Tải bản đầy đủ (.doc) (238 trang)

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TỈNH QUẢNG NGÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 238 trang )

g
UBND TỈNH QUẢNG NGÃI UBND THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆN NC PHÁT TRIỂN KT-XH ĐÀ NẴNG
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC
"NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TỈNH QUẢNG NGÃI"



Đà Nẵng, tháng 10/2011
PHẦN MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển công nghiệp nông thôn là một nhiệm vụ trọng tâm trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt
Nam. Có hai phương thức cơ bản để thực hiện chủ trương này: một là xây dựng
các cụm công nghiệp hoặc cụm công nghiệp - TTCN; hai là phát triển các làng
nghề và ngành nghề ở nông thôn. Phát triển các làng nghề và ngành nghề nông
thôn nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm
nghèo, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cũng là thực
hiện mục tiêu “ly nông bất ly hương” đang diễn ra mạnh mẽ tại các vùng nông
thôn ở tỉnh Quảng Ngãi.
Với mục tiêu phát triển ngành nghề nông thôn nhằm giải quyết việc làm
cho người dân, tăng giá trị sản phẩm các ngành nghề ở nông thôn, UBND tỉnh
Quảng Ngãi đã ban hành Quyết định số 106/2003/QĐ - UBND ngày 27 tháng 6
năm 2003 về việc phê duyệt Qui hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2003 - 2010. Trong đó, tỉnh đã tập trung phát triển 3
nhóm ngành, bao gồm: Nhóm 1: Ngành nghề cần đầu tư phát triển đến năm
2010, như nhóm ngành nghề chế biến đường; nghề sản xuất mây tre và đan lát,
nghề dệt thổ cẩm, nghề cá bống kho tộ và nghề chế biến thịt bò khô; Nhóm 2:
Ngành nghề giải quyết việc làm và tiêu dùng xã hội, như nhóm ngành nghề chế
biến sản phẩm từ gạo, nghề chế biến thủy sản, nghề làm chiếu cói, nghề sản xuất


chổi đót, nghề sản xuất đồ mộc dân dụng, nghề làm muối…; Nhóm 3: Hình
thành một số ngành nghề mới, gồm: nghề trồng nấm, nghề trồng hoa, sinh vật
cảnh, sinh thái.
Tính đến nay, có 9 làng nghề và nghề được UBND tỉnh công nhận nghề,
truyền thông hoặc làng nghề truyền thống theo các tiêu chí mới, bao gồm: Dệt
thổ cẩm làng Teng, xã Ba Thành (Ba Tơ); sản xuất nem, chả phường Lê Hồng
Phong, sản xuất thịt bò khô phường Nguyễn Nghiêm; sản xuất đường kẹo đặc
sản phường Nghĩa Lộ (TP.Quảng Ngãi); sản xuất chổi đót thôn Đại An Đông,
xã Hành Thuận, sản xuất bánh tráng, bún thôn Hiệp Phổ Trung; xã Hành
1
Trung; trồng hoa, cây cảnh thôn Xuân Vinh xã Hành Đức (Nghĩa Hành); chế
biến nước mắm Đức Lợi xã Đức Lợi (Mộ Đức); chế biến hải sản Thạch Bi xã
Phổ Thạnh (Đức Phổ).
Trong những năm gần đây, mặc dù chính quyền tỉnh đã có những chính sách
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nhưng
các làng nghề vẫn gặp nhiều khó khăn: Thiết bị và công nghệ chưa được đầu tư
đúng mức; năng suất lao động thấp; chất lượng và mẫu mã của sản phẩm đáp ứng
chưa cao thị hiếu ngày càng khắt khe của người tiêu dùng; trình độ tay nghề người
lao động chưa được chú trọng đào tạo và nuôi dưỡng; thu nhập trong các làng nghề
và các cơ sở sản xuất chưa đủ sức thu hút người lao động đặc biệt đối với lao động
có tay nghề cao và các nghệ nhân; môi trường tại các làng ngh ề và nhiều cơ sở
sản xuất chưa được quan tâm đúng mức; mặt bằng và vốn cho sản xuất đang là nhu
cầu cấp thiết của nhiều cơ sở sản xuất; thị trường tiêu thụ còn hẹp, thương hiệu
hàng hoá và công tác quảng cáo chưa được đầu tư thoả đáng Do đó chưa tạo điều
kiện để thu hút hết lực lượng lao động cũng như sử dụng hết khả năng tay nghề của
người thợ nhằm phát huy tối đa tiềm năng kinh tế vốn có của tỉnh.
Mặt khác, cùng với sự tăng trưởng kinh tế là quá trình đô thị hóa diễn ra
với tốc độ ngày càng nhanh, hiện tượng người lao động từ các làng quê Quảng
Ngãi dịch chuyển ra các thành phố lớn là rất lớn. Vì vậy, việc phát triển các
nghề và làng nghề nông thôn cũng như các làng nghề mới có ý nghĩa quan trọng

không chỉ về mặt kinh tế mà còn góp phần ổn định chính trị xã hội.
Do đó, việc triển khai đề tài “Nghiên cứu phát triển làng nghề tỉnh Quảng
Ngãi’ nhằm đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nghề
và làng nghề tỉnh Quảng Ngãi là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao
trong việc góp phần phát triển KT-XH tỉnh, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa mà cụ thể là phát triển các làng nghề ở tỉnh Quảng Ngãi.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Các nước trên thế giới khi tiến hành CNH, HĐH đối với kinh tế nông
nghiệp thì phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn được coi là phát huy lợi thế so
sánh, nội lực của đất nước; vừa thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế vừa giải
2
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Trong đó, làng nghề, làng nghề truyền
thống, ngành nghề ở nông thôn là những nguồn lực còn nhiều tiềm năng của đất
nước. Vì vậy, vấn đề phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống, ngành nghề ở
nông thôn và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng đã được nghiên cứu, thảo luận tại nhiều hội thảo
trong và ngoài nước. Được nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học chính quyền các
cấp quan tâm, các sách chuyên khảo, các bài báo trên các tạp chí chuyên ngành
đề cập và đã đạt được những kết quả nhất định. Sau đây là tổng quan tình hình
nghiên cứu liên quan đến đề tài như sau:
Trên thế giới:
Trong nghiên cứu của Awgichew (2010) về các chính sách và các giải
pháp nhằm xúc tiến các làng nghề nông thôn ở Ethiopia tại Hội thảo quốc tế về
“Ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển các làng nghề” đã nêu lên các
kinh nghiệm của Chính phủ Ethiopia trong việc chú trọng nâng cấp, hiện đại hoá
cơ sở hạ tầng giúp các làng nghề phát triển: Với 83% người dân Ethiopia sống ở
các vùng nông thôn và sinh kế xuất phát từ nông nghiệp. Chính phủ Ethiopia đã
thông qua chiến lược công nghiệp hoá phát triển nông nghiệp (ADLI), đóng vai
trò làm khung cho qui hoạch đầu tư nông thôn trong các lĩnh vực: cơ sở hạ tầng,
dịch vụ xã hội, nghiên cứu và mở rộng. Kế hoạch phát triển bền vững và nhanh

