Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA NGHỊ VIỆN CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.35 KB, 18 trang )

VĂN PHÒNG QUỐC HỘI
THƯ VIỆN QUỐC HỘI
o0o








TÀI LIỆU THAM KHẢO VỀ
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA NGHỊ VIỆN
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
(Phục vụ hoạt động của Tổ biên tập, Ban soạn thảo
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân)



















Hà Nội, tháng 10/2014
1


1 CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
1.1 Khái niệm, đối tượng, nội dung giám sát
1.1.1 Khái niệm giám sát
Giám sát của Nghị viện được hiểu là việc theo dõi các hoạt động của hành
pháp có hiệu quả, tin cậy, minh bạch và trung thực hay không, để đảm bảo rằng
các khoản tiền được Nghị viện phê duyệt sẽ được sử dụng một cách hợp pháp, có
hiệu quả và đúng mục đích đã đề ra
1
.
Sau khi tiến hành các hoạt động lập pháp, nhiệm vụ tiếp theo của cơ quan
lập pháp là xem xét liệu các đạo luật có được thực thi hiệu quả hay không, liệu
trên thực tế các đạo luật có định rõ và giải quyết được các vấn đề như dự định của
các nhà soạn thảo hay không. Hoạt động này được tiến hành sau khi chính sách
được ban hành thì được gọi là “hoạt động giám sát hậu kiểm”. Tuy nhiên, Nghị
viện có thể thực hiện “hoạt động giám sát tiền kiểm” để kiểm tra các cơ quan hành
pháp trong việc chuẩn bị các chính sách.
Chính vì giám sát các hoạt động của cơ quan hành pháp nhằm đảm bảo cho
các đạo luật được thực thi một các nghiêm túc, chức năng giám sát và những
quyền hạn về giám sát đã trở thành chức năng điển hình cho mọi mô hình Nghị
viện, không phụ thuộc vào hình thức chính thể. Chức năng này được quy định
trong hiến pháp, các đạo luật, quy chế của các quốc gia.
1.1.2 Đối tượng giám sát
Đối tượng của hoạt động giám sát thường là nhánh hành pháp, nhưng giám

sát trong những trường hợp riêng biệt có thể lan rộng ra nguyên thủ quốc gia, tư
pháp, chính quyền địa phương, quân đội Sự giám sát đối với hành pháp thường
mang tính chất chính trị, có nghĩa là tập trung vào hoạt động chính trị của Chính
phủ và các thành viên, mặc dù đôi khi được thực hiện bằng các hình thức pháp lý.
Trong khi đó, đối với các đối tượng khác, giám sát hoàn toàn mang tính chất pháp
lý: nếu không tìm thấy sự vi phạm các quy phạm pháp luật thì không làm phát
sinh hậu quả pháp lý tiêu cực đối với các cơ quan, tổ chức, các nhà chức trách.
Trong những trường hợp riêng biệt, đối tượng giám sát của Nghị viện có thể là
hoạt động của các tập đoàn nhà nước hoặc tư nhân nếu chúng thực hiện những
chức năng công quyền.
1.1.3 Trách nhiệm chính trị và trách nhiệm giải trình
Các nội dung lớn của hoạt động giám sát gồm có trách nhiệm chính trị
(responsibility) và trách nhiệm giải trình (accountability) của Chính phủ.


1
. John K. Johnson, Robert T. Nakamura, (2011).
2

Trách nhiệm chính trị: Trách nhiệm chính trị của Chính phủ trước Nghị
viện chỉ có ở các nước thuộc chính thể đại nghị và hỗn hợp; hàm ý trách nhiệm
về các chính sách của Chính phủ (có những trường hợp đó là trách nhiệm về hành
vi đạo đức của các thành viên Chính phủ).
Trách nhiệm chính trị của Chính
phủ trước Nghị viện ở nhiều nước tạo cơ
sở cho hệ thống giám sát của Nghị viện.
Ví dụ điển hình ở đây là nước Anh. Hệ
thống trách nhiệm chính trị của Chính
phủ trước Nghị viện Anh bao hàm việc
Chính phủ được thành lập từ các thành

viên Nghị viện và có trách nhiệm tập thể
trước Nghị viện. Trong trường hợp Nghị
viện nhất trí bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính phủ thì toàn thể Chính phủ phải
từ chức. Trong phần lớn các nước với mô hình hai viện đều khẳng định nguyên
tắc trách nhiệm của Chính phủ trước Hạ viện (Áo, Anh, Ấn Độ, Tây Ban Nha,
Nga, Pháp, Nhật ). Nhưng cũng có những nước Chính phủ chịu trách nhiệm trước
cả hai viện như Ý, Rumany
2

Trách nhiệm giải trình: Trách nhiệm giải trình của Chính phủ và của các
thành viên Chính phủ hàm ý nghĩa vụ phải trả lời trước Nghị viện và nhân dân về
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình được giao. Khác với trách nhiệm
phải làm, trách nhiệm giải trình hàm ý trách nhiệm báo cáo, giải thích về những
gì đã làm hoặc không làm theo trách nhiệm đó. Như vậy, trách nhiệm giải trình
không phải lúc nào cũng đồng nhất với trách nhiệm chính trị của Chính phủ trước
Nghị viện, nhưng trách nhiệm chính trị của Chính phủ trước Nghị viện ở các nước
đại nghị và chính thể hỗn hợp bao hàm cả trách nhiệm giải trình. Vì vậy, trong
hiến pháp hầu hết các nước thuộc chính thể đại nghị và chính thể hỗn hợp chỉ nói
đến trách nhiệm chính trị, chứ không nhắc đến trách nhiệm giải trình.
Trong số các hiến pháp có quy định nguyên tắc trách nhiệm giải trình của
Chính phủ trước Nghị viện, có thể dẫn ra ở đây Hiến pháp Nhật Bản. Điều 72 của
Hiến pháp Nhật Bản nói: “Thủ tướng với tư cách đại diện cho Nội các báo cáo
trước Nghị viện về tình hình chung của các hoạt động nhà nước và quan hệ quốc
tế ”. Ngoài ra, quy chế hoạt động của hai viện cũng điều chỉnh chi tiết liên quan
đến việc giải trình của Chính phủ.
1.2 Các hình thức giám sát của Nghị viện
Trong việc giám sát cơ quan hành pháp, Nghị viện có những hình thức/công
cụ giám sát khác nhau tùy theo sự lựa chọn của mình. Những công cụ giám sát



