Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

VỀ BỨC TRANH CÁC NGÔN NGỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.71 KB, 14 trang )

1
VỀ BỨC TRANH CÁC NGÔN NGỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ
TS. Trần Văn Sáng
1
TÓM TẮT
Bài viết miêu tả đặc điểm loại hình học, cảnh huống ngôn ngữ các dân tộc thiểu số
(DTTS) ở Thừa Thiên Huế, một tỉnh miền Trung của Việt Nam. Các ngôn ngữ DTTS của cư
dân bản địa ở Thừa Thiên Huế đều được xếp vào nhóm Katuic, chi Môn-Khmer, ngữ hệ Nam
Á, được phân bố ở Việt Nam, Lào và đông bắc Thái Lan. Các ngôn ngữ Tà-ôi, Pa-cô, Cơ-tu
đều thuộc nhóm Katuic Đông; còn tiếng Bru-Vân Kiều thuộc nhóm Katuic Tây. Mục đích bài
viết còn nhằm đối chiều so sánh loại hình học giữa các ngôn ngữ Katuic với tiếng Việt.
SUMMARY
A PICTURE OF ETHNIC MINORITIES LANGUAGE IN THE PROVINCES
OF THỪA THIÊN HUẾ
This text gives the linguistic typological characteristics and a brief description of the
language situation of ethnic minorities language spoken primarily in the central highlands of
Vietnam in the provinces of Thừa Thiên Huế. These ethnic minorities language belongs to the
Katuic subbranch (in central Vietnam, southern Laos, and parts of northeastern Thailand) of
the Mon-Khmer language group, which is in turn part of the Austroasiatic language family.
The Taôih, Pacoh, Katu belongs to the nothern Katuic subbranch, Bru belongs to the western
Katuic subbranch. Other aims of This text are to use an analytical approach to deal with the
linguistic qualities (phonological and morphosyntactic) typical of a Mon-Khmer language
with a Vietnamese comparative-typological perspective.
1.Vài nét về các dân tộc thiểu số ở Tây Thừa Thiên Huế
Khu vực Tây Thừa Thiên Huế thuộc vùng miền núi, bao gồm hai huyện A
Lưới và huyện Nam Đông, nơi cư trú tập trung chủ yếu của các dân tộc thiểu số
(DTTS) của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Các DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế chủ yếu thuộc nhóm dân tộc nói ngôn
ngữ Katuic, chi Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á. Theo số liệu thống kê năm 2009,
dân tộc Tà-ôi (với các nhóm địa phương: Tà-ôi, Pa-cô, Pa-hi) có số lượng