chóng để chấm dứt đói nghèo có 70% người dân nông thôn được tổ chức theo
hợp tác xã, 200 điểm cung cấp thông tin thị trường cấp huyện và 20 trung tâm ở
vùng sâu vùng xa của Ethiopia đã được dựng lên; 25 trung tâm giáo dục và đào
tạo nghề ra đời; 55.000 công nhân được đào tạo; 18.000 trung tâm đào tạo cho
nông dân được lập lên; 10 triệu người được đào tạo; làm giảm khoảng cách đi bộ
trung bình trên mỗi con đường xuống còn 3,2 giờ; 8 triệu đường dây điện thoại
(cố định, không dây và di động) và tăng dịch vụ truyên thông và công nghệ
thông tin.
Việc mở rộng cơ sở hạ tầng này thực hiện theo cấp số nhân. Thay đổi cách
sống của người dân vùng nông thôn, đặc biệt là bằng cách giúp họ có thể sử dụng
được các thiết bị máy móc hiện đại và kết nối họ với thế giới hiện đại.
3
Dưới sự tài trợ của Tổ chức Rockefeller, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển
Cộng đồng (Trung Quốc) đã nghiên cứu về Tìm hiểu và Thương mại hóa nghề
thủ công ở tỉnh Vân Nam. Mục đích của dự án là cải thiện thu nhập của phụ nữ
ở huyện miền núi Malutang bằng cách thương mại hóa sản phẩm thêu truyền
thống. Đầu tiên, họ triển khai thu thập toàn bộ mẫu thêu truyền thống và thay
đổi sao cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hiện nay. Sau đó, những
người phụ nữ tham gia dự án sẽ được huấn luyện kỹ thuật gia công, tạo mẫu để
có thể sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao và tiêu thụ tốt trên thị trường.
Cuối cùng, dự án đưa ra khung chi phí hợp lý về sản phẩm do những người tham
gia dự án thực hiện; bao gồm: số lượng nguyên vật liệu, thời gian và giá cả có
thể tạo thu nhập cao. Dự án thành công và được chuyển giao đến những huyện
vùng núi khác ở tỉnh Vân Nam. Làng Malutang trở thành một địa phương nổi
tiếng về mặt hàng thêu truyền thống.
Ở trong nước:
“Nghiên cứu qui hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng CNH
nông thôn Việt Nam” của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (2002) đã đạt được một số kết quả sau:
+ Lập bản đồ ngành nghề thủ công trên toàn quốc.

+ Đánh giá hiện trạng các mặt hàng thủ công như: cói, sơn mài, chạm
khắc đá
+ Đánh giá hiện trạng các vấn đề nguyên liệu, điều kiện làm việc, tài
chính, vốn
+ Đặc biệt, đưa ra vấn đề hỗ trợ của chính phủ cho sản xuất nghề thủ công
truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Sự hỗ trợ trên các phương diện: hỗ
trợ trực tiếp vốn, hỗ trợ gián tiếp về thực hiện thương mại bình đẳng, năng lực
quản lý kinh doanh.
Trong nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh (2005) đã phân tích vai trò
của làng nghề và những nhân tố tác động đến sự phát triển của làng nghề. Dựa
trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển làng nghề
4
đề tài đã đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề ở đồng bằng
sông Hồng trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. Từ đó, đề xuất hệ quan điểm
và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu
quả của các làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
Trong nghiên cứu của Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Thu Hoà (2005), các tác
giả đã nêu một cách tổng quan những xu hướng phát triển của các nghề phi nông
nghiệp và các làng nghề ở nông thôn Việt Nam. Phân tích các đặc điểm và tác
động của sự phát triển làng nghề phi nông nghiệp và các làng nghề đối với
những thay đổi về kinh tế, xã hội và môi trường, đặc biệt là tác động đối với
nhóm những hộ nghèo ở nông thôn. Trên cơ sở phân tích đó, đề xuất những kiến
nghị trong phát triển và quản lý các nghề phi nông nghiệp và các làng nghề
nhằm giảm nghèo nói riêng và đảm bảo sự phát triển của nông thôn Việt Nam.
Theo nghiên cứu của TS. Lê Cao Thanh đối với nghề gạch thủ công và đồ
gốm ở tỉnh Vĩnh Long, đến năm 2006 toàn tỉnh có 10 làng nghề sản xuất gạch
thủ công và đồ gốm. Các sản phẩm đều có các đặc điểm riêng biệt và được xuất
khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, vì không có chiến lược thích hợp,
các làng nghề chỉ phát triển một cách tự phát. Một nghiên cứu về chính sách
phát triển làng nghề làm gạch thủ công và đồ gốm đã được thực hiện trong các