2
. Hironori Yamamoto (2007), Tools for Parliamentary Oversight – A Comparative Study of 88 National
Parliaments, IPU.
Trách nhiệm chính trị của Chính
phủ là những gì phải làm theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật,
theo ủy quyền của nhân dân, của
Nghị viện. Trách nhiệm giải trình
hàm ý phải báo cáo, giải thích về
những gì đã làm hoặc không làm
theo trách nhiệm chính trị.
3

phổ biến nhất là chất vấn, các phiên hỏi đáp, thành lập các cơ quan điều tra, điều
trần tại ủy ban, điều trần tại các phiên họp toàn thể của Nghị viện, thanh tra Quốc
hội và bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Một nghiên cứu khảo sát 82 Nghị viện vào năm 2001 cho thấy có những
biến đổi đáng chú ý về mức độ phổ biến của các công cụ trong hoạt động giám sát
của Nghị viện. Ví dụ, các nghị sĩ có thể đặt câu hỏi miệng hoặc câu hỏi bằng văn
bản đối với Chính phủ ở 79 trên tổng số 82 nước, chiếm đến 96,3% số nước có số
liệu. Thành lập ủy ban điều tra và điều trần ở ủy ban cũng là những công cụ phổ
biến trong hoạt động giám sát của các Nghị viện với tỷ lệ sử dụng trên 95%.
Ngược lại, chất vấn và thanh tra Quốc hội ít phổ biến hơn một cách rõ rệt theo đó
thủ tục chất vấn Chính phủ được sử dụng ở 75% số nước và văn phòng thanh tra
Quốc hội chỉ xuất hiện ở 73%.
Bảng 1: Mức độ phổ biến của các công cụ giám sát
3

Điều trần
tại Ủy ban

Điều trần tại
phiên họp
toàn thể
Thành lập
Ủy ban
điều tra
Đặt câu
hỏi
Thời gian
hỏi đáp
Chất vấn
Thanh tra
Quốc hội
%
Số
%
Số
%
Số
%
Số
%
Số
%
Số
%
Số
95,9
73
90,8

76
95,9
73
96,3
82
84
75
75,4
65
72,7
77
Số liệu của IPU và WBI còn cho thấy sự liên hệ giữa công cụ và kiểu giám
sát với một yếu tố thể chế khác là hình thức chính thể. Điều trần tại Ủy ban, điều
trần tại phiên họp toàn thể, phiên hỏi - đáp và chất vấn thường được sử dụng phổ
biến hơn ở các nước theo mô hình chính thể đại nghị so với các nước theo chính
thể tổng thống và bán tổng thống. Chính vì vậy, cơ quan lập pháp ở hệ thống chính
thể đại nghị có nhiều công cụ giám sát hơn để lựa chọn so với các cơ quan lập
pháp ở mô hình tổng thống lẫn mô hình bán tổng thống.
2 QUY TRÌNH GIÁM SÁT
Thủ tục giám sát ở các nước khác nhau có những điểm khác nhau tuỳ thuộc
vào chính thể của nhà nước đó và những đặc điểm riêng trong hệ thống chính trị
của từng quốc gia. Xét về tổng thể thì hầu hết mọi hoạt động của Nghị viện, dù ở
chính thể nào cũng có ý nghĩa giám sát hoạt động của Chính phủ, từ hoạt động
lập pháp, thông qua ngân sách cho đến việc đàn hạch, luận tội Chính phủ.
Tuy nhiên, nếu xét về mặt thủ tục, thì hoạt động giám sát của Nghị viện các
nước tập trung ở một số thủ tục sau:


3
. Riccardo Pelizzo và Rick Stapenhurst (chủ biên) (2006), Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát, Viện Ngân

hàng thế giới, sách dịch, Hà Nội.
4

2.1

Thủ tục hỏi - đáp
4

Phiên hỏi – đáp (Question Time) là một hình thức để Nghị viện giám sát
hoạt động của hành pháp. Các câu hỏi được đặt ra xét cho cùng là yêu cầu các
thành viên Chính phủ giải thích về một vấn đề nào đó hoặc yêu cầu Chính phủ
cho biết thông tin về một vụ việc và yêu cầu Chính phủ giải quyết các vụ việc đó.
Phiên hỏi - đáp khác với chất vấn ở chỗ không đi đến một cuộc biểu quyết thoả
mãn hay không thoả mãn với câu trả lời của Chính phủ. Hình thức giám sát này
tạo điều kiện cho các nghị sỹ năng lực của Chính phủ trong việc giải quyết các
vấn đề của quốc gia.
Hình thức hỏi – đáp thường chỉ có những nước theo chế độ Nghị viện,
nhưng ở một số nước theo chế độ tổng thống như ở Philippines, vào thứ Năm các
thành viên Chính phủ phải ra trả lời trước Quốc hội.
Các câu hỏi thường bao trùm mọi lĩnh vực chính sách, và ở nhiều nước theo
mô hình Anh, các bộ trưởng thay nhau trả lời các câu hỏi theo thứ tự, tính trung
bình mỗi bộ trưởng xuất hiện một lần trong một tháng. Trong đó, các câu hỏi dành
cho người đứng đầu hành pháp có ý nghĩa quan trọng. Hiến pháp 8 nước quy định
rõ phải dành riêng thời gian để hỏi nhân vật này. Ở Zambia, Phó Tổng thống đồng
thời là nghị sỹ trả lời các câu hỏi dành cho Tổng thống
5
.
Hộp 1: Vài con số về phiên hỏi – đáp
6


Theo một cuộc khảo sát, trong số 88 Nghị viện, có 67 Nghị viện dành một
thời gian nhất định cho phiên hỏi – đáp với Chính phủ. Trong số 67 nước nói
trên, hiến pháp của 8 nước quy định tần suất các phiên hỏi – đáp trong tuần; ở
25 nước hiến pháp không quy định rõ tần suất.
Tại 12 nước, có từ 3 phiên hỏi – đáp trở lên mỗi tuần, ví dụ ở Hạ viện Úc
hàng ngày từ thứ Hai đến thứ Năm phiên hỏi – đáp diễn ra từ 14h – 15h30; tại
35 nước có 1 hoặc 2 phiên; ở 10 nước ít hơn một phiên hỏi đáp/tuần, ví dụ 1
lần một tháng ở Magadascar và Tunisia; còn ở 10 nước các phiên hỏi – đáp
không theo một lịch trình định kỳ thường xuyên.
Tần suất xuất hiện của người đứng đầu hành pháp khác nhau ở các nước,
từ 2 lần/tuần ở Ai Len, hoặc một lần trong một giai đoạn nhất định ở Estonia.
Ở một số Nghị viện, nhân vậy này phải có mặt ở tất cả các phiên hỏi – đáp như
Thủ tướng Bulgaria.
Thủ tục hỏi – đáp được thực hiện theo hai hình thức: Câu hỏi miệng và câu
hỏi viết.
- Câu hỏi miệng do nghị sỹ đặt ra để yêu cầu các thành viên của Chính phủ
trả lời mình trực tiếp bằng miệng trong một khoảng thời gian nhất định đã được


4
. Xem thêm về khái niệm và mức độ phổ biến của hình thức hỏi – đáp tại mục 3.2.3, Chương II.
5
. Xem thêm Mục 4.2, Chương IV về thủ tục tiến hành hỏi – đáp.
6
. Hironori Yamamoto (2007), đã dẫn.
5

