Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.39 KB, 22 trang )

Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân

Nguyễn Hải Long

Khoa Luật
Luận án TS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 62 38 01 01
Người hướng dẫn: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Nghiên cứu về mặt lý luận khái niệm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân (HĐND), trong đó nêu bật nội hàm, bản chất của hoạt động giám sát; phân biệt khái
niệm hoạt động giám sát của HĐND và các khái niệm hoạt động giám sát của các tổ chức
khác như hoạt động giám sát của Quốc hội, của mặt trận tổ quốc Việt Nam (MTTQVN);
Nghiên cứu pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND, bao gồm quy định về quyền
giám sát, các hoạt động giám sát cụ thể của HĐND nhằm tìm ra những đặc điểm phù
hợp, những quy định bất hợp lý, thiếu tính khả thi. So sánh sự phát triển những quy định
của pháp luật về giám sát của HĐND qua các thời kỳ lịch sử, từ đó tổng kết xu hướng
phát triển của pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND, dự kiến xu hướng phát triển
quy định về hoạt động giám sát của HĐND trong thời gian tới, làm bật lên việc quy định
của pháp luật về hoạt động giám sát đã có sự tương đồng với khái niệm về hoạt động
giám sát chưa, những vấn đề xung đột cần giải quyết. Đánh giá những đặc điểm của tổ
chức bộ máy HĐND theo mô hình không có HĐND quận, huyện, phường từ đó nghiên
cứu, xây dựng mô hình hoạt động giám sát phù hợp. Tổng kết thực tiễn hoạt động giám
sát của HĐND, trong đó có hoạt động giám sát của HĐND ở những đơn vị không tổ chức
HĐND quận, huyện, phường, đánh giá những hạn chế và thành quả đạt được trên cơ sở
hệ thống pháp luật, từ đó làm rõ những nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND xuất phát từ quy định của pháp luật. Đề xuất phương hướng và giải
pháp có tính khả thi, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của
HĐND.



Keywords: Pháp luật Việt Nam; Hoạt động giám sát; Quyền giám sát; Hội đồng Nhân
dân


Content
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu
Vấn đề cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương đã trở thành một vấn đề hết sức cấp bách và trọng yếu của đất nước trong
công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hiện nay chưa theo kịp yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới nói chung. Từ sau năm 1986, khi chuyển sang đổi mới, những yếu kém của bộ
máy nhà nước đã bộc lộ rõ: quá cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu lực. Với việc chuyển sang cơ chế
thị trường, nhu cầu phải tiếp tục đổi mới bộ máy nhà nước đã và đang được đặt ra. Hiến pháp
1992 đã tiến hành đổi mới ở cấp Trung ương, nhưng hiện nay đặt ra yêu cầu đổi mới về tổ chức
và hoạt động ở cấp địa phương.
Đối với bộ máy nhà nước ở địa phương ít có nghiên cứu chuyên sâu về đổi mới bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ. Thời gian gần đây, sự đổi mới bắt đầu có bước biến chuyển khi nhà nước
ta thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Trong thực tế, hoạt động giám sát của
HĐND cũng chưa thực sự có được hiệu quả, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. .
Xuất phát từ các lý do trên, đối với luận án thuộc chuyên ngành luật, tác giả chọn đề tài
"Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân", trong đó có nghiên cứu
mô hình cải cách bộ máy nhà nước ở địa phương không tổ chức HĐND huyện, quận, phường
làm Luận án Tiến sỹ luật học. Đây là đề tài cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực
tiễn.
2. Đối tƣợng và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án bao gồm:Những vấn đề chung, những vấn đề lý luận liên
quan đến pháp luật hoạt động giám sát của HĐND; quyền lực của HĐND trong hoạt động giám sát;

cách thức, hình thức HĐND tiến hành giám sát và trình tự, thủ tục để HĐND thực hiện các hình thức
giám sát; trách nhiệm của đối tượng bị giám sát.
Giới hạn nghiên cứu: Luận án không đi sâu nghiên cứu các chế định cụ thể liên quan
đến đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu về đổi mới
quy định của pháp luật về giám sát của HĐND. Bên cạnh đó, tập trung phân tích thực trạng pháp
luật giám sát hiện hành, thực trạng hoạt động giám sát của HĐND gắn với việc áp dụng Luật
hiện hành.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án.
Mục tiêu nghiên cứu của Luận án là xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của HĐND và hoạt động giám sát
của HĐND.
Nghiên cứu về mặt lý luận khái niệm hoạt động giám sát của HĐND; nghiên cứu pháp
luật về hoạt động giám sát của HĐND hiện tại và lịch sử; đánh giá những đặc điểm của tổ chức
bộ máy HĐND theo mô hình không có HĐND quận, huyện, phường; tổng kết thực tiễn hoạt
động giám sát của HĐND.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án.
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp tổng
hợp, phân tích các thông tin, số liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu. Phương pháp so sánh,
đối chiếu các quy định của pháp luật qua các thời kỳ. - Sử dụng phương pháp điều tra xã hội học
thông qua các kết quả thống kê và khảo sát thực tiễn.
5. Điểm mới của Luận án
Luận án đưa ra khái niệm về giám sát của HĐND, khái niệm về pháp luật giám sát của
HĐND; xác định chủ thể tiến hành giám sát, đối tượng và phạm vi giám sát; chỉ ra những bất cập
trong hệ thống pháp luật về giám sát; đưa ra những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật hoạt
động giám sát của HĐND. Những đề xuất, kiến nghị sửa đổi quy phạm về giám sát của HĐND
trong Hiến pháp đến việc xây dựng Luật hoạt động giám sát của HĐND.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án.
Kết quả nghiên cứu của Luận án có giá trị tham khảo đối với các hoạt động nghiên cứu
lý luận về khái niệm hoạt động giám sát của HĐND và chức năng giám sát của HĐND các cấp ở

nước ta. Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng cho quá trình sửa đổi các quy định về hoạt động
giám sát của HĐND được quy định trong quy định trong Luật tổ chức HĐND và UBND hiện
nay.
7. Kết cấu của Luận án.
Luận án gồm phần Mở đầu, 4 chương và phần Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu
tham khảo. Cụ thể như sau:
Chƣơng 1. Tổng quan về hình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chƣơng 2. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân
Chƣơng 3. Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân
Chƣơng 4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiên pháp luật giám sát của Hội đồng nhân dân