năm 2005 và 2006. Về cơ bản, nghiên cứu đã đánh giá được các tiềm năng, điểm
mạnh, điểm yếu, các cơ hội và nguy cơ của việc phát triển làng nghề. Từ đó đã
chỉ ra 8 chiến lược chính để phát triển các làng nghề này ở tỉnh Vĩnh Long. Các
chiến lược được xem xét và chọn lựa một cách hợp lý dựa trên các điều kiện cụ
thể. Đồng thời, để thực hiện thành công các chiến lược nói trên cần có sự hỗ trợ
về đào tạo nhân lực, cung cấp thông tin thị trường và tạo ra một hành lang pháp
lý phù hợp để phát triển làng nghề.
Đề tài khoa học cấp Bộ thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo của GS.TS Hoàng
Văn Châu (2006) đã nêu bật tiềm năng về làng nghề du lịch và sự cần thiết phải
phát triển mô hình làng nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ cả những
mặt được và chưa được. Đã trình bày rõ quan điẻm và mục tiêu phát triển làng
nghề du lịch trong những năm tới để đưa ra giải pháp và kiến nghị đối với các cơ
5
quan hữu quan nhằm phát triển mô hình làng nghề du lịch. Đặc biệt là trong
công trình đã đề xuất phương án xây dựng các tour du lịch hợp lý và hiệu quả
nhất để thu hút khách du lịch đến với các làng nghề.
TS Nguyễn Vĩnh Thanh đã có nghiên cứu về việc xây dựng thương hiệu
sản phẩm làng nghề truyền thống ở đồng bằng Sông Hồng. Trong đó, tác giả đã
nêu rõ vai trò của thương hiệu đối với việc phát triển sản phẩm làng nghề truyền
thống vùng đồng bằng sông Hồng trong nền kinh tế thị trường hội nhập hiện nay
trên các khía cạnh: thương hiệu và phân loại thương hiệu; vai trò và chức năng
của thương hiệu; quan hệ thương hiệu – sản phẩm trong nền kinh tế thị trường
và sự cần thiết phải xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề truyền thống.
Đánh giá thực trạng vấn đề xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền
thống ở đồng bằng sông Hồng, trong đó có vấn đề nhận thức của làng nghề về
thương hiệu, chiến lược phân phối và quảng bá thương hiệu. Từ thực trạng vấn
đề xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề, nghiên cứu đã đề xuất phương
hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng thương hiệu sản phẩm
của làng nghề ở vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian đến.
ThS. Nguyễn Hữu Thông (2007) đã nêu ra bối cảnh nghề truyền thống ở

Việt Nam, vai trò nghề thủ công trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Huế và
sự mai một các nghề thủ công truyền thống. Tác giả đã đề cập về những hệ quả
mà các làng nghề thủ công truyền thống phải đối mặt và đưa ra giải pháp để
khắc phục. Mặc dù, tác giả đưa ra những nhận định về thực trạng mai một của
các làng nghề truyền thống nhưng chưa tìm hiểu những nguyên nhân khách quan
và chủ quan dẫn đến những hệ quả này. Những giải pháp chủ yếu tập trung dành
cho những doanh nhân trong lĩnh vực này mà thiếu đi những giải pháp về chính
sách hỗ trợ của chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế trong việc phát triển nghề thủ
công truyền thống.
Nằm trong khuôn khổ dự án “Khung chính sách cho ngành thủ công ở
Việt Nam, tập trung vào làng nghề thủ công truyền thống ở năm khu vực di sản
thế giới” do Quỹ Korea Funds - Trust tài trợ, với sự điều phối của Bộ Văn hóa -
Thể thao - Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các tỉnh có di
6
sản thế giới, TS Nguyễn Thị Phương Châm và các cộng sự (2009) đã công bố
kết quả bước đầu về tiềm năng, thực trạng và những giải pháp cho sự phát triển
nghề thủ công ở Huế trong bối cảnh thành phố di sản. Trong nghiên cứu của
mình, tác giả đã trình bày bối cảnh chung của Huế và đặc thù nghề thủ công;
thực trạng nghề thủ công ở Huế và các giải pháp, trong đó tập trung vào phân
tích các nội dung: nguyên liệu, qui trình và công nghệ sản xuất, qui mô sản xuất,
nhân lực, môi trường, sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm; quản lý ngành
nghề thủ công và mối quan hệ giữa nghề thủ công và di sản, du lịch. Đồng thời,
cũng nêu lên các chính sách, các chương trình, dự án, nghiên cứu liên quan đến
việc phục hồi và phát triển ngành nghề thủ công ở Huế. Nhìn chung, nghiên cứu
về nghề thủ công này khá toàn diện, nhưng hạn chế của nghiên cứu là chưa đánh
giá được vai trò hỗ trợ của chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy phát
triển ngành nghề thủ công ở Huế.
Tác giả Liên Minh (2009) cũng đã có bài tham luận “Một số vấn đề bảo
tồn và phát triển làng nghề’ tại Hội thảo ‘Nghề và làng nghề thủ công truyền
thống: Tiềm năng và định hướng phát triển’ được tổ chức tại Thành phố Huế

(6/2009). Ông đã đưa ra được những nhận định về việc bảo tồn và phát triển
làng nghề thủ công truyền thống nói chung ở Việt Nam và chủ trương, chính
sách hỗ trợ của Chính phủ trong lĩnh vực này. Đồng thời, ông đã đưa ra những
quan điểm; mục tiêu; định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề theo vùng lãnh
thổ; nội dung bảo tồn và phát triển làng nghề và một số giải pháp thực hiện bảo
tồn và phát triển làng nghề. Tuy nhiên, hạn chế của bài viết chỉ nêu khái quát
tình hình mà chưa có nghiên cứu sâu về thực trạng các làng nghề. Do đó, các
giải pháp đưa ra cũng chỉ mang tính định hướng là chính mà không có tính chiến
lược cho từng địa phương cụ thể.
Năm 2009, trong khuôn khổ nghiên cứu về khu du lịch thắng cảnh Ngũ
Hành Sơn, các tác giả Lê Đức Viên và Võ Thị Phương Ly đã có bài viết về ‘Một
số giải pháp phát triển bền vững làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước’. Các tác giả
đã nêu sơ lược quá trình hình thành của làng nghề; vài nét về thực trạng trong đó
có phân tích kết quả sản xuất kinh doanh, lao động và thu nhập, nguồn nguyên
7
liệu, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, những chính sách hỗ trợ của nhà nước và
phân tích hạn chế và nguyên nhân; cuối cùng khuyến nghị một số giải pháp phát
triển mang tính đột phá.
Đánh giá chung:
Tất cả những công trình nêu trên đã tiến hành nghiên cứu làng nghề, làng
nghề truyền thống tập trung ở các lĩnh vực chính sau:
+ Một là, nghiên cứu tổng quan về tình hình hoạt động của công nghiệp
nông thôn; thực trạng CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn;
+ Hai là, nghiên cứu về tình hình phát triển tiểu thủ công nghiệp và những
vấn đề môi trường tác động đến làng nghề;
+ Ba là, nghiên cứu về tình hình SXKD của làng nghề, làng nghề truyền
thống từ lao động, công nghệ, vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm… trong bối
cảnh hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về thực trạng
và giải pháp phát triển nghề, làng nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi. Đặc biệt là nghiên cứu phát triển bền vững các nghề, làng nghề,
làng nghề truyền thống trên cơ sở gắn kết 03 nội dung kinh tế - xã hội - môi
trường trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
3. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
* Mục tiêu tổng quát:
Phát triển làng nghề nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỉ trọng làng nghề TTCN trong
cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống của
người dân nông thôn.
* Đồng thời đề tài thực hiện một số mục tiêu cơ bản sau:
- Đánh giá thực trạng và tiềm năng phát triển nghề và làng nghề TTCN ở
khu vực đồng bằng, trung du trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
- Đề xuất các giải pháp phát triển các làng nghề;
- Kiến nghị 02 đề án triển khai giải pháp trong thực tế đối với việc phát
triển 02 làng nghề cụ thể.
8
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Các làng nghề, làng nghề truyền thống, làng nghề mới, các nghề
truyền thống và nghề mới trên địa bàn 6 huyện đồng bằng, trung du và TP
Quảng Ngãi.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu các đối tượng trên tại các
huyện đồng bằng và trung du trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, bao gồm: Bình
Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, và thành phố
Quảng Ngãi.
- Về thời gian: Nghiên cứu sự phát triển của các đối tượng nêu trên
trong phạm vi 6 huyện đồng bằng, trung du và TP Quảng Ngãi giai đoạn 2003
- 2010.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội

và phương pháp nghiên cứu liên ngành, với các phương pháp cụ thể như sau:
- Phương pháp sưu tầm các nguồn tư liệu, gồm: tư liệu thành văn, các
nghiên cứu trước đây về làng nghề (được lưu trữ dưới nhiều hình thức khác nhau).
- Phương pháp phân tích, thống kê, so sánh và tổng hợp
- Phương pháp điều tra, khảo sát trực tiếp bằng các bảng hỏi cho các đối
tượng là: chủ các cơ sở sản xuất và người lao động tại các cơ sở sản xuất kinh
doanh các ngành nghề nông thôn tại 6 huyện đồng bằng, trung du và thành phố
Quảng Ngãi.
- Phương pháp chuỗi giá trị sản phẩm làng nghề; phương pháp chuyên gia.
- Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để phân tích, xử lý số liệu thu thập được
trong 2 đợt điều tra.
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nghề và làng nghề
9
Chương 2: Thực trạng phát triển 10 nghề và làng nghề tại 6 huyện đồng
bằng, trung du và TP Quảng Ngãi
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu phát triển 10 nghề và làng nghề tại 6
huyện đồng bằng, trung du và TP Quảng Ngãi
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Ngành nghề nông thôn
Theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Chính
phủ thì ngành nghề nông thôn bao gồm:
- Chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản.
- Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt
may, cơ khí nhỏ.
- Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn.
- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.

- Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh.
- Xây dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ
sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
- Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề; tư vấn sản xuất, kinh doanh trong
lĩnh vực ngành nghề nông thôn.
Hoạt động theo các loại hình tổ chức sản xuất sau:
+ Cơ sở ngành nghề nông thôn bao gồm:
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
- Hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã;
10
- Hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký
kinh doanh.
+ Các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn.
Ngành nghề TTCN nông thôn có những đặc điểm sau:
- Ngành nghề TTCN nông thôn là những hoạt động sản xuất phi nông
nghiệp ở nông thôn.
- Sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thủ công kết hợp với nửa cơ khí
có sự thống nhất và hoà đồng giữa công nghiệp phát triển thành thị với TTCN ở
nông thôn.
- Lao động nông nghiệp và ngành nghề TTCN gắn kết chặt chẽ với nhau:
nông dân vừa làm nông nghiệp vừa tranh thủ làm TTCN và ngành nghề TTCN
mặc dù tách khỏi nông nghiệp nhưng không tách khỏi nông thôn.
- Công cụ và kỹ thuật sản xuất thường thủ công và sản phẩm được sản
xuất ra mang tính đơn chiếc.
- Sản phẩm có tính hàng hoá cao.
Tóm lại, ngành nghề TTCN nông thôn được hình thành là kết quả của quá
trình phân công lao động lâu dài ở nông thôn. Nó tồn tại đan xen, tương hỗ với
các nghề khác, nhất là nghề nông trong quá trình phát triển nông thôn, đặc biệt
là trong quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhanh.
1.2. Nghề truyền thống

1.2.1. Khái niệm và đặc trưng
Truyền thống là thuật ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của
một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ này
qua thế hệ khác. Truyền thống thể hiện tính kế thừa là chủ yếu, tuy nhiên cũng có
sự phát triển theo lịch sử. Truyền thống được biểu hiện ở hình thức như truyền
thống học tập, lễ hội truyền thống, truyền thống dòng họ, nghề truyền thống.
Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn thì: “Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ
11
lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và
phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.”
Đặc trưng cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là: phải có kỹ thuật và
công nghệ truyền thống, đồng thời có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề.
Sản phẩm làm ra phải có tính hàng hoá, đồng thời có tính nghệ thuật và mang
đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Những nghề truyền thống thường được truyền trong một gia đình, một
dòng họ, một làng, một vùng. Trong những làng nghề truyền thống, đa số người
dân đều hành nghề truyền thống đó. Ngoài ra, họ còn có thể phát triển những
nghề khác, những nghề này chiếm tỷ lệ nhỏ hơn so với nghề truyền thống.
Ngày nay, việc sản xuất các sản phẩm có tính truyền thống được hỗ trợ
bởi quy trình công nghệ mới với nhiều loại nguyên vật liệu mới. Do vậy khái
niệm nghề truyền thống cũng được nghiên cứu và mở rộng hơn.
1.2.2. Phân loại nghề truyền thống
Hiện nay ở nước ta tồn tại nhiều nghề truyền thống khác nhau, phân bố
khắp nơi trong cả nước, được tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Hồng. Việc
phân loại các nhóm nghề tương đối khó khăn, nó chỉ mang ý nghĩa tương đối,
bởi vì một số người có thể vừa thuộc nhóm này song cũng có thể vừa thuộc
nhóm khác. Mặt khác, một số nghề đối với địa phương được coi là nghề truyền
thống, nhưng trên phạm vi vĩ mô có thể chưa được gọi là nghề truyền thống. Có
nhiều cách phân loại nghề, tuy nhiên có thể xem xét một số cách như sau:

a) Phân loại theo trình độ kĩ thuật:
- Loại nghề có kĩ thuật đơn giản như đánh sợi, đan võng xã Đức Chánh
(Mộ Đức), sản xuất chổi đót ở Phổ Phong (Đức Phổ), sản xuất bánh tráng Thi
Phổ, sản xuất gạch ngói Đức Nhuận (Mộ Đức)… sản phẩm của những nghề này
có tính chất thông dụng, phục vụ nhu cầu hằng ngày của dân cư nông thôn.
- Loại nghề có kĩ thuật phức tạp như gốm Chẩu Ổ (Bình Sơn), gốm Phổ
Khánh (Đức Phổ), đúc đồng xã Đức Hiệp (Mộ Đức).v.v các nghề này không
chỉ có kĩ thuật công nghệ phức tạp mà còn đòi hỏi nhiều ở người thợ sự sáng tạo
và khéo léo. Sản phẩm có giá trị kinh tế, vừa mang tính văn hóa; không chỉ tiêu
thụ ở trong nước mà còn có thể xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.
12
b) Phân loại theo tính chất kinh tế:
- Loại nghề thường phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên, đây
là nghề phụ của hầu hết gia đình nông dân, sản phẩm ít mang tính chất hàng hóa,
chủ yếu là phục vụ nhu cầu tại chỗ như: chế biến nông sản, sản xuất công cụ như
cày bừa, liềm hái.v.v
- Loại nghề mà hoạt động của nó độc lập với quá trình sản xuất nông nghiệp,
những nghề này được phát triển bởi sự tiến bộ của trình độ kĩ thuật công nghệ và
trình độ tay nghề của người thợ, sản phẩm thể hiện tài năng sáng tạo và sự khéo léo
của người thợ, đặc biệt sản phẩm tạo ra trở thành hàng hóa, đem lại thu nhập cao
cho người sản xuất, tiêu biểu là: nghề dệt, gốm sứ, kim hoàn
Tuy nhiên, cách phân loại trên chỉ phụ thuộc trong điều kiện trước đây,
ngày nay trong nền kinh tế thị trường, nhiều nghề đã phát triển mạnh. Dựa vào
giá trị sử dụng của các sản phẩm, có thể phân loại các ngành nghề truyền thống
theo các nhóm chính như sau:
+ Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm sứ,
chạm khảm gỗ, chạm khắc đá, thêu, vàng bạc.v.v
+ Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống như: nề, mộc, hàn,
đúc đồng, gang, nhôm, sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ.v.v
+ Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng như: dệt vải, dệt chiếu,

khâu nón.v.v
+ Các ngành nghề chế biến lương thực thực phẩm như: xay xát, làm bún
bánh, nấu rượu, nấu đường mật, chế biến thủy sản.v.v
1.2.3. Tiêu chí công nhận nghề truyền thống
Nghề được công nhận là nghề truyền thống (theo Thông tư 116/2006/TT-
BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phải đạt 03 tiêu chí sau:
- Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận;
- Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc;
- Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của
làng nghề.
1.3. Làng nghề
1.3.1. Khái niệm và đặc trưng
13
Thôn, làng là một thuật ngữ dùng để chỉ một đơn vị hành chính ở nông
thôn bao hàm là một tập hợp cộng đồng dân cư trên một vùng lãnh thổ xác định,
có khả năng độc lập về kinh tế. Trong điều kiện chống ngoại xâm, thiên tai thì
họ là một cộng đồng thống nhất. Họ còn là một cộng đồng văn hóa gắn liền với
biểu tượng cây đa, giếng nước, mái đình.
Làng, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là một khối người quây
quần ở một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào của xã hội của
người Việt, là một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một
không gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại cùng
sinh sống và sản xuất. Trong quá trình đô thị hóa, khái niệm làng được hiểu một
cách tương đối. Một số địa phương hiện nay không còn được gọi là làng mà thay
vào đó là những tên gọi khác như phố, khối phố. Tuy nhiên, dù tên gọi là có thay
đổi nhưng bản chất của cộng đồng dân cư đó vẫn gắn với nông thôn thì vẫn
được xem là làng.
Các làng ở nước ta được chia làm 4 loại chính:
- Làng thuần nông hay còn gọi là làng nông nghiệp, là những làng nghề

nông một cách thuần túy.
- Làng buôn bán, là làng làm nghề nông có thêm nghề buôn bán của một
số thương nhân chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp.
- Làng nghề, là làng làm nghề nông nghiệp nhưng có thêm một số nghề
thủ công.
- Làng chài, là làng của các cư dân làm nghề chài lưới, đánh cá sống ở ven
sông, ven biển.
Sự xuất hiện của các nghề thủ công ở các làng quê lúc đầu chỉ là ngành
nghệ phụ, chủ yếu được nông dân tiến hành trong lúc nông nhàn. Về sau, do quá
trình phân công lao động, các ngành nghề thủ công tách dần khỏi nông nghiệp
nhưng lại phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, khi đó người thợ thủ công có thể
không còn sản xuất nông nghiệp nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê mình. Khi
nghề thủ công phát triển, số người chuyên làm nghề thủ công và sống được bằng
14
nghề này tăng lên, điều nay diễn ra ngay trong các làng quê và đó là cơ sở cho
sự tồn tại của các làng nghề ở nông thôn.
Từ những luận điểm và lý luận trên đã có nhiều định nghĩa về làng nghề
được đưa ra. Đề tài sử dụng khái niệm làng nghề theo Thông tư 116/2006/TT-
BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề là một hoặc nhiều
cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương
tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất
ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau”.
Thực tế cho thấy “Làng nghề” là một tập hợp từ thể hiện một không gian
vùng quê nông thôn, ở đó có những hộ thuộc một số dòng tộc nhất định sinh
sống. Ngoài sản xuất nông nghiệp, họ còn có một số nghề sản xuất phi nông
nghiệp. Trong các làng nghề này tồn tại đan xen nhiều mối quan hệ kinh tế, xã
hội phong phú và phức tạp. Làng nghề là những làng ở nông thôn có những
nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và thu nhập so với nghề
nông.
Như vậy khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung chính sau:

“Làng nghề là một thiết chế KT-XH ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố
làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lí nhất định trong đó bao gồm
nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết
chặt chẽ về kinh tế - xã hội và văn hóa”.
Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành
và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hóa nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự tác động mạnh của nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam với những đặc trưng của nền văn hóa lúa nước và nền
kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc. Xét về mặt định lượng, làng
nghề là những làng mà ở đó có số người chuyên làm nghề thủ công nghiệp và
sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ nghề đó chiếm một tỷ lệ khá lớn trong
tổng dân số của làng.
15
Ngày nay, làng nghề được hiểu theo nghĩa rộng, không bó hẹp trong phạm
vi hành chính của một làng mà gồm một hoặc một số làng cùng một tiểu vùng,
cùng địa lí kinh tế, cùng sản xuất một chủng loại hàng hóa truyền thống hoặc
cùng kinh doanh liên quan đến một nghề phi nông nghiệp và có quan hệ mật
thiết với nhau về KT-XH.
Mặt khác, có những địa phương tất cả các làng trong xã đều là làng nghề,
trong trường hợp này, người ta gọi là “ Xã nghề”. Ngành nghề phi nông nghiệp
ở các làng nghề cũng được mở rộng, bao gồm các hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các dịch vụ phục vụ sản xuất và
đời sống có quy mô vừa và nhỏ, với các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh
doanh như: hộ sản xuất, tổ hợp, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
1.3.2. Tiêu chí phân loại làng nghề
Cũng như phân loại nghề, việc phân loại làng nghề gặp nhiều khó khăn
bởi tính đa dạng về quy mô, lĩnh vực và lịch sử hình thành; có thể phân loại làng
nghề theo các tiêu chí sau:
a) Theo lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề:

- Làng nghề truyền thống;
- Làng nghề mới.
b) Theo ngành nghề sản xuất kinh doanh:
- Làng nghề TTCN như: dệt, gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ.v.v
- Làng nghề công nghiệp cơ khí, chế tác như: chế tác vàng bạc, dát vàng,
gia công tái chế sắt thép.v.v
- Làng nghề xây dựng;
- Làng nghề dịch vụ.
c) Theo quy mô làng nghề:
- Làng nghề quy mô lớn, lan tỏa, liên kết nhiều làng làm cùng một nghề
hoặc cùng một không gian địa lí lãnh thổ, tạo thành vùng nghề hoặc xã nghề ở
16
đó các làng nghề, có quy mô lao động phi nông nghiệp rất lớn, không chỉ với lực
lượng lao động tại chỗ mà còn thu hút nhiều lao động đến làm thuê;
- Làng nghề quy mô nhỏ, là trong phạm vi một làng theo địa giới hành
chính. Ở các làng nghề này thường hoạt động kinh doanh một ngành nghề phi
nông nghiệp, được truyền nghề theo phạm vi dòng tộc
d) Theo loại hình kinh doanh của làng nghề có tính phổ biến ở Việt Nam:
- Các làng nghề truyền thống chuyên doanh một chủng loại sản phẩm
hàng hoá;
- Các làng nghề kinh doanh tổng hợp một số sản phẩm truyền thống;
- Các làng nghề vừa chuyên doanh các sản phẩm truyền thống vừa phát
triển các ngành nghề mới như dịch vụ, xây dựng. Loại làng nghề này phát triển
mạnh trong những năm gần đây.
e) Theo tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề:
- Các làng nghề vừa sản xuất nông nghiệp vừa kinh doanh các ngành nghề
phi nông nghiệp;
- Các làng nghề thủ công chuyên nghiệp;
- Các làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu.
1.3.3. Các tiêu chí xác định làng nghề

Làng nghề được công nhận (theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phải đạt 03 tiêu chí sau:
(1) Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn;
(2) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận;
(3) Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.4. Làng nghề truyền thống
1.4.1 Khái niệm
Khái niệm làng nghề truyền thống (LNTT) được khái quát dựa trên hai
khái niệm nghề truyền thống và làng nghề nêu trên. Theo Thông tư 116/2006/TT-
17
BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề truyền thống là
làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời”.
Như vậy có thể hiểu về LNTT, trước hết nó được tồn tại và phát triển lâu
đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống,
là nơi hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia đình
chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên
luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc.
Như vậy LNTT được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian
vẫn duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các
LNTT thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc một vài dòng họ
chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc dạy nghề được thực
hiện bằng phương pháp truyền nghề.
1.4.2. Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống
LNTT phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống
theo quy định.
Đối với những làng chưa đạt tiêu chuẩn (1), (2) của tiêu chí công nhận
làng nghề nêu trên nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được công nhận theo

quy định thì cũng được công nhận là LNTT.
1.4.3. Tiêu chuẩn công nhận nghệ nhân
Thông tư liên tịch số 41/2002/TTLT/BNN-BLĐTBXH-BVHTT ngày
30/5/5002 giữa Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Lao động –TBXH và Bộ Văn
hoá-Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn về tiêu
chuẩn, thủ tục xét công nhận danh hiệu và một số chính sách đối với nghệ nhân.
Trong đó, công dân Việt Nam làm việc trong các ngành nghề tiểu, thủ công
nghiệp, thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam được xét danh hiệu nghệ
nhân nếu đủ các điều kiện sau:
+ Là người thợ giỏi, có trình độ kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp điêu luyện,
có khả năng sáng tác mẫu mã và sao chép mẫu đạt trình độ nghệ thuật cao mà
người thợ bình thường khác không làm được.
18
+ Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, có phẩm chất đạo đức được những người trong nghề, trong lĩnh vực người
đó hoạt động tôn vinh, thừa nhận.
+ Có tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao, đoạt huy chương vàng, huy
chương bạc trong các cuộc thi, triển lãm quốc gia hoặc quốc tế.
Đối với những người không có điều kiện tham gia các cuộc thi, triển lãm
thì phải có tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao được Hội đồng cấp Trung ương
xét công nhận danh hiệu Nghệ nhân công nhận tương đương;
+ Có công đóng góp trong việc giữ gìn, phát triển, đào tạo và truyền dạy
nghề cho thế hệ trẻ.
Thông tư số 01/2007/TT-BCN ngày 11/1/2007 của Bộ Công Nghiệp (nay
là Bộ Công Thương) hướng dẫn về tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ xét
tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú; trong đó đối tượng được
đề nghị xét tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú phải đạt các tiêu chuẩn sau:
+ Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo
đức tốt, tận tụy với nghề, gương mẫu, thực sự là tấm gương sáng cho mọi người
và đồng nghiệp noi theo;