đưa vào lịch làm việc định kỳ của Nghị viện gọi là “Thời gian dành cho các câu
hỏi” (Question Time). Ở Viện dân biểu Vương quốc Anh, thời gian dành cho các
câu hỏi thường được tổ chức trong khoảng thời gian từ 2 giờ 20 đến 3 giờ 30 chiều

các ngày thứ Hai, thứ Ba và thứ Tư, từ 11 giờ 30 cho đến 12 giờ 20 ở các ngày
thứ Năm, ngày thứ Sáu. Còn ở Thụy Điển, thời gian dành cho các câu hỏi được
tổ chức vào các ngày thứ Năm hàng tuần. Ở khá nhiều nước (44/88 Nghị viện)
cho phép các nghị sỹ đặt câu hỏi phụ sau khi bộ trưởng trả lời câu hỏi chính ban
đầu, tạo điều kiện làm rõ những điểm mà bộ trưởng vô tình hay cố ý trả lời chung
chung hoặc “quên”
7
.
- Câu hỏi viết: việc trả lời các câu hỏi viết được thực hiện bằng cách các
thành viên Chính phủ được hỏi phải soạn câu trả lời bằng văn bản và có thể được
gửi trực tiếp đến người hỏi (như ở Thụy Điển) hoặc được đăng tải trong Công báo
riêng của Viện (như ở Viện dân biểu của Anh).
Thường thì các nghị sỹ thích đặt câu hỏi miệng hơn vì qua đó họ có thể
được đặt thêm các câu hỏi phụ và thủ tục tiến hành cũng linh động hơn, đặc biệt
nó có thể chỉ ra những điểm yếu của các chủ thể trả lời khi các câu hỏi chưa được
chuẩn bị trả lời kỹ càng.
Một khía cạnh liên quan đến thủ tục hỏi – đáp là có cần thông báo trước về
câu hỏi hay không, vì nếu phải thông báo quá sớm sẽ làm mất hiệu quả của hình
thức giám sát này. Theo một cuộc khảo sát, ở 55 Nghị viện cần phải thông báo
trước qua Ban thư ký Nghị viện mới được nêu câu hỏi tại hội trường trong phiên
hỏi – đáp. Thời gian thông báo trước từ một ngày đến 15 ngày, trong đó phần lớn
Nghị viện yêu cầu thông báo trước một ngày. Tuy nhiên, đối với những vấn đề
cấp bách mới xảy ra, chỉ cần gửi thẳng câu hỏi cho chủ tịch viện, và nhân vật này
sẽ quyết định câu hỏi có được nêu hay không
8
.
Thủ tục đặt câu hỏi ra đời những năm 1835 ở Nghị viện Anh, và bắt đầu
được áp dụng đều đặn vào năm 1869. Cho đến nay, Thủ tục này trở thành thông
dụng với khoảng 240 câu hỏi được đưa ra mỗi ngày
9

.
2.2

Thủ tục chất vấn
Với ít nhiều điểm khác nhau ở các nước, chất vấn (interpellation) được định
nghĩa là yêu cầu của nghị sỹ đối với Thủ tướng, hay các thành viên của Chính phủ
ra trước phiên họp toàn viện để trả lời về sự thi hành chính sách quốc gia, hay một
vấn đề hiện thời nào đó của quốc gia. Khác với hỏi – đáp, chất vấn thường đề cập
đến các vấn đề có tầm quan trọng quốc gia, ví dụ ở Hạ viện Bỉ không được chất


7
. Hironori Yamamoto (2007), đã dẫn.
8
. Hironori Yamamoto (2007), đã dẫn.
9
. Xem Tài liệu của cơ quan thông tin Nghị viện Anh, Factsheet 46: Parliamentary question, ở website:

6

vấn về các vấn đề địa phương, hoặc các vấn đề lợi ích riêng tư. Trong nhiều trường
hợp, có thể diễn ra biểu quyết sau khi chất vấn, thậm chí dẫn đến kiến nghị về bất
tín nhiệm Chính phủ.
Hình 1: Thủ tục tiến hành chất vấn

Các nhóm đảng trong Nghị viện thường đóng vai trò quan trọng trong chất
vấn. Không chỉ một số Nghị viện cho phép các nhóm đảng nêu chất vấn, mà ở
nhiều nước, các nhóm đảng còn kiểm soát việc khởi xướng chất vấn của nghị sỹ
thuộc nhóm mình, ví dụ ở Hạ viện Bỉ, các nghị sỹ phải nhận được sự đồng ý của
nhóm đảng mới được đưa chất vấn ra nghị trường. Thông thường, các nhóm đảng

đối lập mới hay sử dụng quyền chất vấn của mình.
Thủ tục tiến hành chất vấn được thực hiện theo các bước sau đây:
a) Yêu cầu chất vấn
Thủ tục chất vấn được bắt đầu bằng yêu cầu chất vấn. Yêu cầu chất vấn
thường có tính cá nhân, tức là việc yêu cầu chất vấn thường xuất phát từ cá nhân
hoặc một nhóm nghị sỹ chứ không phải mang tính toàn viện.
Thông thường, các yêu cầu chất vấn là do một nghị sỹ nào đó trong Nghị
viện đặt ra và có liên quan trực tiếp đến hoạt động của một bộ, hay việc thi hành
một chính sách nào đó của Chính phủ. Theo Nội quy của nhiều nước, các yêu cầu
chất vấn phải ghi rõ các vấn đề chất vấn và tên cụ thể của người bị chất vấn.
Ngoài ra, nhằm tránh những yêu cầu chất vấn không thoả đáng, Nghị viện
nhiều nước còn quy định các yêu cầu chất vấn phải thu nhận được một lượng nhất
định các chữ ký đồng tình của các nghị sỹ. Chẳng hạn, Điều 153, Nội quy Quốc
hội Cộng hoà Pháp quy định các yêu cầu chất vấn, hoặc yêu cầu khiển trách của
nghị sỹ đối với Chính phủ phải thu nhận được số chữ ký của ít nhất một phần
mười tổng số thành viên của Quốc hội.
Một khảo sát khác của IPU cho biết, ở 15 trong số 45 Nghị viện có hình
thức giám sát này, phải có một số lượng nghị sỹ nhất định (ví dụ 5% như ở Hạ
viện Đức) hoặc một nhóm đảng mới có quyền khởi xướng chất vấn; số lượng này
có thể là 5 nghị sỹ ở nước này, cũng có thể là 1/3 tổng số nghị sỹ ở nước khác. Ở
30 nước còn lại, cá nhân nghị sỹ được quyền nêu chất vấn, nhưng phải có sự ủng
Yêu cầu
chất vấn
Xác định
ngày chất vấn
Tiến hành
chất vấn
Biểu quyết
kết quả
chất vấn