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu từ việc nghiên cứu rộng về HĐND,
nghiên cứu về pháp luật hoạt động giám sát của cơ quan dân cử (HĐND và Quốc hội) đến tình
hình nghiên cứu pháp luật về giám sát của HĐND. Từ đó chỉ ra rằng: Nghiên cứu về giám sát
của HĐND nói chung và pháp luật giám sát của HĐND nói riêng nhìn chung ít được các học giả
quan tâm, mức độ nghiên cứu thường hạn hẹp. Nhất là trong thời gian gần đây, sau khi có Luật
tổ chức HĐND và UBND năm 2003 với những quy định về giám sát của HĐND mang tính đổi
mới toàn diện.
Đề tài nghiên cứu về pháp luật giám sát có nhiều, trong đó nhiều đề tài khoa học cấp bộ,
luận án tiến sĩ nhưng chỉ tập trung ở giám sát của Quốc hội. Pháp luật giám sát của HĐND hầu như
mới có các đề tài cấp thấp (luận văn thạc sĩ luật học) nghiên cứu hoặc nghiên cứu ở một địa phương
nhất định (trong phạm vi một tỉnh, thành phố) và thường nghiên cứu rộng về đổi mới hoạt động giám
sát nên dung lượng nghiên cứu về đổi mới, hoàn thiện pháp luật giám sát của HĐND không nhiều.
Nhìn chung, việc nghiên cứu chưa có tính tổng thể, chuyên sâu.
1.1 Tình hình nghiên cứu nƣớc ngoài

Luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu nước ngoài từ nghiên cứu, tài liệu về
Quốc hội, hoạt động giám sát của Quốc hội đến hoạt động chính quyền địa phương, hoạt động
giám sát của cơ quan dân cử địa phương.
Thông qua đánh giá tổng quan, Luận án trình bày những nội dung đã được nghiên cứu,
những nội dung còn cần tiếp tục nghiên cứu.

CHƢƠNG 2.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
2.1 Quan niệm về pháp luật giám sát của Hội đồng nhân dân
Khái niệm, đặc điểm pháp luật hoạt động giám sát của HĐND: Xuất phát từ khái niệm
chung về giám sát, Luận án nghiên cứu và làm rõ khái niệm pháp luật giám sát của HĐND là tập
hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình HĐND giám sát; bao gồm các hoạt động: dự kiến chương trình giám sát, triển
khai hoạt động giám sát và quyết định hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát. Qua nghiên cứu về
đối tượng điều chỉnh của pháp luật giám sát của HĐND, Luận án cho rằng chủ thể tiến hành hoạt
động giám sát gồm HĐND, các cơ quan của HĐND được trao quyền, đại biểu HĐND; đối tượng
chịu sự giám sát gồm những cơ quan, tổ chức, cá nhân bị HĐND sử dụng hình thức giám sát để kiểm
soát quyền lực; đối tượng khác chịu sự tác động của hoạt động giám sát. Nội dung của quan hệ pháp
luật hoạt động giám sát của HĐND là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ giám sát:
Quyền, nghĩa vụ của HĐND trong việc thực hiện hoạt động giám sát; trình tự, thủ tục, cách thức tiến
hành hoạt động giám sát mà chủ thể tiến hành giám sát có quyền thực hiện và phải thực hiện; hậu quả
pháp lý sau hoạt động giám sát (khi phát hiện vấn đề thì xử lý như thế nào). Từ mối quan hệ trên, có thể
xác định phương pháp điều chỉnh của pháp luật về giám sát của HĐND gồm các phương pháp sau:
Phương pháp mệnh lệnh, Phương pháp bắt buộc, Phương pháp quyền uy, Phương pháp kiến nghị.
Vai trò pháp luật hoạt động giám sát của HĐND: Trong phần này, Luận án xuất phát từ việc
nghiên cứu vai trò của HĐND trong bộ máy nhà nước để tìm hiểu về vai trò của pháp luật giám sát
của HĐND. Trong tổ chức bộ máy, một tổ chức đại diện cho nhân dân quản lý hoạt động ở địa
phương là cần thiết và tất yếu, quyết định vấn đề quan trọng ở địa phương, đồng thời kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước. Ngay từ những ngày đầu lập nước đã xác định nguyên tắc tổ chức

chính quyền địa phương trong đó có HĐND. Việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận,
phường chưa đưa đến kết quả chính thức, mặt khác, xét về chính quyền địa phương (3 cấp) thì
HĐND cũng vẫn tồn tại ở cấp tỉnh, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và xã, thị trấn.
Chức năng giám sát là một trong hai chức năng quan trọng của cơ quan dân cử. Giám sát
ngày nay trở thành một chức năng quan trọng của cơ quan dân cử. Để HĐND thực hiện được
hoạt động giám sát thì tất yếu phải có quy định pháp luật về giám sát, nói cách khác, phải có quy
phạm pháp luật điều chỉnh để xác định cơ sở pháp lý cho HĐND tiến hành hoạt động giám sát
một cách có hiệu quả. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước vì vậy càng cần phải có luật quy
định về hoạt động của HĐND, trong đó có hoạt động giám sát.
Từ các nghiên cứu, luận án chỉ ra vai trò của pháp luật giám sát của HĐND thể hiện ở các
điểm sau: (1) có vai trò chung của pháp luật, đó là công cụ điều chỉnh quan trọng, hữu hiệu nhất
các quan hệ xã hội; (2) là cơ sở pháp lý thực thi quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy nhà nước ở địa phương; (3) là công cụ quan trọng trong việc tạo dựng sự cân bằng
trong hoạt động quản lý nhà nước; (4) nâng cao nhận thức của các đối tượng liên quan về vai trò
của hoạt động giám sát của HĐND; (5) là công cụ quan trọng để thực hiện và đảm bảo quyền
dân chủ ở địa phương.
2.2 Phƣơng hƣớng, tiêu chí và các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật giám sát của Hội
đồng nhân dân
Phương hướng cơ bản hoàn thiện pháp luật giám sát của HĐND trong yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về các cơ chế, cách thức thực hiện thiết chế dân chủ.
- Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND gắn với đổi mới cơ
quan tư pháp ở địa phương:
- Tăng cường công khai, minh bạch, rõ ràng khi xây dựng pháp luật giám sát của HĐND:
- Pháp luật hoạt động giám sát của HĐND cần phải quy định cả pháp luật về nội dung và
hình thức.
Tiêu chí hoàn thiện pháp luật hoạt động giám sát của HĐND. Từ đặc điểm của pháp luật
hoạt động giám sát của HĐND, luận án đưa ra hệ thống tiêu chí gồm:
- Tiêu chí đảm bảo sự chế ước quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực cơ quan nhà
nước ở địa phương.