29.558 người, dân tộc Cơ-tu có 14.629 người đang sinh sống và dân tộc Bru-
Vân Kiều có 1.114 người đang sống tại Thừa Thiên Huế. Về nguồn gốc, các dân
1
Trường Đại học Phú Xuân
2
tộc Cơ-tu, Tà-ôi, Bru-Vân Kiều là những dân tộc bản địa, có quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển lâu dài, liên tục gắn bó với khu vực vùng núi Bắc
Trung Bộ. Địa bàn cư trú của các dân tộc Tà-ôi, Cơ-tu, Bru-Vân Kiều khá rộng,
bao gồm phía tây và phía đông dãy Trường Sơn của các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và vượt qua biên giới Lào, Thái Lan.
Dân tộc Cơ-tu ở Thừa Thiên Huế được cho là có nguồn gốc từ Quảng
Nam, chủ yếu là nhóm Cơ-tu Phương (Phuang), nay là cư dân bản địa định cư
lâu đời trên khu vực Tây Thừa Thiên Huế. Dân tộc Bru-Vân Kiều chủ yếu sống
ở huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị. Ở Thừa Thiên Huế, người Bru-Vân Kiều
sống rải rác, xen cư với dân tộc Tà-ôi và dân tộc Cơ-tu bằng con đường hôn
nhân. Dân tộc Tà-ôi (ngoài tên gọi Tà-ôi được sử dụng rộng rãi, ở một số nơi tộc
người này còn có nhiều tên gọi khác nhau như Kần Tua, Kà Tàng, Kin đô, Kin
ne ) là cư dân bản địa, cư trú lâu đời trên mảnh đất Thừa Thiên Huế. Dân tộc Ta
ôi gồm 3 nhóm địa phương Tà-ôi, Pa-cô, Pa-hi. Trong đó, nhóm Tà-ôi chiếm
một số lượng không nhiều, còn nhóm Pa-cô là cư dân có số lượng người đông
nhất. Tên gọi Pa-cô chỉ được dùng phổ biến trong thời kỳ chống Mỹ, gắn liền
với tên tuổi và chiến công của những anh hùng người Pa-cô như Hồ Vai, Kan
Lịch, v.v Đó cũng là nguyên nhân người Pa-cô, một trong ba nhóm thuộc dân
tộc Tà-ôi, lại được biết đến nhiều nhất.
Có thể nhận thấy, các dân tộc Tà-ôi, Cơ-tu, Bru-Vân Kiều là lớp cư dân
bản địa cổ xưa có mặt sớm nhất ở vùng núi Tây Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Xét
về mặt ngôn ngữ, chúng đều thuộc nhóm Katuic, chi Môn-Khmer, ngữ hệ Nam
Á. Về mặt văn hoá, giữa các dân tộc có nhiều điểm tương đồng rõ rệt về phong
tục, đặc điểm cư trú và môi trường sinh hoạt cộng đồng.
2. Đặc điểm các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Tây Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế là tỉnh đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Tiếng nói của các dân
tộc được xem là bản địa thuộc vào các ngữ hệ, chi, tiểu chi sau:
Dân tộc Kinh nói tiếng Việt thuộc nhóm Việt-Mường, chi Môn-Khmer,
ngữ hệ Nam Á, chiếm đa số. Các DTTS gồm Tà-ôi (gồm ba nhóm người Tà-ôi,
3
Pa-cô, Pa-hi), Cơ-tu, Bru-Vân Kiều đều nói ngôn ngữ nhóm Katuic, chi Môn-
Khmer, ngữ hệ Nam Á, chiếm tỉ lệ thiểu số.
Tất cả các ngôn ngữ ở Việt Nam nói chung, các ngôn ngữ DTTS ở Thừa
Thiên Huế nói riêng, đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, tuy mức độ đơn lập
tính biểu hiện ở các ngôn ngữ khác nhau là khác nhau.
Ở đây chúng tôi chỉ trình bày những nét chính hình thái ngôn ngữ và chữ
viết các ngôn ngữ DTTS nhóm Katuic, những ngôn ngữ chính thức của các
DTTS bản địa, chủ thể văn hóa khu vực Tây Thừa Thiên Huế. Vấn đề xã hội
ngôn ngữ học và sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với ngôn ngữ DTTS trên địa bàn sẽ
là một chủ đề được chúng tôi trình bày trong một bài viết riêng.
2.1. Đặc điểm loại hình
Các ngôn ngữ DTTS của cư dân bản địa ở Tây Thừa Thiên Huế đều được
xếp vào nhóm Katuic, chi Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic).
Nhóm Katuic gồm nhiều ngôn ngữ phân bố ở Việt Nam, Lào và đông bắc
Thái Lan, chúng được phân thành 2 nhóm: nhóm Katuic Đông và nhóm Katuic
Tây. Các ngôn ngữ Tà-ôi, Pa-cô, Cơ-tu đều thuộc nhóm Katuic Đông; còn tiếng
Bru-Vân Kiều thuộc nhóm Katuic Tây.
Từ góc độ loại hình học, các nhà ngôn ngữ học như Nguyễn Quang Hồng,
N.V.Xtankêvich đều cho rằng, các ngôn ngữ DTTS tiểu chi Katuic đều là những
ngôn ngữ đơn lập, thuộc tiểu loại hình cổ, cận âm tiết tính (sesquisyllabic). Căn
cứ vào đặc điểm âm tiết, Nguyễn Quang Hồng xếp các ngôn ngữ “cận âm tiết
tính” vào loại hình III, đó là “những ngôn ngữ không chấp nhận hiện tượng xê
dịch ranh giới âm tiết, song thừa nhận các tổ hợp phụ âm trong cấu trúc âm tiết
bản ngữ. Các ngôn ngữ này nói chung không quan tâm đến số lượng âm tiết…”
2

.
Ngoài những đặc điểm chung của loại hình ngôn ngữ đơn lập, các ngôn
ngữ thuộc tiểu loại hình cổ còn mang những đặc điểm nổi bật sau:
- Nếu các ngôn ngữ âm tiết tính triệt để như các ngôn ngữ Tai-Kađai, Hmông-
Miền, Việt-Mường là những ngôn ngữ có thanh điệu thì các ngôn ngữ nhóm
2
Nguyễn Quang Hồng, 2012 , Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, in lần thứ ba, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh, tr.232.
4
Katuic là những ngôn ngữ cận âm tiết tính, vẫn còn bảo lưu rõ nét của ngôn ngữ
cổ xưa, không có thanh điệu. Ví dụ: kooh (núi), dak (nước, sông),… trong tiếng
Tà-ôi; kakoong (núi), karung (sông) trong tiếng Cơ-tu.
- Nếu trong tiếng Việt, âm tiết trùng với hình vị và phần lớn trùng với ranh giới
của từ thì trong các ngôn ngữ Katuic, ranh giới âm tiết thay đổi khi có phụ tố. Ví
dụ: ở tiếng Cơ-tu, từ gharlơk (lừa nhau) có hai hình vị và hai âm tiết nhưng ranh
giới của chúng hoàn toàn khác: - ranh giới âm tiết: ghar/lơk; - ranh giới hình vị:
gha/r/lơk” (ở đây, -r- là một trung tố nên hình vị gốc ghalơk bị tách ra.
- Ngoài hai phương thức cấu tạo từ phổ biến là ghép và láy giống như hầu hết
các ngôn ngữ Nam Á khác, phương thức cấu tạo từ phụ tố vẫn còn khả năng
phái sinh từ, thậm chí phát triển mạnh ở tiếng Pa-cô, Tà-ôi, Cơ-tu, Bru-Vân
Kiều. Ví dụ trong tiếng Cơ-tu: mẠt (vào) > patamẠt (bắt đưa vào); havịl (quên)
> pahavịl (sự lãng quên) > tapahavịl (sự lãng quên nhau). Đặc điểm này chứng
tỏ các ngôn ngữ Katuic còn bảo lưu nhiều đặc điểm của hệ hình thái Nam Á cổ,
vốn đã mất trong các ngôn ngữ Môn-Khmer khác ở Đông Nam Á.
- Từ không biến đổi hình thái để diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp mà mang
những đặc điểm chung của các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập. Tuy nhiên,
cũng có người cho rằng trong các ngôn ngữ cận âm tiết tính như nhóm Katuic,
dù thuộc loại hình đơn lập, song vẫn có hiện tượng biến âm xảy ra để cấu tạo từ
mới. Chẳng hạn, Nguyễn Thị Sửu
3