7

hộ của một số lượng nghị sỹ nào đó hoặc thậm chí của đa số nghị sỹ. Không chỉ
thế, theo kiến nghị của nghị sỹ, toàn thể Nghị viện có thể tranh luận về vấn đề nêu
trong chất vấn. Chẳng hạn ở Nghị viện Estonia, chất vấn được khởi xướng bởi
yêu cầu bằng văn bản của cá nhân các nghị sỹ. Sau khi bộ trưởng trả lời, người
nêu chất vấn bắt đầu cuộc tranh luận. Tiếp đó, đại diện các nhóm đảng và các ủy
ban phát biểu về vấn đề được nêu. Nghị viện một số nước quy định chất vấn diễn
ra định kỳ, ví dụ một lần một tuần như ở Thụy Điển
10
.
Yêu cầu chất vấn thường được gửi đến Chủ tịch Nghị viện, và người này
có trách nhiệm chuyển yêu cầu chất vấn tới Thủ tướng, hoặc thành viên của Chính
phủ có trách nhiệm trả lời chất vấn.
b) Xác định ngày chất vấn
Việc xác định thời gian tiến hành phiên họp toàn thể để thực hiện thủ tục
chất vấn có ý nghĩa rất quan trọng bởi bản thân câu hỏi chất vấn có mục đích xem
xét trách nhiệm của Thủ tướng và thành viên của Chính phủ nên câu chất vấn phải
nêu ra đúng thời điểm, theo ý của người yêu cầu.
Để xác định thời gian tiến hành chất vấn, rất nhiều nước đi theo hướng quy
định Văn phòng Nghị viện và Chính phủ sẽ thảo luận để đi đến một thoả thuận.
Thời điểm này thường được xác định làm sao cho nghị viên vẫn có thời gian chất
vấn, còn các thành viên của Chính phủ cũng có đủ thời gian chuẩn bị câu trả lời.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ
không muốn trả lời câu hỏi chất vấn thì sao. Pháp luật của một số nước như Thụy
Điển giải quyết vấn đề này bằng cách chấp nhận việc không trả lời này, nhưng đi
kèm với nó là uy tín chính trị của Thủ tướng, hoặc các thành viên Chính phủ sẽ bị
giảm sút. Một số nước khác lại quy định, nếu Chính phủ không trả lời chất vấn
trong một thời gian nhất định thì với yêu cầu của một lượng nghị sỹ nhất định,
Nghị viện đơn phương xác định thời gian chất vấn và thông báo cho Chính phủ.

c) Tiến hành chất vấn
Theo truyền thống của nhiều Nghị viện, tại phiên chất vấn, cá nhân nghị sỹ
có câu hỏi chất vấn được phép trình bày câu chất vấn của mình và Thủ tướng hoặc
thành viên Chính phủ bị chất vấn trả lời câu hỏi chất vấn trong một khoảng thời
gian nhất định (nhiều nhất là 15 phút).
Sau đó, các nghị sỹ có quyền đặt câu hỏi phụ đối với vấn đề chất vấn. Các
câu hỏi phụ này được các nghị sỹ gửi lên Chủ tọa của phiên chất vấn và người bị
chất vấn phải trả lời ngay câu hỏi. Thông thường, Nội quy Nghị viện các nước
giới hạn cho thời gian trả lời của mỗi câu hỏi phụ là 10 phút.


10
. Hironori Yamaoto (2007), dẫn trên.
8

Xét về mặt nội dung của các cuộc chất vấn, người ta có thể phân biệt ba
loại chất vấn:
Thứ nhất, Chất vấn để quy kết trách nhiệm. Đó là các cuộc chất vấn mà
trong khi thảo luận, nghị sỹ chất vấn đả kích Chính phủ, và thể hiện thái độ bất
tín nhiệm của mình đối với Chính phủ;
Thứ hai, Chất vấn mang tính thông tin. Trong các cuộc chất vấn này, mục
đích là tìm ra những quan điểm của hành pháp và lập pháp về một vấn đề nào đó.
Thứ ba, chất vấn mang tính khoa trương. Đây là trường hợp thường xảy ra
ở các Nghị viện theo truyền thống Nghị viện Anh. Để tranh thủ uy tín cá nhân,
nhiều thành viên Chính phủ đã lợi dụng thủ tục chất vấn bằng cách nhờ các nghị
sỹ thân cận của mình nêu câu hỏi chất vấn để được tnh bày một vấn đề nào đó
trước Nghị viện.
d) Biểu quyết về kết quả chất vấn
Các cuộc chất vấn dù ở dạng nào thì kết thúc nó, Nghị viện cũng phải đưa
ra ý kiến của mình. Nếu Nghị viện không đưa ra ý kiến thì thủ tục chất vấn không

đạt được mục đích vốn có của nó và Nghị viện lúc này chỉ còn mang ý nghĩa hình
thức trước hành pháp.
Truyền thống Nghị viện nhiều nước ghi nhận có ba hình thức biểu quyết để
xác định ý kiến của Nghị viện.
Thứ nhất, Nghị viện biểu quyết thoả mãn về sự trả lời của Thủ tướng hoặc
các thành viên của Chính phủ. Theo cách thức này, vấn đề tín nhiệm đối với Thủ
tướng hoặc các thành viên của Chính phủ không phải đặt ra.
Thứ hai, Nghị viện biểu quyết không thoả mãn. Với kết quả này, Nghị viện
sẽ có thể đặt vấn đề bất tín nhiệm đối với Chính phủ theo chế độ trách nhiệm tập
thể hoặc có thể đưa ra các khuyến nghị từ chức đối với các thành viên của Chính
phủ (thông thường các thành viên này sẽ buộc phải từ chức để tránh sự sụp đổ tập
thể của Chính phủ). Tuy nhiên, ở một số nước có thể chế hỗn hợp như Pháp, Italia,
thì cho dù Nghị viện biểu quyết không thoả mãn thì Chính phủ cũng không bị
buộc phải giải tán nhưng uy tín của họ sẽ bị giảm sút nghiêm trọng và cũng thường
dẫn đến việc từ chức.
Thứ ba, Nghị viện biểu quyết một cách trung dung, không bao hàm ý nghĩa
tán thành hay không tán thành với câu trả lời. Trong trường hợp này, Nghị viện
không thảo luận gì thêm và tiếp tục nghị trình.
Như vậy, nếu theo cách hiểu truyền thống như trên, thủ tục chất vấn ở Việt
Nam gần với thủ tục đặt câu hỏi được đề cập ở mục dưới đây nhiều hơn. Đặc biệt,
sau khi kết thúc quá trình chất vấn, Quốc hội Việt Nam cũng thường ra nghị quyết
về chất vấn nhưng thường chỉ nêu các khuyến nghị liên quan đến các vấn đề chất
9

vấn mà ít khi đặt vấn đề về thoả mãn hay không thoả mãn đối với kết quả trả lời
chất vấn.
2.3