+ Là người thợ giỏi tiêu biểu được đồng nghiệp thừa nhận, có thâm niên
trong nghề tối thiểu 15 năm, có trình độ kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp điêu
luyện, sáng tác thiết kế được 10 mẫu sản phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao đã
trực tiếp làm ra trên 15 tác phẩm có giá trị kinh tế, kỹ thuật, mỹ thuật;
+ Là người có ảnh hưởng rộng rãi trong ngành và xã hội:
+ Có nhiều thành tích trong việc giữ gìn, truyền nghề, dạy nghề cho trên
100 người, sáng tạo và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ;
+ Là nghệ nhân đầu đàn tiêu biểu được đồng nghiệp thừa nhận, quần
chúng mến mộ, kính trọng;
+ Có tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao, được tặng giải (loại vàng hoặc
bạc) tại các hội chợ triển lãm quốc gia hoặc quốc tế.
19
1.5. Làng nghề mới
Làng nghề mới là những làng có ngành nghề phát triển trong những năm
gần đây, chủ yếu do sự lan tỏa từ làng nghề truyền thống hoặc do sự du nhập
trong quá trình hội nhập giữa các vùng và giữa các nước. Ngay các làng nghề
truyền thống cũng có sự đan xen giữa nghề mới và nghề truyền thống.
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, đã xuất hiện các làng nghề
có tính hiện đại, trong đó đặc trưng bởi sự phát triển kinh doanh dịch vụ và xây
dựng, kinh doanh đa ngành nghề; đồng thời, do quá trình công nghiệp hóa diễn
ra mạnh mẽ ở các làng nghề, kỹ thuật và công nghệ sản xuất không đơn thuần
chỉ là kĩ thuật thủ công, mà có nhiều nghề, nhiều công đoạn sản xuất áp dụng kĩ
thuật và công nghệ hiện đại như mộc, thịt bò khô, sản xuất gạch, ngói.v.v
Trong các phần tiếp theo của chương 1, các thuật ngữ nghề, nghề truyền
thống, làng nghề, làng nghề truyền thống được gọi chung là làng nghề.
2. Đặc trưng của làng nghề ở Việt Nam
+ Điều kiện sản xuất kinh doanh gắn bó với hộ gia đình nông thôn và
ngành nông nghiệp
Nghề thủ công truyền thống bắt đầu tư nông nghiệp và gắn liền với sự
phân công lao động ở nông thôn nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt tự cung tự

cấp của người nông dân và chủ yếu phục vụ nông nghiệp. Nông thôn là nguồn
cung cấp nguyên liệu, nguồn nhân lực, nguồn vốn chủ yếu và là thị trường tiêu
thụ rộng lớn.
Lao động trong các làng nghề chủ yếu là nghề nông, địa điểm sản xuất
nghề thủ công truyền thống là tại gia đình họ. Họ tự quản lý, phân công lao
động, thời gian cho phù hợp giữa việc sản xuất nông nghiệp lúc mùa vụ với
nghề thủ công lúc nông nhàn.
+ Về sản phẩm
Sản phẩm của làng nghề nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất. Nó
là các vật dụng hàng ngày, có thể là những sản phẩm vừa có giá trị sử dụng, vừa
có giá trị thẩm mỹ hoặc chỉ là vật để dụng trang trí ở nhà, công sở, nơi tôn
nghiêm như đình chùa. Các sản phẩm của làng nghề mang tính chủ quan sang
20
tạo, hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ và bàn tay khéo léo của người thợ. Dưới
bàn tay tài hoa của người thợ thủ công, một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt
độ tinh xảo điêu luyện, có giá trị nghệ thuật cao.
Do đặc điểm sản xuất kinh doanh nên sản phẩm của làng nghề in đậm dấu
ấn người thợ nên khó sản xuất đại trà, mà chỉ sản xuất đơn chiếc. Nhược điểm
này làm cho làng nghề khó đáp ứng đơn đặt hàng lớn do chất lượng sản phẩm
không đồng đều.
+ Kỹ thuật công nghệ
Kỹ thuật sản xuất đặc trưng trong làng nghề là công cụ thủ công, phương
pháp công nghệ mang tính cổ truyền do lịch sử để lại và do chính người lao
động trong làng nghề tạo ra. Kỹ thuật đặc biệt nhất của làng nghề là những bí
quyết, kinh nghiệm của người thợ được tích lũy qua nhiều thế hệ, giữ được tính
chất bí truyền của nghề.
Do không được tổng kết thành lý luận hoặc được ghi chép mà chỉ được
truyền miệng hoặc truyền nghề trực tiếp trong gia đình, trong dòng họ, trong
làng nên trong lịch sử có những bí quyết đã thất truyền.
+ Tổ chức sản xuất kinh doanh:

Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề hiện nay chủ
yếu là hộ gia đình với đặc điểm lao động là các thành viên trong gia đình, chỉ
khi thời vụ hoặc có đơn hàng lớn thì mới thuê thêm lao động. Mọi thành viên
trong gia đình đều có thể tham gia, tùy theo độ tuổi, trình độ tay nghề để làm
công việc phù hợp nhưng bao giờ cũng có ít nhất 1 hoặc 2 người chịu trách
nhiệm chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành, giao dịch. Vì vậy mô hình sản xuất
hộ gia đình là quy mô nhỏ.
Đây là mô hình tổ chức sản xuất phù hợp nhất với cơ sở vật chất ở làng
nghề hiện nay do có nhiều ưu điểm như tranh thủ thời gian lao động, linh hoạt
trong sản xuất, tương thích giữa qui mô, năng lực sản xuất và trình độ quản lý.
Bên cạnh đó, nó cũng có những nhược điểm đó là các chủ hộ không có kiến thức
về quản lý kinh tế, khó tiếp cận và chậm ứng dụng khoa học công nghệ, năng
lực sản xuất hạn chế, do trẻ em tham gia lao động sớm dễ dẫn tới hiện tượng bỏ
học
21
Trong quá trình sản xuất, cũng đã xuất hiện mô hình tổ sản xuất là sự liên
kết, hợp tác giữa các hộ gia đình để cùng sản xuất, chia sẻ những khó khăn và
lợi ích thông qua thỏa thuận bằng hợp đồng miệng giữa các hộ gia đình.
Mặt khác, thời gian gần đây, cũng đã xuất hiện mô hình hợp tác xã theo
Luật hợp tác xã và doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp. Mặc dù mới xuất hiện
và chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng các mô hình sản xuất này đã khẳng định được vai
trò của mình trong xu thế hội nhập của các làng nghề.
3. Chuỗi giá trị sản xuất làng nghề
3.1. Khái niệm chuỗi giá trị
- Một quá trình liên tiếp của các quá trình dịch chuyển, từ việc cung
cấp các đầu vào cụ thể để sản xuất, chế biến và marketing một sản phẩm cho
đến khi tiêu thụ.
- Sự dàn xếp có tổ chức, kết nối và điều phối giữa người sản xuất, nhà chế
biến, những thương gia, nhà phân phối về một sản phẩm cụ thể.
- Một mô hình kinh tế trong đó kết hợp việc chọn lựa sản phẩm và công nghệ

xác đáng cùng với cách thức tổ chức các đối tượng liên quan để tiếp cận thị trường.
3.2. Cách tiếp cận chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị được tổ chức do những liên kết giữa các nhóm nhà sản xuất,
thương gia, nhà chế biến, và người cung cấp dịch vụ cùng tham gia để cải tiến
năng suất và giá trị gia tăng các hoạt động của họ. Bằng cách cùng tham gia,
những người tham gia vào chuỗi giá trị tăng tính cạnh tranh và có thể duy trì
tính cạnh tranh này tốt hơn thông qua sự đổi mới. Những giới hạn của từng cá
nhân tham gia trong chuỗi được khắc phục bằng việc thiết lập tính hỗ trợ và các
quy tắc quản trị nhằm tạo ra giá trị cao hơn.
Những lợi thế chính đối với những người tham gia thương mại vào một
chuỗi giá trị hiệu quả ở chỗ có thể giảm được chi phí trong việc kinh doanh, tăng
doanh thu, tăng thế mạnh thương thuyết, cải thiện sự tiếp cận với công nghệ,
thông tin, vốn và bằng cách làm đó, đổi mới quá trình sản xuất và tiếp thị để đạt
được giá trị cao hơn và cung cấp giá trị cao hơn cho khách hàng.
22
Sự tiếp cận trong chuỗi giá trị chú trọng đến sự ảnh hưởng lẫn nhau của
những người tham gia trong từng bước của chuỗi cung cấp bao gồm những nhà
sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu, nhà chế biến và người bán lẻ, những
người cung cấp dịch vụ, nhờ đó kiến thức và mối quan hệ được phát triển để đạt
được sự tiếp cận với thị trường và những người cung ứng. Thành công của
những người tham gia trong việc tạo thêm giá trị cho sản xuất của họ nằm ở khả
năng của họ trong việc tiếp cận mạng lưới làm việc này.
3.3. Phân tích chuỗi giá trị trong sản xuất làng nghề
Mục tiêu của phân tích chuỗi giá trị là nhằm hiểu rõ về tất cả các công
đoạn hay các khâu trong chuỗi theo sự dịch chuyển của các yếu tố đầu vào, đến
quá trình sản xuất, chế biến, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm. Từ đó mới có thể đề
ra các biện pháp để tạo ra được giá trị gia tăng ở các khâu nhất định trong chuỗi,
tăng cường khả năng cạnh tranh của chuỗi giá trị.
Mô hình về chuỗi giá trị của những làng nghề tuy có những điểm khác
nhau nhưng cũng có nhưng nét chung và có thể tóm tắt theo Hình 1.1.

Nguyên liệu thô hoặc là được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu. Các
nhóm nguyên liệu thường được các cá nhân hoặc các hộ sản xuất đơn lẻ trực
tiếp khai thác và thu hoạch từ địa phương hoặc ở các tỉnh/thành khác trong
nước. Sau đó, họ bán nguyên liệu này cho những người thu gom nhưng với
mức giá khá thấp.
Những nhà thu gom nguyên liệu thu thập nguyên liệu thô từ những nhà
sản xuất nguyên liệu, tiến hành phân loại cơ bản xong rồi họ vận chuyển nguyên
liệu tới các nhà bán buôn. Nhiều khâu trung gian tham gia vào mạng lưới này làm
cho kênh nguyên liệu thô trở nên phức tạp và làm tăng giá nguyên liệu sản xuất.
Những nhà xử lý nguyên liệu thô thu mua nguyên liệu từ những nhà thu
gom hay những người bán buôn ở các tỉnh. Họ hoàn toàn khác những nhà sản
xuất nguyên liệu/thu gom nguyên liệu/nhà bán buôn do họ tham gia nhiều hơn
vào khâu xử lý và bán nguyên liệu đã được chế biến.
23
Hình 1.1: Chuỗi giá trị làng nghề
(Nguồn: VIETRADE/ITC)
24

Thôn

Thôn
Khu vực cung cấp nguyên liệu
Nhà
sản
xuất

khai
thác
Nhà
thu

gom
nguyê
n liệu
Nhà
kinh
doanh
nguyê
n liệu
Nhà
vận
chuyể
n
Nhà
kinh
doan
h
nguyê
n liệu
Nh
à
sản
xuấ
t
Nhà
thu
gom
sản
phẩ
m
Doan

h
nghiệ
p và
các
cơ sở
kinh
doan
h tại
làng
nghề
Làng nghề
Nhà
bán
lẻ
nội
địa
Nhà
xuất
khẩ
u
Côn
g ty
giao
nhậ
n và
các
hãn
g
vận
tải

quố
c tế
Nguyên phụ
liệu nhập
khẩu
Nướ
c
xuất
khẩu

×