trong cho rằng, trong tiếng Tà-ôi, phương
thức biến âm là một trong ba phương thức cấu tạo từ tiểu biểu. Ví dụ: kapeas
(hất ra) > kaleas (bị hất ra vật nhỏ); avoóq (ông) > ivoóq (ông, gọi gián tiếp);
ama (cô) > ima (cô, gọi gián tiếp). Có thể nhận thấy, sự biến âm ở đây diễn ra
không rõ ràng như các ngôn ngữ châu Âu.
2.2. Đặc điểm ngữ âm
Về mặt ngữ âm, các ngôn ngữ “cận âm tiết tính” nhóm Katuic có cấu trúc
âm tiết trong các ngôn ngữ loại hình này có thể rất đa dạng. Tuy nhiên, cũng lưu
ý rằng “tư liệu ngôn ngữ thực tế cho thấy trong các ngôn ngữ này rất ít xuất
3
Xem thêm: Nguyễn Thị Sửu, 2009, Cấu tạo từ tiếng Ta Ôi (trong sự so sánh với tiếng Việt), Luận án Tiến sĩ
Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học.
5
hiện những tổ hợp phụ âm ở cuối âm tiết, mà ở vị đầu âm tiết cũng ít gặp những
tổ hợp nhiều hơn hai phụ âm”
4
. Nhận định này cho thấy vấn đề tư liệu quan
trọng như thế nào cho việc đưa ra một giả thuyết và kết luận khi nghiên cứu
ngôn ngữ về mặt loại hình học.
Có thể nêu những đặc điểm ngữ âm nổi bật nhất của các ngôn ngữ nhóm
Katuic theo các vấn đề sau:
- Từ ngữ âm học thường có dạng đa tiết. Các âm tiết có thể chia thành hai
loại: âm tiết phụ (hay tiền âm tiết) và âm tiết chính. Trong những từ song tiết,
âm tiết phụ đi trước âm tiết chính và âm tiết chính là âm tiết mang trọng âm từ;
có khá nhiều từ có vỏ ngữ âm lớn hơn hai âm tiết. Mô hình từ ngữ âm học có thể
có tới ba tiền âm tiết. Chẳng hạn, từ âm vị học trong tiếng Cơ-tu “gồm một âm
tiết chính và có thể có một, hai hoặc ba âm tiết phụ đứng trước”
5
. Ví dụ: karung
(sông), kakoong (núi), aka (cá suối), ating (lá dong), dhrông (màu hồng),…

- Tồn tại khá nhiều các kiểu dạng khác nhau của tiền âm tiết. Tiền âm tiết
có thể là CVC, CV hoặc chỉ là C (trong đó C là phụ âm, V là nguyên âm) tuy sự
phân bố các nguyên âm và phụ âm trong mô hình cấu tạo âm tiết nói trên là rất
khác nhau. Các âm đầu tiền âm tiết gần như không hạn chế. Chẳng hạn, trong
tiếng Cơ-tu, đó “có thể là phụ âm bất kì, trừ các phụ âm bật hơi”
6
, ví dụ:
hunguk (ngáy), pơrnha (no đủ); còn tiếng Bru-Vân Kiều, thì “trong tiền âm tiết
cấu trúc CVC, đảm nhiệm chức năng âm đầu là một phụ âm (không bao giờ là
một tổ hợp phụ âm)”
7
. Ví dụ: parlai (thuốc chữa bệnh), mandang (mặt trời),…
- Các âm cuối trong tiền âm tiết phần lớn là các âm nước, lỏng [l, r] hoặc
âm mũi [m, n, , ]. Trường hợp đặc biệt là những âm tiền mũi hay tiền âm tiết
mũi với dạng âm vị học là /N/. /N/ ở vị trí của - C và được thể hiện thành một
trong các âm mũi [m, n, , ], thường đồng nhất về vị trí cấu âm với phụ âm đầu
của âm tiết chính đi sau đó. Các đặc điểm này đều có trong các ngôn ngữ DTTS
4
Nguyễn Quang Hồng, 2012 , Sđd, tr.246
5
Nguyễn Hữu Hoành, Nguyễn Văn Lợi, 1998, Tiếng Katu, Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.31
6
Nguyễn Hữu Hoành, Nguyễn Văn Lợi, 1998, Sđd, tr.34.
7
Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, 1998, Tiếng Bru-Vân Kiều, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.40.
6
nhóm Katuic, chẳng hạn, mbang (nhanh), nghang (xương),… trong tiếng Cơ-tu;
mpiq (mẹ), ntri (cái chày), nhchĩ (chấy), … trong tiếng Bru-Vân Kiều.
- Đảm nhận chức năng âm đầu của âm tiết chính có thể là phụ âm đơn
hoặc tổ hợp phụ âm. Chẳng hạn, đó là “các phụ âm [p, t, tr, ch, k, q, ph, th, b, d,