Thủ tục điều tra của Uỷ ban điều tra
Việc thành lập Uỷ ban điều tra xuất hiện

nhiều ở các nước theo chính thể cộng hoà tổng
thống. Ở đó, quyền thành lập các uỷ ban điều tra là
một quyền rất tự nhiên của Nghị viện, xuất phát từ
nguyên tắc Nghị viện có quyền được thông tin đầy
đủ về bất kỳ các vấn đề nào hành pháp đang thực
hiện, đảm bảo cơ chế “kiềm chế và đối trọng” trong
tổ chức bộ máy nhà nước.
Việc thành lập Uỷ ban điều tra nhằm mục đích thu thập các thông tin để
báo cáo cho Nghị viện để nếu cần, Nghị viện có thể tổ chức thảo luận và đi đến
các kết luận giám sát. Đặc điểm của hoạt động này là điều tra sự lạm dụng công
quyền, trong đó không chỉ trong các cơ quan hành pháp. Thông thường các uỷ
ban điều tra được thành lập riêng biệt ở mỗi viện của Nghị viện như ở Nhật Bản.
Một số nước lại qui định không chỉ sự thành lập các uỷ ban điều tra độc lập ở mỗi
viện, mà còn có các uỷ ban phối hợp (Tây Ban Nha)
11
.
Để một ủy ban điều tra hoạt động có hiệu quả, ngay bước đầu thành lập,
cần đảm bảo tính độc lập cho cơ quan này. Tính độc lập trong hoạt động của Ủy
ban thể hiện trước hết ở chỗ, các thành viên của Ủy ban và các chuyên viên giúp
việc phải được cung cấp ngân sách độc lập và phải độc lập về lợi ích, tức là không
liên quan đến công việc chính trước đây của mình, không có các mối quan hệ gia
đình, thân thuộc với các đối tượng bị điều tra.
Có thể nói mặc dù không có quyền chất vấn và đặt các câu hỏi, nhưng Nghị
viện trong chính thể cộng hoà tổng thống có quyền giám sát hoạt động của hành
pháp rất lớn thông qua hoạt động của các Uỷ ban điều tra. Lý do khiến hình thức
Uỷ ban điều tra ít được sử dụng ở các nước có chính thể đại nghị được cho là do
Chính phủ ở các nước này xuất thân từ đa số trong Nghị viện, nên Nghị viện biết
rất rõ các hoạt động của Chính phủ không cần thông qua các hoạt động điều tra.
a) Thành lập các uỷ ban điều tra
Ở Hoa Kỳ, các cuộc điều tra có thể do các Uỷ ban thường trực của Nghị

viện tự ý tiến hành miễn là đối tượng của các cuộc điều tra thuộc thẩm quyền của
Uỷ ban. Thông thường, hoạt động điều tra của các uỷ ban thường trực trong Nghị
viện Mỹ do các tiểu ban tiến hành, bởi vì các uỷ ban không muốn công việc của


11
. Hironori Yamamoto (2007), đã dẫn; Wilhelm Lehmann (2010), Parliamentary committees of inquiry in
national systems: a comparative survey of EU Member States, European Parliament.
Quyền thành lập các uỷ
ban điều tra là một quyền
rất tự nhiên của Nghị
viện, xuất phát từ nguyên
tắc Nghị viện có quyền
được thông tin đầy đủ
10

mình bị ngưng trệ, nhất là trong điều kiện khối lượng công việc thường xuyên của
các uỷ ban trong Nghị viện Hoa Kỳ là rất lớn.
Uỷ ban điều tra cũng có thể được Nghị viện thành lập theo phương thức
đặc biệt. Mỗi Viện của Nghị viện Hoa Kỳ có thể thành lập trong Viện mình các
uỷ ban điều tra, hoặc cũng có khi cả hai Viện cùng nhau thành lập Uỷ ban điều tra
chung. Uỷ ban điều tra được thành lập theo dạng này không phải chỉ có các thành
viên là nghị sỹ mà cũng có thể có thành viên là các nhân vật ngoài Nghị viện, có
tiếng là vô tư, công bằng và có uy tín về chuyên môn.
Thủ tục thành lập Uỷ ban điều tra thường cũng rất đơn giản. theo yêu cầu
của các nghị sỹ, Nghị viện chỉ cần biểu quyết việc thành lập uỷ ban, chỉ định các
thành viên, bầu chủ tịch uỷ ban (thông thường là người của đảng đa số trong Nghị
viện) và xác định kinh phí cho hoạt động của Uỷ ban.
b) Đối tượng điều tra của Uỷ ban điều tra
Đối tượng điều tra của các uỷ ban thường rất lớn, bao hàm rất nhiều vấn đề.

Uỷ ban thường trực trong Nghị viện Hoa Kỳ, sau khi Đạo luật về cải tổ quyền lập
pháp năm 1946 ra đời, được quyền theo dõi quá trình thực thi của Chính phủ tất
cả các đạo luật thuộc lĩnh vực uỷ ban mình phụ trách. Còn các uỷ ban điều tra đặc
biệt thường có đối tượng điều tra được xác định ngay khi thành lập.
c) Thẩm quyền của uỷ ban điều tra
Theo kinh nghiệm của nhiều Nghị viện trên thế giới, để hoạt động điều tra
có hiệu quả, cần quy định một thẩm quyền rộng lớn cho các uỷ ban điều tra.
Thường thì các Uỷ ban này có các quyền cơ bản như:
- tìm hiểu các tài liệu ở các cơ quan nhà nước;
- tổ chức các cuộc điều trần để hỏi các nhân chứng, các chuyên viên, các
nhà kỹ thuật, các nhân viên hành pháp…
Việc tổ chức các cuộc điều trần có ý nghĩa rất lớn trong các cuộc điều tra
của Uỷ ban. Các nhân chứng khi được mời ra điều trần thường phải có nghĩa vụ
chấp nhận và phải tuyên thệ với Chủ tịch Uỷ ban điều tra sẽ cung cấp những thông
tin đúng sự thật, trừ những thông tin có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Tuy
nhiên, để tránh việc lợi dụng của quy định liên quan đến an ninh quốc gia, nhiều
nước có quy định trong trường hợp đó Nghị viện có thể yêu cầu người đứng đầu
hành pháp phải xác nhận thông tin này.
Để đảm bảo trách nhiệm cung cấp thông tin của nhân chứng, Nghị viện Hoa
Kỳ quy định những nhân chứng được mời đến tham gia điều trần mà từ chối sẽ bị
phạt tiền tới 1000 USD, và có thể bị phạt tù đến 1 năm. Còn ở Pháp, Chủ tịch các
Uỷ ban điều tra có thể yêu cầu các cơ quan vũ trang dẫn nhân chứng tới trình diện.
11

d) Báo cáo kết quả điều tra
Cho dù có quyền hành rất lớn trong quá trình điều tra nhưng các Uỷ ban
điều tra vẫn chỉ là cơ quan có tính chất nghiên cứu nên sau khi hoàn thành nhiệm
vụ, uỷ ban này phải báo cáo Nghị viện để có quyết định cuối cùng.
Nghị viện có thể thể hiện ba thái độ khác nhau đối với các kết quả điều tra
của Uỷ ban điều tra:

Thứ nhất, không thoả mãn với việc thực hiện chính sách của hành pháp;
Thứ hai, đồng ý với việc thực hiện chính sách của hành pháp;
Thứ ba, không thể hiện ý kiến gì.
Khi Nghị viện thể hiện ý kiến không đồng ý, nếu đó là ý kiến xác đáng thì
hành pháp sẽ phải tự động thực hiện theo các khuyến nghị do Uỷ ban điều tra đưa
ra trước khi để vấn đề đó làm quan hệ giữa hành pháp và lập pháp trở nên quá
căng thẳng.
2.4