- Tiêu chí đồng bộ, hài hòa với hệ thống pháp luật.
- Tiêu chí minh bạch.
- Tiêu chí vận hành bộ máy đồng bộ.
- Tiêu chí kinh tế, hiệu quả.
- Tiêu chí khả thi.
Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật hoạt động giám sát của HĐND. Luận án trình
bày các yếu tố ảnh hưởng gồm:
- Chế độ chính trị. với đặc trưng là một đảng cầm quyền.
- Yêu cầu khách quan của cuộc sống: Xu thế dân chủ ngày càng được đòi hỏi cao, người
dân tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà nước.
- Trình độ dân trí. Dân trí phát triển kéo theo đòi hỏi nâng cao dân chủ
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hai nguyên tắc cơ bản của nhà nước
pháp quyền là: pháp luật minh bạch và có tính tối thượng; nhà nước tổ chức theo mô hình phân
công (phân chia) quyền lực để có sự kiểm soát quyền lực.
- Cơ cấu, tổ chức của bộ máy nhà nước. xác định vị trí, vai trò của HĐND trong cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước, mối quan hệ với cơ quan tư pháp, UBND sẽ quyết định tới việc xác định
quyền giám sát của HĐND.
- Cơ cấu, tổ chức HĐND. Cơ cấu, tổ chức HĐND gồm các yếu tố: cơ cấu, thành phần đại
biểu HĐND; tổ chức bộ máy HĐND (TT HĐND, Ban của HĐND …) quyết định tới việc xây
dựng pháp luật giám sát của HĐND phù hợp với năng lực thực hiện pháp luật.
- Ảnh hưởng của Luật hoạt động giám sát Quốc hội.
Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và mối quan hệ với hoàn thiện pháp luật hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Luận án chỉ ra rằng việc đổi mới chính quyền địa phương là cần thiết để đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới, bởi mô hình hiện nay đã tồn tại hơn 60 năm. Luận án đánh giá việc tiến hành
thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường từ năm 2009 đến nay. Luận án cũng đề xuất
một số đổi mới về tổ chức chính quyền địa phương, trong đó xác định chính quyền mấy cấp, cấp
xã và cấp tỉnh luôn là cấp hành chính cơ bản. Việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương sẽ
quyết định tới chức năng, nhiệm vụ chung của HĐND, trong đó có chức năng giám sát. Pháp luật
về hoạt động giám sát của HĐND cũng phải có những thay đổi phù hợp với mô hình tổ chức

mới, đảm bảo nguyên tắc thay mặt nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước.
2.3 Pháp luật về giám sát của cơ quan dân cử địa phƣơng một số nƣớc và giá trị vận
dụng vào thực tiễn ở Việt Nam.
Pháp luật nói chung cũng như pháp luật về giám sát của cơ quan dân cử chịu tác động bởi
nhiều yếu tố, trong đó có thể chế chính trị, nguyên lý xây dựng bộ máy nhà nước, lịch sử phát
triển pháp luật giám sát … Có những kinh nghiệm, quy định của pháp luật là hợp lý với quốc gia
này nhưng lại là bất hợp lý nếu đem áp dụng máy móc vào quốc gia khác. Vì vậy, Luận án
nghiên cứu quy định pháp luật về giám sát của cơ quan dân cử ở một số nước khá điển hình, từ
đó tìm ra những điểm hợp lý, nguyên tắc tổ chức hợp lý vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh thực
tế ở Việt Nam. Những nước mà Luận án xem xét là Na Uy, Anh (Mô hình chính quyền địa
phương không phân định rõ cơ quan dân cử và cơ quan hành pháp); Hàn Quốc, Đức (Mô hình
chính quyền địa phương phân định rõ cơ quan dân cử và cơ quan hành pháp). Luận án rút ra 3 kết
luận, đó là: dù tổ chức theo hình thức nào thì ở tất cả các quốc gia đều đặt ra vấn đề kiểm soát
quyền lực; đối tượng giám sát chủ yếu mà cơ quan dân cử địa phương hướng tới là cơ quan hành
pháp; cần có sự đa dạng về hình thức giám sát.

CHƢƠNG 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN
Khi phân tích, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển pháp luật giám sát của
HĐND, đã trình bày nguyên nhân, lý do phân chia 2 giai đoạn căn cứ vào lịch sử phát triển của
đất nước và những mốc về pháp lý (Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND) cụ thể là: giai
đoạn 1946-1992 và giai đoạn 1992 đến nay.
Trong Chương 3, Luận án tập trung đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động giám sát
của HĐND và thực trạng hoạt động của HĐND theo luật hiện hành là Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003. Giai đoạn trước năm 2003, Luận án chỉ đánh giá thực trạng một cách khái
quát bởi về mặt pháp luật, Luật tổ chức HĐND và UBND 1994 và các luật trước đó cũng không
có nhiều quy định về hoạt động giám sát của HĐND.
3.1 Quá trình hình thành và phát triển pháp luật giám sát của Hội đồng nhân dân.