m, n, nh, ng, s, sh, h, l, r, g], bán nguyên âm [v, y] và các hợp phụ âm [pr, pl, br,
bl, kr, kl, khl, khr, phl…] trong tiếng Bru-Vân Kiều
8
. Ví dụ: klơ (thăm), tru (cá
sấu), kléh (cưỡi),…
- Số lượng nguyên âm trong các ngôn ngữ nhóm Katuic thuộc vào loại
phong phú. Các nguyên âm đơn có sự đối lập đều đặn về trường độ, khu biệt về
âm vực. Hệ thống nguyên âm tiếng Bru-Vân Kiều lên đến 42 nguyên âm. Ví dụ:
ping (mồ mã) - pĩng (cái hông), mư (bói) - mữ (thuốc súng),…
- Hệ thống âm cuối trong âm tiết chính khá phức tạp, chúng có thể là một
phụ âm hoặc tổ hợp phụ âm. Ngoài các phụ âm tắc, vô thanh [-p, -t, -c, -k] và
các âm mũi tương ứng [-m, -n, -, -], các bán nguyên âm [-j, -w], các phụ âm
nước, lỏng [-l, -r] có chức năng âm cuối giống nhiều ngôn ngữ DTTS thuộc chi
Môn-Khmer khác, trong hệ thống âm cuối các ngôn ngữ Katuic còn có các phụ
âm thanh hầu [-h, -], tổ hợp bán nguyên âm + phụ âm thanh hầu [-i, -jh, -w]
trong tiếng Tà-ôi [ví dụ: achoiq (gùi nhỏ), koơiq (bé), mooih (héo non),…], hay
các tổ hợp [uq, iq, ih] trong tiếng Bru-Vân Kiều [ví dụ: lauq (múa võ), ruaiq
(ruột), achoaih (ông),…], các tổ hợp [-w, - i, -ih] trong tiếng Cơ-tu [ví dụ:
puih (nóng), tapuih (làm nóng), manưih (người),…].
Về cấu trúc âm tiết trong các ngôn ngữ nói trên, nói chung “còn phức tạp
và không “chặt cứng” do sự có mặt của các phụ âm kép ở đầu âm tiết và cả các
phụ âm xát hoặc rung ở cuối âm tiết. Đó chưa phải là điều kiện cần thiết và tiện
lợi cho việc thực hiện những diễn biến phức tạp về âm điệu trong nội bộ một âm
tiết, do đó chưa thể hình thành ngay một hệ thống thanh điệu phức tạp và hoàn
8
Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, 1998, Sđd, tr.48.
7
chỉnh như trong nhiều ngôn ngữ thuộc tiểu chi Việt - Mường hay các ngôn ngữ
thuộc ngữ hệ Tày - Thái, hoặc ngữ hệ Hán - Tạng”
9