Điều trần tại ủy ban của Nghị viện
Điều trần ở Ủy ban của Nghị viện trở thành một phần không thể thiếu trong
hoạt động lập pháp, giám sát của Nghị viện các nước. Theo Viện Ngân hàng thế
giới, vào năm 2001, trong số trên 80 Nghị viện được khảo sát, có trên 70 Nghị
viện áp dụng điều trần trong hoạt động của Ủy ban
12
.
Khái niệm: Nghĩa gốc tiếng Anh của điều trần là nghe (hearings) - ủy ban
nghe thông tin từ tất cả các bên liên quan về vấn đề mà ủy ban đang quan tâm.
Như vậy, điều trần là một quá trình bao gồm một hoặc nhiều phiên họp chính thức
để Ủy ban nghe tất cả các bên liên quan cung cấp thông tin, quan điểm, chứng cứ
về những nội dung quan trọng trong một dự luật, hoặc một vấn đề, vụ việc đang
thu hút sự chú ý của công chúng cần giám sát. Từ đó, Ủy ban sẽ ra báo cáo điều
trần kiến nghị về dự luật hoặc có kiến nghị giám sát buộc Chính phủ phải có phản
hồi về những khuyến nghị đưa ra trong báo cáo, thường là với những biện pháp
cải thiện tình hình
13
.
Bảng 1: Sự khác nhau giữa điều trần và chất vấn
ĐIỀU TRẦN
CHẤT VẤN

Hình thức hoạt động của tập thể Ủy
ban
Hình thức giám sát của cá nhân đại biểu
Diễn ra tại Ủy ban, do một tiểu ban
hoặc nhóm nghị sỹ chủ trì
Diễn ra tại phiên họp toàn thể, do Chủ
tịch Hạ viện hoặc Thượng viện chủ trì
Nghe tất cả các bên liên quan đến vấn
đề cần điều trần
Chất vấn cá nhân Bộ trưởng


12
. Riccardo Pelizzo và Rick Stapenhurst (chủ biên) (2006), đã dẫn.
13
. Nguyễn Đức Lam, Hoàng Minh Hiếu, John Patterson, Kit Dawnay (2012), Điều trần tại các ủy ban của nghị
viện và khả năng áp dụng ở Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu, Dự án Tăng cường năng lực các cơ quan đại diện ở
Việt Nam, Văn phòng Quốc hội và UNDP, Hà Nội.
12

ĐIỀU TRẦN
CHẤT VẤN
Hỏi để làm sáng tỏ vấn đề trong lập
pháp, giám sát; vướng mắc ở đâu.
Hỏi để truy trách nhiệm về vấn đề đó.
Phạm vi: Các nội dung trong các lĩnh
vực thuộc thẩm quyền của Ủy ban
Mọi vấn đề liên quan đến trách nhiệm
của Chính phủ
Các bên liên quan nói cho Ủy ban

nghe; không nói với nhau.
Hỏi – đáp trực tiếp
Thành viên Ủy ban chỉ nghe và hỏi,
không tỏ thái độ
Nghị sỹ chất vấn có thể tỏ thái độ, ý kiến
Chuyên sâu, kỹ lưỡng, kéo dài nhiều
phiên
Chỉ diễn ra trong một phiên họp toàn thể
Là cơ sở để Ủy ban ra báo cáo kiến
nghị tiếp
Quốc hội có thể ra Nghị quyết đánh giá
Báo cáo điều trần là cơ sở để Nghị viện
quyết định về dự luật hoặc vấn đề giám
sát
Là một nguồn cho cá nhân nghị sỹ khác
cân nhắc
Khuôn khổ pháp lý: Điều trần của Ủy ban thường được quy định trong
nội quy của Nghị viện; hoặc ở một số nước, đạo luật về tổ chức và hoạt động của
Nghị viện như ở Nhật Bản, Hàn Quốc có đề cập đến hoạt động điều trần của Ủy
ban. Theo một khảo sát của Liên minh Nghị viện thế giới, có 71 trên 88 nước có
quy định về điều trần tại Ủy ban của Nghị viện
14
. Tuy nhiên, mức độ đề cập đến
hoạt động điều trần ở văn bản của các nước tương đối khác nhau. Trong khi ở
Malaysia, Nội quy của Hạ viện chỉ có một vài điều quy định một cách chưa rõ
ràng về hoạt động điều trần thì Nội quy của Thượng Nghị viện Nhật Bản lại dành
riêng một mục để quy định về hoạt động này.
Các chủ thể tham gia điều trần: Điều trần là một quá trình với sự tham
gia của nhiều người - các thành viên Ủy ban, đại diện của các cơ quan Chính phủ,
các nhân chứng, cán bộ phục vụ ủy ban, báo chí và công chúng. Mỗi người đều

có vai trò của mình trong điều trần.
Trước hết, chủ thể chính ở đây là các thành viên Ủy ban tiến hành điều trần.
Nhiệm vụ của họ là nghe và hỏi nhân chứng, hỏi cũng là để nghe, nghe chứ không
trình bày quan điểm. Thành phần của Ủy ban này gồm các nghị sỹ của đảng đa
số, các đảng thiểu số, nghị sỹ độc lập.
Nhóm nhân vật thứ hai là các nhân chứng, kể cả các nhân chứng từ các cơ
quan Chính phủ, nhưng đặc biệt quan trọng là những người dân, đại diện các tổ
chức dân sự, công ty liên quan đến vấn đề, vụ việc.


14
. Hironori Yamamoto (2007), dẫn trên.
13

Nhóm thứ ba là nhóm “khán giả” gồm báo chí và đằng sau đó là công chúng
theo dõi, bình luận, đánh giá về điều trần, về ứng xử của các bên, tạo ra lực ép
buộc các bên đều phải tuân thủ những quy tắc chung.
Cuối cùng là công việc thầm lặng, nhưng không thể thiếu của những nhân
viên trong Ban Thư ký của các Ủy ban Nghị viện.
Quy trình và cách thức thực hiện điều trần: Thông thường, quy trình
tiến hành điều trần gồm các bước:
- Soạn thảo Đề cương tham chiếu, lập kế hoạch;
- Mời công chúng gửi ý kiến bằng văn bản;
- Tìm kiếm hỗ trợ từ chuyên gia độc lập;
- Nghe các nhân chứng trình bày, thường là công khai (thường kéo dài nhiều
phiên);
- Công bố biên bản về nội dung phiên điều trần;
- Soạn thảo báo cáo về điều trần;
- Công bố báo cáo và đưa báo cáo vào chương trình nghị sự;
- Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị trong báo cáo.