Luận án nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật giám sát của HĐND để
đánh giá sự tương thích, phù hợp giữa quy phạm pháp luật và thực tế, xu hướng phát triển của
các quy phạm này, từ đó dự đoán xu thế phát triển, đánh giá tình hình thực tiễn nhằm đưa ra các
kiến nghị sửa đổi phù hợp. Luận án không phân kỳ lịch sử theo mốc Hiến pháp hay Luật về
HĐND mà trên cơ sở đánh giá khái quát quy định về giám sát trong Hiến pháp, luật về HĐND,
Luận án phân ra hai giai đoạn: giai đoạn 1945-1992 và giai đoạn 1992 đến nay. Luận án cũng
nghiên cứu về pháp luật giám sát của HĐND ở những nơi thí điểm không tổ chức HĐND huyện,
quận, phường như một điểm mốc đánh dấu cho một giai đoạn mới trong tương lai. Trên cơ sở
nghiên cứu về lịch sử pháp luật hoạt động giám sát, Luận án đưa ra nhận xét chung là:
Quy phạm pháp luật phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, phù hợp tổ chức bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, xu hướng chung vẫn là ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND để đảm bảo thực hiện tốt dân chủ đại diện và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND phụ thuộc
chủ yếu vào 3 yếu tố: (1) Sự phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu của đất nước, nhiệm vụ trọng
tâm, chức năng chính của nhà nước trong thời kỳ. (2) Sự phát triển của quan điểm về dân chủ.
(3) Tổ chức bộ máy HĐND. Luận án cũng nghiên cứu đổi mới pháp luật giám sát của HĐND
gắn với đổi mới chính quyền địa phương, thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường;
cải cách tư pháp … .
3.2 Thực trạng pháp luật về giám sát của Hội đồng nhân dân
Quy định pháp luật về quyền giám sát của HĐND
Luận án đánh giá thực trạng pháp luật về giám sát của HĐND trong Hiến pháp 1992,
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005. Hiến pháp
quy định chưa đồng bộ về hoạt động giám sát của HĐND; Luật và Quy chế lần đầu tiên có một
chương quy định khá hoàn thiện về giám sát của HĐND. Luận án phân tích những quy định chưa
hợp lý về giám sát của HĐND được quy định trong Luật.
Quy định pháp luật về chủ thể và đối tượng giám sát của HĐND
Luận án phân tích những điểm chưa hợp lý về chủ thể và đối tượng giám sát của
HĐND, trong đó, ĐB HĐND không phải là chủ thể giám sát. Đối tượng giám sát quy định quá
rộng, thiếu tính hợp lý và tính khả thi, có sự chồng lấn giữa các cấp HĐND về đối tượng giám
sát. Chỉ nên tập trung giám sát cơ quan hành chính cùng cấp mà thôi, ngoài ra, với cơ quan tư

pháp thì giám sát báo cáo công tác định kỳ hàng năm .
Quy định pháp luật về hình thức giám sát của HĐND
Luận án, phân tích hình thức giám sát của HĐND theo luật định và nhận thấy hình thức
chưa rõ ràng. Luận án nhóm thành 5 loại hình thức chính, theo từng chủ thể tiến hành giám sát,
đồng thời chỉ ra những hạn chế của từng loại hình thức giám sát: Hình thức bỏ phiếu tín nhiệm:
áp dụng với quá nhiều đối tượng và áp dụng với chính thiết chế bên trong của HĐND, với đối
tượng không có quyền quản lý nhà nước. TT HĐND xem xét việc trả lời chất vấn không có quy
định về quy trình thực hiện, thiếu tính khả thi. Chưa xác định rõ hình thức giám sát là xem xét
kết quả giám sát của Đoàn giám sát. Theo quy định pháp luật hiện nay thì hình thức giám sát là
Đoàn giám sát, đây là sự hiểu sai lầm.
Quy định pháp luật về thủ tục, trình tự và phương thức thực hiện quyền giám sát của
HĐND
Luận án phân tích những quy định chưa hợp lý về thủ tục, trình tự và phương thức thực
hiện quyền giám sát với từng hình thức giám sát, cụ thể là: Hoạt động HĐND xem xét báo cáo
công tác, chưa có sự thống nhất các loại báo cáo cần xem xét, quy trình xem xét báo cáo giữa
năm chưa rõ ràng, việc ban hành nghị quyết cần phải quy định bắt buộc. Hoạt động xem xét việc
chất vấn và trả lời chất vấn, có nhiều quy định khá tiến bộ, nhưng chất vấn giữa hai kỳ họp chưa
rõ ràng, thiếu quy trình để thực hiện. Hoạt động xem xét văn bản quy phạm pháp luật, quy trình
chưa thống nhất và có sự liên kết giữa các chủ thể Ban – TT HĐND – HĐND. Hoạt động xem
xét báo cáo của Đoàn giám sát, chưa phân định rõ hai bước của quy trình là hoạt động của Đoàn
giám sát và hoạt động của chủ thể thành lập Đoàn giám sát; Đoàn giám sát cũng chưa phân định
thẩm quyền của các thành viên Đoàn giám sát; thẩm quyền của đoàn giám sát. Hoạt động bỏ
phiếu tín nhiệm, có nhiều “khóa” nên khó có thể thực hiện được trong thực tế.
Nhìn chung, một số quy định về trình tự, thủ tục là khá tốt, giúp cho HĐND thực hiện
được trong thực tế, tuy nhiên, còn một số quy định khác gây khó khăn cho việc HĐND triển khai
thực hiện. Nguyên nhân không phải tự quy trình đó bất hợp lý mà do cách quy định không chặt
chẽ giữa các bước trong quy trình nên khi bị tác động bởi yếu tố ngoài luật pháp thì HĐND
không thực hiện được quyền giám sát của mình hoặc thực hiện không tốt.
Quy định pháp luật về hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát
Luận án chỉ ra thẩm quyền HĐND áp dụng quy định hậu quả pháp lý chưa rõ ràng, thiếu