.
2.3. Đặc điểm cấu tạo từ
Về hình thái học, các ngôn ngữ tiểu chi Katuic vừa thể hiện những đặc
điểm chung của các ngôn ngữ đơn lập, vừa thể hiện những nét riêng, bảo lưu
những đặc điểm “cổ” của các ngôn ngữ Nam Á, được thể hiện qua các khía cạnh
cơ bản sau:
- Quá trình biến đổi theo xu hướng đơn tiết hóa của các ngôn ngữ Katuic diễn ra
một cách chậm rãi, do vậy, từ đa tiết vẫn còn chiếm một số lượng lớn [ví dụ:
kakoong (núi), karung (sông) trong tiếng Cơ-tu; pakoóh (về phía núi) trong tiếng
Pa-cô)]. Điều này cho thấy quá trình đơn lập hóa chưa triệt để của các ngôn ngữ
này khi mà các phụ tố cấu tạo từ được bảo lưu và ngày càng phát triển, có khả
năng phái sinh từ mới mạnh, ngay cả đối với các từ vay mượn. Chẳng hạn trong
tiếng Cơ-tu: họk (học) - pahọk (làm cho học, dạy), họk (học) - rahọk (việc học,
bài học).
- Một trong những đặc trưng nổi bật của phương thức phụ tố trong các ngôn ngữ
Katuic là có tiền tố và trung tố. Theo Nguyễn Hữu Hoành và Nguyễn Văn Lợi
10
,
trong tiếng Cơ-tu hiện có 11 tiền tố (trong đó có 4 tiền tố đồng âm ta-, 3 tiền tố
đồng âm pa-, và các tiến tố ha-, ma-, ka-, N-) [ví dụ: chệt (chết) - kachệt (giết)]
và 2 trung tố: trung tố cấu tạo danh từ -an- (- ơrn) và trung tố tương hỗ -r- (trung
tố này và tiền tố tương hỗ ta- thực ra là hai biến thể của cùng 1 phụ tố) [ví dụ:
cha (ăn) - chana (thức ăn)]. Còn theo Nguyễn Thị Sửu
11
, trong tiếng Tà-ôi có 18
tiền tố (trong đó có 3 tiền tố đồng âm a-, 2 tiền tố đồng âm pa-, 2 tiền tố đồng
âm ta-, 2 tiền tố đồng âm par-, 2 tiền tố đồng âm u-, 2 tiền tố đồng âm ng-, và
các tiền tố: i-, tar-, si-) [ví dụ: kooh - pakooh (phía núi)], và 2 trung tố -an-
(trung tố chỉ công cụ, phương tiện để thực hiện hành đông do căn tố biểu thị) và
9

Nguyễn Quang Hồng, 2012 , Sđd, tr.262.
10
Nguyễn Hữu Hoành, Nguyễn Văn Lợi, 1998, Sđd, tr.58.
11
Nguyễn Thị Sửu, 2009, Sđd.
8
-r- (trung tố chỉ mối quan hệ qua lại giữa các chủ thể bằng hành động được căn
tố biểu thị) [ví dụ: koong (gõ)- kanoong (dùi, cái để gõ); kachăng (cười) -
karchăng (cười với nhau)].
3.4.Đặc điểm về từ vựng
Hệ thống từ vựng của các ngôn ngữ Katuic phản ánh một bức tranh phong
phú, đa dạng, được hình thành do các mối quan hệ cội nguồn và tiếp xúc với các
ngôn ngữ Môn-Khmer khác cùng họ Nam Á và có quan hệ tiếp xúc, vay mượn
các ngôn ngữ không cùng nguồn gốc và loại hình. Cũng giống các ngôn ngữ
Môn-Khmer khác, trong hệ thống vốn từ cơ bản của nhóm ngôn ngữ Katuic đều
có nguồn gốc Nam Á bản địa. Đó là lớp từ thuộc vốn từ cơ bản như: các từ chỉ
hiện tượng thiên nhiên (mây, mưa, nước, gió…), các từ chỉ bộ phận cơ thể (thân,
chân, tay, cổ, cằm…) hay con người (người, con, thanh niên,…), các từ chỉ thời
gian (ngày, đêm, sáng, tối, giờ,…), các từ chỉ đặc điểm, tính chất (đỏ, xanh,
trắng, vàng, …), các từ chỉ động vật (trâu, bò, ngựa, dê, gà, vịt,…) và các từ chỉ
thực vật (cây, hoa, lá, búp, lúa, thóc…). Tuy nhiên, vấn đề có cùng nguồn gốc
hay do tiếp xúc, vay mượn không phải lúc nào cũng được chỉ ra một cách rõ
ràng và minh xác. Bởi lẽ, trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ Katuic có rất
nhiều từ có thể có nguồn gốc với các ngôn ngữ tiểu chi Việt-Mường, ngược lại,
trong nội bộ các ngôn ngữ Nam Á nói chung, chi Môn-Khmer nói riêng, các
ngôn ngữ Việt-Mường hết sức gần gũi với các ngôn ngữ Katuic.
Trong vốn từ vựng các ngôn ngữ Cơ-tu, Bru-Vân Kiều, Tà-ôi, Pa-cô hiện
nay có nhiều từ ngữ vay mượn do quá trình tiếp xúc với các ngôn ngữ trong khu
vực, đặc biệt là tiếp xúc, vay mượn từ tiếng Việt bởi những nguyên nhân ngôn
ngữ học và ngoài ngôn ngữ học. Đa số các từ vay mượn đều thuộc lớp từ vựng

