái bằng cách sử dụng trạng thái mở
thuần làm thước đo về độ mất mát tiềm tàng của trạng thái đó. Thông thường, hạn
mức cho loại tiền không dễ chuyển đổi và không ổn định phải thấp hơn hạn mức cho
loại tiền dễ chuyển đổi và ổn định.
Hạn mức cho phép cần được ấn định cho các trạng thái mở dựa trên các tiêu chí sau:
- Hạn mức cho mỗi giao dịch viên- dựa trên kinh nghiệm của mỗi giao dịch viên.
Trưởng phòng giao dịch được cấp hạn mức cao hơn
- Hạn mức cho mỗi giao dịch – có thể dao động từ 1 triệu đô la Mỹ đến 6 triệu đô la
Mỹ
- Hạn mức cho mỗi bên đối tác, được quyết định dựa trên xếp hạng tín dụng từ Hệ
thống tính điểm tín dụng
- Hạn mức cho từng loại tiền, và cho tất cả các loại tiền, Thông tư số 07/2012/TT-
NHNN quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày 20
tháng 03 năm 2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định Ngân hàng phải duy
trì trạng thái ngoại tệ như sau:
• Tổng trạng thái ngoại tệ dương (âm) cuối ngày của TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài
- Hạn mức quốc gia, tổng số dư cho tất cả các đối tác phân theo quốc gia
- Hạn mức qua đêm, là hạn mức cho các trạng thái vào cuối ngày giao dịch. Hạn mức
này nhằm giám sát rủi ro hối đoái của ngân hàng trong khoảng thời gian ngân hàng
không hoạt động và do đó không phản ứng được đối với thị trường. Tổng hạn mức
qua đêm của phòng giao dịch là 6 triệu USD. Trong tổng hạn mức đó, hạn mức đối

với mỗi giao dịch viên là 1 triệu USD và hạn mức đối với Trưởng phòng giao dịch là 2
triệu USD Mỹ.
- Hạn mức trong ngày. Hạn mức này có thể áp dụng cho các loại tiền được giao dịch
trong nhiều ngày.
Ngân hàng cần xây dựng một quy trình để đảm bảo những trường hợp vượt quá
hạn mức cần được báo cáo kịp thời cho Ban lãnh đạo ngoài Khối Phòng vốn. Những
trường hợp vượt hạn mức cần được cấp có thẩm quyền của khối phòng Vốn phê duyệt
trước
• Bước 3: Biện pháp quản trị rủi ro hối đoái
Ngân hàng xây dựng chiến lược đối với rủi ro hối đoái trong đó phản ánh mức độ rủi
ro chấp nhận được đối với các rủi ro khác nhau trong hoạt động ngoại hối và đưa ra
các phê duyệt về:
- Các hoạt động ngoại hối được phép tham gia, và lý do ngân hàng tham gia
vào các loại hoạt động đó, chẳng hạn với mục đích cung cấp dịch vụ cho
các khách hàng trong và ngoài nước hoặc cho Chính phủ, hoặc với mục
đích kinh doanh;
- Các loại tiền tệ ngân hàng tiến hành giao dịch;
- Các loại sản phẩm hối đoái mà ngân hàng giao dịch, ví dụ như giao dịch trả
ngay hoặc giao dịch kỳ hạn.
Từ đó ngân hàng lựa chọn giải pháp chiến lược, giải pháp chiến thuật hay giải pháp
kinh doanh (như đã trình bày ở phần 1) để kiểm soát rủi ro hối đoái
Mọi phòng ban trong ngân hàng thực hiện các hoạt động liên quan đến ngoại tệ đều
cần nhận thức đầy đủ về chiến lược đối với hoạt động ngoại hối
• Bước 4: Kiểm soát rủi ro hối đoái
Cán bộ kiểm soát (Giám đốc/Phó Giám đốc, Trưởng phòng/Phó phòng, Tổ
trưởng thuộc Trung tâm kinh doanh ngoại tệ và công cụ tài chính phái sinh) tại
Trung tâm kinh doanh ngoại tệ và công cụ tài chính phái sinh:
-Theo dõi hạn mức giao dịch của các chuyên viên giao dịch;
-Lập các báo cáo kiểm soát, báo cáo các vấn đề về tuân thủ hạn mức giao dịch
của chuyên viên giao dịch;

×