2.5

Thủ tục xem xét tín nhiệm của Chính phủ
Thủ tục này hầu như chỉ tồn tại ở những nước có Chính phủ do Nghị viện
thành lập. Việc giải tán Chính phủ xuất phát từ việc Chính phủ phải chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình trước Nghị viện.
Thường thì thủ tục xem xét tín nhiệm của Chính phủ được bắt đầu bằng hai
cách:
Thứ nhất, Chính phủ tự đặt vấn đề tín nhiệm ra trước Nghị viện để kiểm tra
mức độ tín nhiệm của Nghị viện đối với mình hoặc để gây sức ép với Nghị viện
trong việc xem xét, thông qua một vấn đề nào đó (có thể là một chính sách, đường
lối, dự luật). Thủ tục này còn được gọi là thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm. Nếu không
đạt được kết quả mong muốn, Chính phủ sẽ tự từ chức tập thể. Đây là một phương
thức khá hiệu quả để gây sức ép đối với Nghị viện, nhưng thông thường Chính
phủ các nước chỉ sử dụng biện pháp này khi tin chắc vào lợi thế tương quan lực
lượng của mình vào thời điểm bỏ phiếu.
Thứ hai, Nghị viện đưa vấn đề bất tín nhiệm ra biểu quyết. Thủ tục này còn
được gọi là bỏ phiếu bất tín nhiệm, thường được tiếp nối sau khi có kết quả của
các thủ tục chất vấn, kết quả điều tra của Uỷ ban điều tra hoặc thủ tục đặt câu hỏi
mà qua đó Nghị viện thấy rằng Chính phủ không còn đủ tín nhiệm để tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ. Việc bỏ phiếu bất tín nhiệm còn thể hiện thái độ không đồng tình
của Nghị viện đối với đường lối, chính sách, những động thái cụ thể nào đó hoặc
dự luật của Chính phủ. Bỏ phiếu bất tín nhiệm nếu được thông qua có thể kéo theo
14

sự từ chức của Chính phủ và có thể có sự giải tán Nghị viện (nếu có quy định). Ở
nhiều nước, cuộc bỏ phiếu chỉ được công nhận nếu Nghị viện không chỉ thông
qua nghị quyết bất tín nhiệm mà còn xác định được người đứng đầu Chính phủ
mới.
Ngoài ra, cũng có những trường hợp Nghị viện không cần phải đưa ra vấn

đề bất tín nhiệm bằng một nghị quyết mà chỉ cần không thông qua một kiến nghị
có tính chất đặc biệt nào đó của Chính phủ. Chẳng hạn, Điều 50, Hiến pháp Đệ
ngũ Cộng hoà Pháp có quy định: “Khi nào Hạ nghị viện chấp thuận kiến nghị phê
bình hoặc không chấp thuận kiến nghị hay tuyên cáo về chính sách tổng quát của
Chính phủ, thì Thủ tướng phải đệ đơn từ chức lên Tổng thống”.
Ở những nước có Nghị viện hai viện, Thượng viện dù được trao một số
quyền buộc Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình nhưng không có quyền bỏ phiếu
bất tín nhiệm. Nhưng ở Romania, Chính phủ chịu trách nhiệm trước phiên họp
chung của hai viện thì bỏ phiếu bất tín nhiệm có thể diễn ra tại phiên họp đó.
Các điều kiện để tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm khá ngặt nghèo, nhất là
cần phải có đủ số lượng nghị sỹ để kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm, tỷ lệ nghị sỹ
đồng ý để thông qua kiến nghị này. Chẳng hạn, Điều 28-III, Nội quy Hạ nghị viện
Nhật Bản quy định kiến nghị bất tín nhiệm Chính phủ của các nghị sỹ cần phải
trình bằng văn bản cùng với chữ ký của ít nhất 50 nghị sỹ ủng hộ và kèm theo đó
là các lý do của kiến nghị. Các đảng có người trong Chính phủ thường dựa vào
quy định này để vận động đối phó với bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Khảo sát cho thấy ở 44 nước Chính phủ phải từ chức nếu Nghị viện thông
qua kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm; ở 12 nước, các nghị sỹ cũng đối mặt với rủi
ro mất ghế nếu thông qua kiến nghị vì khi Chính phủ bị bất tín nhiệm thì đi kèm
theo đó Nghị viện sẽ bị giải tán để nhân dân bầu ra nghị viện mới và thành lập
Chính phủ mới. Ví dụ, ở Hungary, hai lần bỏ phiếu bất tín nhiệm thành công đã
dẫn đến việc giải tán Nghị viện. Chính phủ các nước đó cũng có thể cố tình “thua”
trong bỏ phiếu nhằm mục đích giải tán Nghị viện
15
.
Cần phân biệt giữa bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với toàn thể Chính phủ và bỏ
phiếu đối với cá nhân bộ trưởng. Bỏ phiếu bất tín nhiệm cá nhân bộ trưởng không
ảnh hưởng ngay đối với Chính phủ, vì có thể cử người khác thay. Nhưng nếu lặp
lại nhiều lần thì uy tín Chính phủ bị giảm và chịu áp lực phải từ chức, thậm chí
như ở Litva nếu quá nửa bộ trưởng bị thay thế thì quyền lực của Chính phủ phải

được Nghị viện bỏ phiếu khẳng định lại hoặc Chính phủ phải từ chức.
Trên thực tế bỏ phiếu bất tín nhiệm ít được sử dụng vì điều kiện khắt khe
nói trên, cộng với hệ quả của nó. Trong khảo sát của IPU, đại diện của 30 Nghị
viện trong số 64 nước có quy định về bỏ phiếu bất tín nhiệm cho biết họ chưa bao


15
. Hironori Yamamoto (2007), đã dẫn.
15

giờ sử dụng hình thức giám sát này. Trong số những nước đã từng áp dụng, tỷ lệ
thành công không được cao.
Hộp 2: Vài con số thống kê về bỏ phiếu bất tín nhiệm
16

Trong số 88 nước được khảo sát, 64 Nghị viện có quyền bỏ phiếu bất tín
nhiệm Chính phủ, trong đó 36 nước theo chế độ đại nghị, 10 nước theo chế độ
tổng thống, 18 nước theo chế độ hỗn hợp; các nước còn lại đại đa số với chế
độ tổng thống không thừa nhận hình thức bỏ phiếu này.
Trong số 88 nước, Nghị viện 14 nước không có quy định cụ thể về số
lượng nghị sỹ đủ để kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm; ở 14 nước con số này ít
hơn 1/5 tổng số nghị sỹ; ở 14 nước phải có từ 1/5 cho đến 1/3 tổng số nghị sỹ
cùng ký, kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm mới được đưa ra thảo luận; 13 nước
yêu cầu phải hơn 1/3 tổng số nghị sỹ, ví dụ ở Madagascar tỷ lệ này là hơn 50%.
Các nước còn lại không có thông tin về vấn đề này.
Để kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm được thông qua, 16 nước đòi hỏi chỉ
cần trên 50% số nghị sỹ có mặt đồng ý; 33 nước cần phải có trên 50% tổng số
nghị sỹ; còn ở 8 nước, phải có đa số nhất định như 3/5 hoặc 2/3 tổng số nghị sỹ
của viện.
Ở 35 nước trên 88 nước, Nghị viện chỉ được bỏ phiếu bất tín nhiệm đối

với tập thể Chính phủ; có 8 nước chỉ cho phép bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với
cá nhân bộ trưởng; một số nước cho phép cả hai hình thức bỏ phiếu bất tín
nhiệm.
Từ năm 1990 đến 2000, chỉ có Nghị viện của 7 nước đã 10 lần thông qua
kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm; trong khi 27 Nghị viện đã không thông qua
kiến nghị này.
2.6