văn hóa. Chẳng hạn, họk sinh (học sinh), dang viên (đảng viên) trong tiếng
Cơ-tu; kam (cam), kái (cày) trong tiếng Bru-Vân Kiều; den (đèn), kăi (cày),
hok (học), pahok (dạy) trong tiếng Pa-cô, Tà-ôi. Về mặt nguồn gốc, cần phân
biệt các từ thuần Katuic với các từ vay mượn. Bởi trong thực tế, các từ vay
mượn ở tiếng Việt vốn là các từ phức, nhưng khi được các ngôn ngữ Katuic vay
9
mượn, chúng được “đối xử” như các từ đơn. Điều mà họ nhận thức được là, các
tập hợp ngữ âm ấy được xác định như một đơn vị duy nhất biểu thị một thực thể
mà họ cần phải gọi tên trong thực tế.
2.5.Đặc điểm về chữ viết
Chữ viết của các ngôn ngữ tiểu chi Katuic ở Việt Nam đều thuộc loại hình
chữ viết tự dạng La Tinh, được xây dựng vào các thời điểm khác nhau, từ cuối
những năm năm mươi của thế kỉ XX. Chẳng hạn, chữ viết Pa-cô của ông Ku Nô
(Hồ Ngọc Mỹ), chữ viết Cơ-tu ra đời trong vùng giải phóng tỉnh Quảng Nam.
Những năm 1960 -1970, các nhà ngôn ngữ học thuộc tổ chức SIL (Summer
Institute of Linguistics) đã xây dựng chữ viết cho nhiều ngôn ngữ DTTS, trong
đó có chữ viết Pa-cô Tà-ôi, Bru-Vân Kiều, Cơ-tu. Các chữ viết do SIL chế tác
tương đối hoàn thiện, phản ánh trung thực những đặc điểm các ngôn ngữ, lại hệ
thống và khá gần với chữ Quốc ngữ. Năm 1985, Viện ngôn ngữ học cùng với
tỉnh Bình Trị Thiên cũ đã cải tiến chữ viết Pa-cô Tà-ôi và Bru-Vân Kiều và biên
soạn các Sách học tiếng Pa cô - Ta ôi, Sách học tiếng Bru - Vân Kiều, tiến hành
dạy thí điểm các sách này và đưa vào sử dụng từ đó cho đến tận ngay nay.
2.6.Về vị trí và mối quan hệ gần gũi về mặt từ vựng giữa các ngôn ngữ
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có được sự thống nhất về số
lượng các ngôn ngữ cụ thể trong nhóm Katuic ở Việt Nam. Theo Vương Hữu
Lễ, “mặc dù tiếng Katu và tiếng Pakôh được coi là nhóm Đông Katuic và tiếng
Bru được coi là nhóm Tây Katuic, nhưng tiếng Bru và tiếng Pakôh có một tỉ lệ
từ chung rất lớn (74%) trong khi hai ngôn ngữ này chỉ có 56-58% từ chung với
tiếng Katu”
12

. Có cùng quan điểm, các tác giả “Tiếng Bru-Vân Kiều” nhận xét
“tiếng Bru-Vân Kiều đặc biệt gần với Pakôh; mối quan hệ giữa Pakôh và Taôih
là gần gũi nhất”
13
. Vậy, nhóm Katuic thực chất có mấy ngôn ngữ? Vị trí của
mỗi ngôn ngữ ra sao?
12
Vương Hữu Lễ,1997, Từ điển Bru-Việt-Anh, Nxb Thuận Hoá, Huế, tr.14.
13
Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, 1998, Sđd, tr.210.
10
Về vị trí tiếng Cơ-tu và tiếng Bru-Vân Kiều là tương đối rõ ràng. Đó là
hai ngôn ngữ độc lập. Vấn đề còn lại là mối quan hệ giữa tiếng Pa-cô với tiếng
Tà-ôi. Một số tài liệu xem tiếng Tà-ôi như một bộ phận của tiếng Pa-cô, và xem
tiếng Tà-ôi như một phương ngữ của Pa-cô. Chẳng hạn, quan điểm: “có thể xem
sự khác nhau về tiếng nói của ba nhóm Pa cô, Ta ôi, Pa hi là sự khác nhau giữa
các tiếng địa phương của một ngôn ngữ thống nhất, chứ không phải là sự khác
nhau giữa các ngôn ngữ”
14
. Chính mức độ gần gũi giữa tiếng Pa-cô và tiếng Tà-
ôi khiến các nhà nghiên cứu đề nghị một tứ tiếng chung: tiếng Pa cô-Ta ôi. Cũng
có người coi tiếng Pa-cô chỉ là một phương ngữ của tiếng Tà-ôi, chẳng hạn
Nguyễn Thị Sửu. Quan điểm mới nhất là xem tiếng Pa-cô và tiếng Tà-ôi như hai
ngôn ngữ độc lập. Theo Đoàn Văn Phúc, cái gọi là tiếng Pa cô - Ta ôi là “một
khái niệm không rõ ràng”
15
. Ông cho rằng: “tiếng Ta ôi có xu hướng biến đổi
gần với tiếng Phương và các thổ ngữ của tiếng Cơ tu hơn so với tiếng Pa cô, Pa
hi và Bru - Vân Kiều. Ngược lại, tiếng Pa cô, Pa hi có nhiều nét biến đổi giống
với tiếng Bru - Vân Kiều. Như vậy, nhóm ngôn ngữ Cơ tu ở Việt Nam gồm ít