chế tài mang tính trung gian như khiển trách, cảnh cáo … TT HĐND, Ban của HĐND không có
quyền áp dụng chế tài mạnh mẽ mà chỉ dừng ở kiến nghị, đề xuất. Nhìn chung, hậu quả pháp lý
mà chủ thể tiến hành giám sát được quyền áp dụng còn đơn giản, nhiều hoạt động giám sát
không bắt buộc phải áp dụng hậu quả pháp lý.
Quy định của pháp luật về giám sát của Hội đồng nhân dân ở những đơn vị hành chính
không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường
Theo mô hình tổ chức thí điểm, Luận án chỉ ra những điểm chưa hợp lý của quy định
của UBTVQH với từng hình thức: đối với việc xem xét báo cáo công tác và bỏ phiếu tín nhiệm,
việc xem xét việc chất vấn và trả lời chất vấn, xem xét VBQPPL và xem xét báo cáo của đoàn
giám sát. khó khả thi vì đối tượng quá lớn khi giám sát cả UBND, TAND, VKSND huyện, quận.
Chưa có quy định HĐND cấp nào giám sát UBND phường.
3.3 Những vấn đề bất cập trong quá trình thực thi pháp luật hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân
Luận án trình bày sơ qua về thực trạng hoạt động giám sát của HĐND trước Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 là chưa đáp ứng được yêu cầu của cử tri, chưa thể hiện được đúng vai
trò của HĐND.
Bất cập trong việc Hội đồng nhân dân thực hiện giám sát theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân năm 2003
Luận án đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND theo các hình thức giám
sát: Hoạt động HĐND xem xét báo cáo công tác: Báo cáo công tác của HĐND hầu như không
được xem xét, mục đích xem xét báo cáo công tác của TAND, VKSND chưa rõ ràng. Hoạt động
xem xét báo cáo công tác chưa được coi trọng. Hoạt động HĐND, TT HĐND xem xét việc chất
vấn và trả lời chất vấn: đạt nhiều kết quả bề nổi về số lượng chất vấn, nhưng chất lượng chất vấn
và chất lượng trả lời chất vấn chưa được cao, còn nhiều nguyên nhân cản trở việc chất vấn đạt
hiệu quả. Hoạt động HĐND, TT HĐND, Ban xem xét văn bản quy phạm pháp luật, chưa đạt kết
quả cao do thiếu quy trình, năng lực cán bộ ….Hoạt động HĐND, TT HĐND, Ban xem xét báo
cáo của Đoàn giám sát. Phần lớn hoạt động này chỉ dừng ở bước đầu tiên là hoạt động giám sát
của Đoàn giám sát, còn hai bước ít khi được thực hiện là: Cơ quan thành lập Đoàn giám sát xem
xét báo cáo của Đoàn giám sát. Hoạt động HĐND bỏ phiếu tín nhiệm, chưa được thực hiện do
những khó khăn từ luật pháp và tâm lý, cơ chế.

Bất cập trong việc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh
ở những nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường thực hiện giám sát.
Luận án phân tích những khó khăn, những vướng mắc trong thực tiễn thi hành nghị
quyết 725 của UBTVQH trong việc HĐND cấp tỉnh giám sát các cơ quan ở huyện, quận. Hầu
như việc giám sát chỉ dừng ở xem xét báo cáo công tác gián tiếp (thông qua báo công tác của
UBND, TAND, VKSND cấp tỉnh), thành lập Đoàn giám sát. Thời gian áp dụng thí điểm chưa
nhiều, báo cáo tổng kết của Bộ Nội vụ cũng chưa đi sâu đánh giá hoạt động giám sát của HĐND,
vì vậy, cơ sở để đánh giá HĐND ở những nơi thực hiện thí điểm chưa thật đầy đủ.
Nguyên nhân thực trạng hoạt động thực thi pháp luật giám sát của Hội đồng nhân dân
Luận án phân tích 5 nguyên nhân ảnh hưởng tới thực trạng hoạt động giám sát là: Hệ
thống chính trị:mỗi hệ thống chính trị đều có những khiếm khuyết nhất định, không có một hệ
thống nào là hoàn hảo, nhưng mỗi hệ thống đều có sự phù hợp nhất định. Không ít địa phương
hoạt động giám sát cũng nằm trong sự chỉ đạo quá chặt chẽ của cấp ủy Đảng, nhất là với những
nội dung và đối tượng giám sát mang tính nhạy cảm, áp dụng chế tài mạnh mẽ, đụng chạm tới
quyền hạn của cấp ủy Đảng, đặc biệt là trong công tác cán bộ. Quy định của pháp luật: quy định
về hoạt động giám sát của HĐND trong Luật 2003 là một bước tiến rất lớn nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn, nhiều quy định vẫn còn hình thức hoặc không đủ mạnh để hoạt động
giám sát của HĐND có hiệu quả, thiếu chế tài đi kèm. Tổ chức của HĐND: Số lượng đại biểu
HĐND hoạt động chuyên trách còn rất ít, chiếm khoảng 5-10% tổng số đại biểu, ở cấp xã chỉ có
1 Phó Chủ tịch hoạt động chuyên trách nên khó đảm đương công việc chung của HĐND. Chất
lượng đại biểu HĐND: còn chưa thực sự đồng đều, không ít đại biểu không có trình độ do vừa
phải đảm bảo trình độ và cơ cấu, thành phần đai biểu. Đối với cấp xã: Hoạt động giám sát của
HĐND cấp xã nhìn chung còn yếu do cơ cấu tổ chức khá đặc thù, không có Ban giúp việc, TT
HĐND gồm 2 người, trình độ chung đại biểu, TT HĐND còn thấp.

CHƢƠNG 4.
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

4.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật giám sát của Hội đồng nhân dân

Luận án đưa ra 7 quan điểm hoàn thiện pháp luật giám sát của HĐND là:
- Phù hợp định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.
- Bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn.
- Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân.
- Tiếp thu có chọn lọc pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và hoạt động giám sát của
HĐND, kinh nghiệm giám sát của cơ quan dân cử địa phương một số nước trên thế giới.
- Phù hợp với xu hướng phát triển pháp luật hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Đảm bảo các nguyên tắc này thì việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của
HĐND mới có khả năng trên thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu của HĐND.
4.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật giám sát của Hội đồng nhân dân.
Luận án đưa ra 3 giải pháp cần tiến hành đồng bộ, đó là:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong hoàn thiện hệ thống pháp luật để hoạt động giám sát của HĐND có hiệu lực, hiệu
quả, cần quan tâm tới 2 lĩnh vực, đó là: (1) Xác định vị trí, vai trò giám sát của HĐND trong
Hiến pháp: Cần có quy định thống nhất trong Hiến pháp, không nên quy định quá cụ thể mà chỉ
gồm những vấn đề chung nhất, làm cơ sở cho các văn bản luật quy định cụ thể. (2) Xây dựng một
luật riêng về giám sát của Hội đồng nhân dân: Cần xây dựng một luật riêng về hoạt động giám
sát của HĐND với những quy phạm về giám sát mang tính tổng thể, toàn diện, tương tự như
Luật hoạt động giám sát củ HĐND.
Ban hành Luật hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Luận án đề xuất những nội dung cơ bản trong Luật hoạt động giám sát của HĐND trên
các mặt:
Chủ thể tiến hành giám sát. Cần xác định chủ thể là HĐND, TT HĐND, Ban. Xác định
được chủ thể tiến hành giám sát sẽ tìm ra hình thức phù hợp với từng chủ thể.
Đối tượng giám sát, nội dung giám sát. Xác định đối tượng giám sát là cơ quan nhà
nước cùng cấp, trong đó, tập trung vào UBND và cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Đối với
TAND, VKSND thì giám sát hạn chế hơn. Xác định rõ đối tượng giám sát và nội dung giám sát
là nội dung quan trọng của Luật, từ đó xác định phạm vi, mức độ giám sát của chủ thể tiến hành