Thủ tục luận tội và những hình thức tương tự
Ở nhiều nước, Nghị viện được trao quyền phế truất người đứng đầu hành
pháp với những hình thức khác nhau như luận tội, bãi miễn… Theo khảo sát 88
nước của IPU, 77 nước có quy định về những hình thức này. Trong đó, thủ tục
luận tội các quan chức hành pháp được áp dụng ở 66 nước, có cả theo chính thể
đại nghị lẫn các nước theo chính thể cộng hoà tổng thống
17
.
Luận tội được áp dụng khi qua các cuộc điều tra của Nghị viện (thường là
ở các Uỷ ban điều tra) cho thấy có những bằng chứng phạm tội lạm dụng chức
quyền của các quan chức của nhà nước (kể cả Tổng thống ở chính thể cộng hoà
tổng thống). Căn cứ để luận tội thường được quy định trong hiến pháp hoặc luật.
Hộp 3: Cơ sở luận tội
18

Theo một khảo sát 88 nước, ở 22 nước trong số 66 nước có luận tội, việc
vi phạm các nghĩa vụ hiến định là lý do luận tội; ở 34 nước, đó là sự phản bội


16
. Hironori Yamamoto (2007), đã dẫn.
17

. Hironori Yamamoto (2007), đã dẫn.
18
. Dẫn trên.
16

tổ quốc hoặc “tội phạm hình sự nghiêm trọng”, ví dụ như tham nhũng, nhận
hối lộ. Ở 47 nước người đứng đầu hành pháp không bị luận tội vì mắc phải các
tội hình sự thông thường; nhưng ở 15 nước khác Nghị viện có thể luận tội chức
danh này vì phạm các tội hình sự thông thường. Ở những nước mà các bộ trưởng
cũng bị luận tội, lý do luận tội họ rộng hơn so với người đứng đầu hành pháp,
ví dụ ở 5 nước bộ trưởng sẽ bị luận tội nếu phạm bất kỳ tội nào theo quy định
của luật hình sự.
Chỉ có ở 2 trên 88 nước luận tội được tiến hành theo thủ tục thông thường,
còn ở các nước còn lại phải có một số lượng nghị sỹ cùng ký kiến nghị. Ở 7 nước,
kiến nghị luận tội tổng thống phải có chữ kỹ của hơn 50% tổng số nghị sỹ. Để
thông qua kiến nghị luận tội, 56 nước đòi hỏi phải có đa số trên tổng số nghị sỹ,
trong đó 39 nước yêu cầu phải có sự đồng ý của 2/3 tổng số nghị sỹ đồng ý hoặc
hơn.
Ở 54 nước, Nghị viện chỉ có quyền luận tội, còn ở 12 nước, Nghị viện vừa
luận tội, vừa ra phán quyết. Ở các nước lưỡng viện, việc luận tội các quan chức
nhà nước thường được bắt đầu ở Hạ viện, và sau đó là Thượng Nghị viện tiến
hành luận tội ra phán quyết, và đòi hỏi phải đạt được đa số của mỗi viện. Ví dụ, ở
Kazakhstan, đa số đơn giản (quá 50%) ở Hạ viện là đủ để buộc tội Tổng thống,
nhưng ở Thượng viện lại phải đạt 2/3 tổng số thượng nghị sỹ. Phán quyết cuối
cùng chỉ được thông qua nếu 3/4 tổng số nghị sỹ mỗi viện đồng ý tại phiên họp
chung của hai viện. Còn ở Mỹ, khi tiến hành luận tội, các thượng nghị sỹ phải
tuyên thệ và Chánh án của Tòa án Tối cao sẽ làm chủ tọa. Quyết định luận tội chỉ
được đưa ra khi có được sự đồng ý của hai phần ba số thượng nghị sỹ có mặt
19
.

Mặc dù luận tội có nhiều ý nghĩa dân chủ nhưng rất ít khi được sử dụng
trong thực tế. Nước Anh, quê hương của Nghị viện và của thủ tục này, đã hơn 200
năm nay chưa sử dụng đến thủ tục luận tội (lần cuối cùng được áp dụng vào năm
1805). Luận tội được thực hiện một cách triệt để nhất ở Mỹ, nơi Nghị viện được
đánh giá là có thực quyền nhất so với các nước trên thế giới, nhưng từ ngày đầu
đến này cũng mới được áp dụng 13 lần. Theo IPU, trong vòng 10 năm từ 1990-
2000, có 30 kiến nghị luận tội được đề xuất ở 88 nước được khảo sát.
Ngoài ra, ở một số nước như Áo, Iceland, Rumani, Nghị viện có thể khởi
xướng việc bãi miễn tổng thống, nếu Nghị viện thông qua nghị quyết bãi miễn,
nó sẽ được đưa ra trưng cầu ý dân, và tổng thống sẽ bị bãi miễn nếu đa số cử tri
bỏ phiếu đồng ý với nghị quyết. Còn ở 13 nước, Nghị viện có quyền phế truất
tổng thống; ở 8 nước Nghị viện đề xuất tổng thống cách chức thành viên Chính
phủ; còn ở 11 nước, Nghị viện phê chuẩn đề nghị của tổng thống cách chức các
chức danh này
20
.


19
. Dẫn trên.
20
. Dẫn trên.
17

Ngoài ra, việc giám sát hoạt động của hành pháp ở Nghị viện còn được thực
hiện bởi một số công cụ giám sát khác mà đặc biệt trong số đó là việc sử dụng các
Thanh tra Quốc hội (Ombudsman). Thanh tra Quốc hội được sử dụng đầu tiên ở
Thụy Điển vào năm 1809, sau đó được nhiều nước Tây Âu áp dụng. Thanh tra
Quốc hội thường không phải là thành viên của Nghị viện. Ở Anh, người này được
Nghị viện bổ nhiệm theo các quy định của Đạo luật về Thanh tra Quốc hội ban

hành năm 1967.
Chức năng của Thanh tra Quốc hội là điều tra các khiếu nại, tố cáo của công
luận về việc quản lý không tốt công việc của các công sở. Hoặc các nhân viên này
cũng có thể hoạt động theo yêu cầu của các nghị sỹ và trong trường hợp này phải
báo cáo kết quả điều tra cho các nghị sỹ đó. Ngoài ra, Thanh tra Quốc hội còn có
thể trình Nghị viện báo cáo thường niên về các hoạt động thuộc chức năng của
mình. Thanh tra Quốc hội không có quyền đưa ra các quyết định cuối cùng về
trách nhiệm của hành pháp, nhưng đây là một công cụ hữu hiệu nhằm cung cấp
thông tin đầy đủ cho Nghị viện trong việc thực hiện hoạt động giám sát.

×