nhất có 4 ngôn ngữ: Cơ tu, Ta ôi, Pa cô, Bru - Vân Kiều”
16
. Việc xem tiếng Pa-
cô và tiếng Tà-ôi là những ngôn ngữ độc lập có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
xác định thành phần dân tộc đối với các tộc người này.Trong bài viết này, chúng
tôi đồng ý với quan điểm của Đoàn Văn Phúc về vị trí và số lượng các ngôn ngữ
trong nhóm Katuic ở Việt Nam là Cơ-tu, Tà-ôi, Pa-cô, Bru - Vân Kiều.
3. Nhận xét về những khác biệt ngữ âm - chữ viết ngôn ngữ DTTS nhóm
Katuic so với tiếng Việt và chữ Quốc ngữ
Ở phần trước, chúng tôi đã chỉ ra một số đặc trưng loại hình học của các
ngôn ngữ DTTS nhóm Katuic ở Thừa Thiên Huế. Trong phần này, trên cơ sở lí
luận đã nêu ở trên, chúng tôi chỉ nêu những tương đồng và khác biệt giữa các
ngôn ngữ DTTS với tiếng Việt qua những đặc điểm sau:
3.1. Những tương đồng và khác biệt về ngữ âm
14
Uỷ ban Nhân dân Bình Trị Thiên,1986, Sách học tiếng Pacôh- Taôih, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.7.
15
Đoàn Văn Phúc, 2009, Vị trí của tiếng Tà ôi trong nhóm ngôn ngữ Cơ tu ở Việt Nam, trong “Tìm hiểu các
ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 305.
16
Đoàn Văn Phúc, 2009, Sđd, 314.
11
- Từ ngữ âm trong các ngôn ngữ DTTS thường có dạng đa tiết, đặc biệt song
tiết. Các âm tiết được chia thành hai loại: tiền âm tiết và âm tiết chính. Trong
những từ song tiết, âm tiết phụ đi trước âm tiết chính và âm tiết chính là âm tiết
mang trọng âm từ. Mô hình từ ngữ âm có thể có tới ba tiền âm tiết. Đặc điểm
ngữ âm này trong tiếng Việt không có.
- Các âm cuối trong tiền âm tiết phần lớn là các âm nước, lỏng [-l, -r] hoặc âm
mũi [-m, -n, -, - ]; một số tiền âm tiết có âm cuối là phụ âm tắc hoặc tắc xát.
Trường hợp đặc biệt là những âm tiền mũi (tiền âm tiết mũi) với dạng âm vị học

là /N/. /N/ ở vị trí âm đầu và được thể hiện thành một trong các âm mũi nói trên,
thường đồng nhất về vị trí cấu âm với phụ âm đầu của âm tiết chính đi sau đó.
Đặc điểm ngữ âm này cũng không có trong tiếng Việt.
- Hệ thống các âm đầu trong ngôn ngữ DTTS, ngoài những phụ âm đơn có trong
tiếng Việt, còn có các tổ hợp phụ âm [kl-, kr-, pl-, tl-,…]. Tiếng Việt hiện đại
không còn có đặc trưng các tổ hợp phụ âm này.
- Số lượng nguyên âm trong các ngôn ngữ DTTS phong phú và nhiều hơn trong
tiếng Việt. Các nguyên âm đơn có sự đối lập đều đặn về trường độ, khu biệt về
âm vực, không có thanh điệu; trong khi tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu.
- Hệ thống âm cuối trong âm tiết chính phức tạp hơn tiếng Việt, chúng có thể là
một phụ âm hoặc tổ hợp phụ âm. Ngoài các phụ âm tắc, vô thanh [-p, -t, -c, -k],
các âm mũi tương ứng [- m, - n, -, -], bán nguyên âm [-j, -w] có trong tiếng
Việt, các ngôn ngữ DTTS còn có thêm các phụ âm nước, lỏng [-l, -r] có chức
năng âm cuối, các phụ âm thanh hầu [-h, -], tổ hợp bán nguyên âm + phụ âm
thanh hầu [-jh, -w].
3.2. Những tương đồng và khác biệt về chữ viết
Cả chữ DTTS lẫn chữ Quốc ngữ đều thuộc hệ chữ La tinh. Đó là các loại
chữ viết ghi âm vị. Cách ghi các từ theo nguyên tắc ngữ âm học. Loại chữ này
phản ánh tương đối đúng ngữ âm, phần lớn mỗi chữ tương ứng với một âm, có
giá trị khoa học cao và rất gần với bộ chữ ngữ âm quốc tế (kí hiệu phiên âm
quốc tế). Tuy cùng hệ chữ La tinh nhưng giữa chữ DTTS với chữ Quốc ngữ vẫn
có những khác biệt cơ bản:
12
- Để ghi nguyên âm ngắn, chữ viết DTTS sử dụng “dấu sắc” trên các nguyên âm
ngoại trừ chữ â, ă giống chữ Quốc ngữ, như ư-ứ, ê-ế, u-ú, oo-oó, a-ă, ơ-â,…Ví
dụ: toóm (suối), kaseénh (con rắn), achúh (thác),… trong tiếng Tà-ôi; koóh
(núi), kammoóng (siêng năng), koónh (đàn ông, đực), … trong tiếng Pa-cô.
- Để ghi hiện tượng âm tắc thanh hầu ở cuối âm tiết, chữ DTTS dùng con chữ
“q” để biểu thị, còn chữ Quốc ngữ không ghi. Ví dụ: daq (sông), a-aq (con
qụa) trong tiếng Pa-cô; kireq (cây mây), aroq (khoai môn),… trong tiếng Cơ-