giám sát.
Hình thức giám sát của HĐND với từng đối tượng bị giám sát gồm: hoạt động xem xét
báo cáo công tác; hoạt động xem xét việc chất vấn và trả lời chất vấn; hoạt động xem xét
VBQPPL; hoạt động xem xét báo cáo của Đoàn giám sát; hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm. Với mối
chủ thể giám sát sẽ có hình thức giám sát phù hợp.
Hình thức hỗ trợ giám sát của HĐND.Bên cạnh hình thức giám sát, Luận án cũng đề cập
tới hình thức hỗ trợ hoạt động giám sát, đó là: hoạt động điều trần; đoàn giám sát; các hình thức
hỗ trợ khác. Đây là nội dung quan trọng nhưng ngay cả Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
cũng chưa đề cập đến.
Hoàn thiện một số quy trình giám sát. Luận án đề xuất hoàn thiện lại một số quy trình
giám sát như: quy trình, thủ tục xem xét báo cáo công tác; quy trình, thủ tục việc xem xét chất
vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp HĐND; quy trình, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm; quy trình, thủ tục
việc xem xét báo cáo của Đoàn giám sát; quy trình xem xét VBQPPL; quy trình, thủ tục hoạt
động điều trần.
Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát. Hoạt động giám sát mà thiếu hậu quả pháp lý thì
hoạt động giám sát đó không đạt được hiệu quả. Luận án đề xuất bổ xung thêm một số chế tài kỷ
luật mang tính trung gian như khiển trách, … gắn với từng chủ thể giám sát.
Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc
tỉnh khi không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Trên cơ sở thực tiễn việc thí điểm không tổ chức HĐND, Luận án đề xuất quy phạm
pháp luật về giám sát của HĐND ở cấp tỉnh, HĐND thị xã, thành phố thuộc tỉnh khi tiến hành
giám sát. Trong đó, Luận án đề xuất HĐND không nên giám sát toàn bộ cơ quan cấp dưới mà chỉ
nên giám sát người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới và người đứng đầu này phải được
HĐND phê chuẩn hoặc bổ nhiệm. Với giám sát cơ quan tư pháp, HĐND cũng chỉ dừng ở giám
sát báo cáo công tác mà thôi.
Luận án cũng chỉ ra rằng nếu với mục đích tăng cường hiệu lực, hiệu quả giám sát của
HĐND mà chỉ hoàn thiện pháp luật hoạt động giám sát thì chưa đủ, cần phải có nhiều giải pháp
đồng bộ để pháp luật đi vào cuộc sống. Luận án đề xuất một số giải pháp liên quan tới Luật bầu
cử đại biểu HĐND, Luật tổ chức HĐND và UBND; …


KẾT LUẬN
Xã hội loài người luôn không ngừng phát triển, với nhiều phát minh vĩ đại về khoa học
kỹ thuật, về chính trị …, trong đó “Nhà nước” có thể nói là một bước tiến lớn của loài người.
Nhà nước đi kèm theo đó là quyền lực, lại luôn có xu hướng bị tha hóa, chế ước quyền lực là yếu
tố cơ bản để bộ máy nhà nước tồn tại ổn định.
Trong xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền thì việc kiểm soát quyền lực càng được đặt
ra, nhất là việc nhân dân trực tiếp kiểm soát và gián tiếp thông qua cơ quan dân cử. Trong bộ
máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hình thành cơ quan dân cử mà ở trung ương
là Quốc hội, ở địa phương là HĐND các cấp. HĐND vừa nằm trong bộ máy cơ quan nhà nước,
chịu sự chỉ đạo, điều hành hạn chế của Chính phủ vừa thay mặt người dân trong hoạt động.
HĐND sử dụng hình thức giám sát để kiểm soát quyền lực nhà nước được thực thi đúng, đủ, với
mục đích đảm bảo cho người dân ở địa phương mình.
Hơn 7 năm thực thi hoạt động giám sát, cả xã hội cũng như bản thân HĐND có sự biến
chuyển lớn. Đó là xã hội dân chủ phát triển mạnh mẽ, tư tưởng về xây dựng bộ máy nhà nước
cũng dần thay đổi theo hướng nhà nước dân chủ, nhà nước pháp quyền, vị trí và vai trò của
HĐND cũng dần được thừa nhận. Để HĐND thực hiện được quyền giám sát của mình có hiệu
lực, hiệu quả phải dựa vào nhiều yếu tố, nhưng một trong những yếu tố quan trọng là luật pháp.
Chính vì vậy, trong định hướng xây dựng pháp luật của nhà nước ta, việc sửa đổi, bổ
sung quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND là cực kỳ cần thiết. Đảm bảo thúc
đẩy HĐND hoạt động tốt, là tiền đề để nhân dân sử dụng quyền lực của mình dẫn dắt chính
quyền địa phương phục vụ lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích của nhân dân.
Luận án trên cơ sở phân tích hệ thống pháp luật, thực trạng thực hiện hoạt động giám sát
của HĐND và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động giám sát để đề xuất hoàn thiện pháp luật hoạt
động giám sát của HĐND trên các mặt: hoàn thiện hệ thống pháp luật về giám sát nói chung;
hoàn thiện pháp luật liên quan tới tổ chức HĐND; xây dựng Luật hoạt động giám sát của HĐND
với quan điểm mới về chủ thể giám sát, đối tượng bị giám sát, nội dung bị giám sát, hình thức
tiến hành giám sát, hậu quả pháp lý mà HĐND có quyền áp dụng.
Đây chính là những vấn đề chính Luận án hướng tới nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động giám sát của HĐND, đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan nhà nước đại diện của người
dân, mang tiếng nói, lợi ích, nguyện vọng của người dân, hướng tới người dân.



DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Hải Long (2009), “Vấn đề pháp lý, cách thức tiến hành hoạt động chất vấn và
điều trần ở Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội”, Hội thảo Thực trạng và giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ
Chí Minh tháng 3 năm 2009 do Văn phòng Quốc hội tổ chức tr.14.
2. Nguyễn Hải Long (2010), “Bàn về quy định HĐND bỏ phiếu tín nhiệm”, Tạp chí
Khoa học pháp lý (2), tr. 13-19.
3. Nguyễn Hải Long (2010), “Về giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với chính
quyền quận, huyện nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước (5),
tr. 23-28.
4. Nguyễn Hải Long (2010), “Giám sát của Hội đồng nhân dân ở nơi thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (20), tr. 50-56.
5. Nguyễn Hải Long (2010), “Bàn về đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân”, Tạp
chí nhà nước và pháp luật (11), tr. 16-22 và 27.

References

Tiếng Việt
1. Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2005), kỷ yếu Hội nghị Thường
trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn
quốc, Hà Nội.
2. Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2006), kỷ yếu Hội nghị Thường
trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn
quốc, Hà Nội.
3. Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2007), kỷ yếu Hội nghị Thường
trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn

quốc, Hà Nội.
4. Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2008), kỷ yếu Hội nghị Thường
trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn
quốc, Hà Nội.
5. Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2007), Kỷ yếu Hội nghị toàn
quốc về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
6. Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2010), Kỷ yếu Hội nghị toàn
quốc về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
7. Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2007), Kỷ yếu kỳ họp thứ 9,
Quốc hội khóa XI Phần về chất vấn và trả lời chất vấn, Hà Nội.
8. Ban Công tác lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2006), Báo cáo khoa học đề tài
đổi mới hoạt động giám sát và xây dựng quy trình giám sát của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.
9. Ban chỉ đạo xây dựng đề án – Đảng đoàn Quốc hội (2010), Đề án nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hà Nội.
10. Ban Pháp chế của Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau (2006), Báo cáo thẩm tra số 04/BC-
BPC ngày 06/01/2006; Cà Mau
11. Ban Pháp chế của Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), “Báo cáo thẩm tra về
tình hình thi hành pháp luật và các hoạt động tư pháp năm 2007, nhiệm vụ năm 2008”, Kỷ
yếu kỳ họp thứ 11 Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng khóa XIII, Hội đồng nhân dân
thành phố Hải Phòng.
12. Ban Pháp chế của Hội đồng nhân dân tỉnh Kon Tum (2008), “Báo cáo thẩm tra Báo cáo
của Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh”, Kỷ yếu kỳ họp
thứ 11 Hội đồng nhân dân tỉnh Kon Tum khóa IX, Hội đồng nhân dân tỉnh Kom Tum.
13. Ban Pháp chế của Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế (2007), “Báo cáo thẩm tra các
báo cáo của Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh trình kỳ họp
thứ 9, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa V”, Kỷ yếu kỳ họp bất thường thứ tư và kỳ họp thứ 9
Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế khóa V, Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên –
Huế.
14. Chính phủ (2008), Tờ trình về Đề án và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm

không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường và nhân dân bầu trực tiếp Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã, Số 11/TTr-CP ngày 08/10/2008, Hà Nội.
15. Chính phủ (2010), Báo cáo sơ kết thực hiện Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội về
thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, số 81/BC-CP ngày
16/6/2010, Hà Nội.
16. Chính phủ (2010), Báo cáo tổng kết bước 1 thực hiện Nghị quyết số 26/2008/QH12 của
Quốc hội về thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, số 149/BC-
CP ngày 18/10/2010, Hà Nội.
17. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 63/SL về tổ chức các Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban hành chính.
18. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1948), Sắc lệnh số 254/SL về tổ chức
chính quyền nhân dân trong thời kỳ kháng chiến.
19. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1948), Sắc lệnh số 255/SL về cách tổ
chức và cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính trong
vùng tạm thời bị địch kiểm soát hoặc uy hiếp.
20. Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước là những con số cộng giản đơn, NXB Lao động,
Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chế ước quyền lực nhà nước, NXB Đà Nẵng.
22. Nguyễn Sỹ Dũng (2004), Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và thực tiễn từ góc nhìn
tham chiếu, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
23. Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2005), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
24. Đại từ điển Tiếng Việt (1999), NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
25. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ X
26. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, 1973, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, 1982, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, 1986, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, 1987, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, 6-12 năm 1991, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Lê Quang Đạo (1992), Phát biểu tổng kết Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân lần
thứ IV, Hà Nội.
32. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
33. Vũ Minh Giang (2008), Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ
thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Trương Thị Hồng Hà (2009), Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của
Quốc hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Hội đồng nhà nước (1991), Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của HĐND các cấp từ
đầu nhiệm kỳ khóa mới đến nay, Hà Nội.
36. Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2008), Biên bản kỳ họp thứ 16 Hội đồng nhân dân tỉnh
Bắc Ninh khóa XVI.
37. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây (2003), Đề tài nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây, đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, Hà
Tây.
38. Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Biên bản tóm tắt kỳ họp thứ 14, HĐND
thành phố Hải Phòng.
39. Hội đồng nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2008), Biên bản kỳ họp thứ 13, Hội đồng nhân dân
tỉnh Lạng Sơn khóa XIV;
40. Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2008), Biên bản họp Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm
Đồng khóa XII, kỳ họp thứ 13.
41. Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La (2008), Biên bản kỳ họp thứ 1, Hội đồng nhân dân tỉnh
Sơn La khóa XII.
42. Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2009), Báo cáo kết quả hoạt động giám sát 6 tháng
cuối năm 2009 và dự kiến chương trình hoạt động giám sát năm 2009, số 41/BC-HĐND,
Vĩnh Long.

43. Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt nam (2010), Các thể chế hiện đại, Báo cáo phát
triển Việt Nam 2010, Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ
cho Việt Nam, Hà Nội, 3-4/12/2009, Hà Nội.
44. Vũ Đức Khiển (2009), “Quy định về bỏ phiếu tín nhiệm: Từ mong muốn đến hiện thực”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (147), tr. (???)
45. Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn (2002), Từ điển giải tích thuật ngữ hành chính, NXB Lao
động, Hà Nội.
46. Nguyên Lâm (2010), “Bỏ phiếu bất tìn nhiệm, thanh bảo kiếm răn đe”, , Trang web của
Trung tâm bồi dưỡng đại biêủ dân cử

47. Phan Trung Lý (2010), Quốc hội Việt Nam, tổ chức, hoạt động và đổi mới, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Nông Đức Mạnh - Chủ tịch Quốc hội (1998) “Bài phát biểu tổng kết Hội nghị toàn quốc về
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân”, Kỷ yếu Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
49. Đinh Văn Mậu (2009), “Khái luận về phân công quyền lực nhà nước và phân quyền theo
cấp hành chính – lãnh thổ”, Tạp chí Quản lý Nhà nước (156).
50. Nguyễn Quốc Nhân (2009), “Hội đồng nhân dân có thẩm quyền ra nghị quyết về hoạt
động tư pháp hay không”, Báo người đại biểu nhân dân, (90).
51. Hoàng Thị Kim Quế (2007), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
52. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Kỷ yếu kỳ họp thứ 9, Quốc
hội khóa XI phần về chất vấn, Hà Nội.
53. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946), Hiến pháp 1946.
54. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Hiến pháp 1959.
55. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp 1980.
56. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992.
57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội.
58. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam.
59. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1958), Luật tổ chức chính quyền
địa phương.
60. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1962), Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban hành chính các cấp.
61. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1983), Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân.
62. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1989), Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân.
63. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân.
64. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân.
65. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
66. Phương Thảo (2009 (?)), “Hội đồng nhân dân chuyên nghiệp hơn, dân chủ hơn”, Trang
web Đại biểu nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,

67. Vũ Thư (2009), “Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam hiện nay”, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
68. Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (2007), “Chất lượng và hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng”, Kỷ yếu Hội nghị TT HĐND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn quốc, Ban Công tác đại biểu,
tr.212-216.
69. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai (2010), Báo cáo Kết quả thực hiện thí
điểm nâng cao chất lượng hoạt động và hoạt động giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh, số 222/BC-HĐND ngày 21/6/2010, Đồng Nai.
70. Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2009), Quyết định thành lập Đoàn
giám sát tình hình thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố về nhiệm vụ

kinh tế - xã hội và các nhiệm vụ trọng tâm của thành phố, những bức xúc được nhân dân,
cử tri và đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố quan tâm, số 09/QĐ-HĐND ngày
14/4/2009, Hà Nội.
71. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận (2009), Quyết định thành lập Đoàn
giám sát hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh, số 04/QĐ-HĐND ngày
17/3/2009, Ninh Thuận.
72. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2007), “Chất lượng và hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân các cấp phân tích dưới góc độ cơ cấu thành phần đại biểu Hội
đồng nhân dân, cơ cấu tổ chức các cơ quan của Hội đồng nhân dân , văn phòng giúp việc
Hội đồng nhân dân – Thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội nghị Thường trực Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn quốc, Ban Công
tác đại biểu.
73. Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum (2008), Báo cáo Công tác xét xử năm 2008 và phương
hướng nhiệm vụ năm 2009 của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, số 68/BC-TA ngày
31/10/2008.
74. Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế (2008), Báo cáo Kết quả công tác năm 2008 và
phương hướng công tác năm 2009 của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế,
số 2511/BC-TA ngày 20/11/2008.
75. Nguyễn Minh Tuấn (2006), Tổ chức chính quyền thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, NXB
Tư pháp, Hà Nội.
76. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp
77. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1990), Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân các cấp.
78. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1996), Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp.
79. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2005), Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân.
80. Ủy ban Pháp luật (2003), Báo cáo thẩm tra Dự án luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân (sửa đổi), số 196/UBPL, Hà Nội.
81. Ủy ban Pháp luật, Bộ Tư pháp, Hội nhập và Châu Âu bang Hassen, Cộng hòa Liên bang
Đức (2010), Luật Hessen, NXB Thời đại.

82. Văn phòng Quốc hội – Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (2008), Đại biểu Hội đồng
nhân dân những điều cần biết, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
83. Văn phòng Quốc hội - Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (2006), Cơ quan lập pháp và
hoạt động giám sát, Hà Nội.
84. Văn phòng Quốc hội (2004), Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và thực tiễn từ góc
nhìn tham chiếu, NXB Tư pháp, Hà Nội.
85. Văn phòng Quốc hội (2000), Kỷ yếu hội thảo về Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân các cấp tại thành phố Hải Phòng 21-23/6/2000, Hà Nội.
86. Văn phòng Quốc hội (1998), Kỷ yếu Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân, Hà Nội.
87. Văn phòng Quốc hội (2003), Kỷ yếu hội nghị toàn quốc về tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
88. Văn phòng Quốc hội (dự án VIE/98/H01 do UNDP tài trợ) - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh (Khoa Nhà nước – Pháp luật) (2000), Báo cáo tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân Việt Nam, Hà Nội
89. Viện Ngôn ngữ học (1995), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng-Trung tâm từ điển học,
Đà Nẵng.
90. Viện khoa học tổ chức nhà nước – Bộ Nội vụ (2003), Báo cáo tóm tắt kết quả điều tra cơ
bản thực trạng cán bộ Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999-2004, Hà Nội.
91. N.M. Voskresenskaia, N.B.Davletshina (2008), Chế độ dân chủ, nhà nước và xã hội,
NXB Tri Thức, Hà Nội
92. Vụ Hoạt động đại biểu dân cử - Văn phòng Quốc hội (2003), Báo cáo khoa học Đề tài
đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, Hà Nội.
93. Trịnh Thị Xuyến (2007), Kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay – vấn đề và
giải pháp, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
94. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
95. Nguyễn Văn Yểu - GS.TS Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tiếng Anh

96. Walter J.Oleszek (1996), Congressional Procedures and the Policy Process, A Divison
of Congressional Quarterly Inc. Washington, D.C.
97. Ministry of Government Administratrion And Home Affairs Republic of Korea, Local
Autonomy Act.

×