tu.
- Nhiều kí hiệu trong bộ chữ các ngôn ngữ DTTS không hề và/hoặc không
tương ứng trong chữ Quốc ngữ. Chẳng hạn: nhân đôi nguyên âm để biểu thị các
nguyên âm căng, dài như ee, oo, ơơ, aa, uu…; các kí hiệu phụ âm ghép như br,
pl, kl, kr, dh, bh,…; k thay cho c, k,q; g thay cho g, gh; ng thay cho ngh, ng.
Ngoài ra, chữ viết DTTS còn bổ sung thêm các con chữ và tổ hợp chữ j, y, iq,
uq, ih… để ghi những phụ âm không có trong chữ Quốc ngữ.
Rõ ràng, so với chữ Quốc ngữ, bộ chữ của các ngôn ngữ DTTS ở Thừa
Thiên Huế đã có nhiều cải tiến từ chính những khuyết điểm của chữ Quốc ngữ.
Sự khác nhau về hệ thống âm vị và phẩm chất ngữ âm của chúng trong các ngôn
ngữ tất yếu dẫn đến những khác biệt trong cách ghi âm vị của hai bộ chữ cùng
hệ La tinh này.
Như vậy, hệ quả của những khác biệt về ngữ âm - chữ viết các DTTS ở
Thừa Thiên Huế so với tiếng Việt và chữ Quốc ngữ nói trên, có thể được vận
dụng một cách khoa học trong việc phiên chuyển tên riêng gốc DTTS sang tiếng
Việt trong văn bản tiếng Việt, đặc biệt là phiên chuyển địa danh gốc DTTS sang
tiếng Việt trên bản đồ quân sự, bản đồ địa lí, du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế
17
. Đây
là một vấn đề chưa có sự thống nhất giữa các nhà ngôn ngữ học và các nhà bản
đồ học hiện nay.
4. Kết luận
17
Về vấn đề này, chúng tôi đã đề xuất giải pháp trong: Trần Văn Sáng (2013), “Cách phiên chuyển địa danh gốc
dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế sang tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (số 1+2/2013), tr.85-93
13
Nhìn một cách tổng quan có thể nhận xét: Thừa Thiên Huế là tỉnh đa dân
tộc, đa ngôn ngữ, đa văn hóa. Ngoài dân tộc Kinh còn có các DTTS khác nhau
sinh sống. Các DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế chủ yếu là các tộc người nhóm
ngôn ngữ Katuic, chi Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á. Đây chính là lớp cư dân bản

địa ở khu vực Bắc Trường Sơn, Trung Trung Bộ. Các ngôn ngữ DTTS ở Tây
Thừa Thiên Huế đều là những ngôn ngữ đơn lập thuộc tiểu loại hình cổ, cận âm
tiết tính, chúng vừa mang những đặc điểm chung có ở các ngôn ngữ Môn-
Khmer, vừa có những khác biệt về loại hình học với tiếng Việt, một ngôn ngữ
đơn lập điển hình. Việc tìm hiểu đặc điểm loại hình học các ngôn ngữ Katuic
một cách chuyên sâu sẽ góp phần vào việc:
(1) Chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ và chữ viết các ngôn ngữ DTTS trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần biên soạn từ điển dân tộc -Việt, Việt - dân
tộc, sách giáo khoa bằng tiếng dân tộc trong chương trình giáo dục phổ thông;
(2) Nhận biết những điểm tương đồng và khác biệt giữa tiếng Việt so với
các ngôn ngữ DTTS để thấy rõ sự giao thoa, chuyển hóa, vay mượn giữa các
ngôn ngữ cũng như vấn đề chuẩn hóa cách viết tên riêng gốc DTTS nói chung,
địa danh gốc DTTS nói riêng trong văn bản tiếng Việt và trên bản đồ quốc gia.
Huế, 22/12/2014
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
Tiếng Việt
1. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Hoành, Nguyễn Văn Lợi (1998), Tiếng Katu, Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
3. Nguyễn Quang Hồng (2012), Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, in lần thứ ba, Nxb
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Vương Hữu Lễ (1997), Từ điển Bru-Việt-Anh, Nxb Thuận Hoá, Huế.
5. Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông (1998), Tiếng Bru-Vân Kiều, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
14
6. Đoàn Văn Phúc (2009), Vị trí của tiếng Tà ôi trong nhóm ngôn ngữ Cơ tu ở Việt
Nam, trong “Tìm hiểu các ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 294-318.
7. Trần Văn Sáng (2013), “Cách phiên chuyển địa danh gốc dân tộc thiểu số ở Thừa

Thiên Huế sang tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (số 1+2/2013), tr.85-
93.
8. Nguyễn Thị Sửu (2009), Cấu tạo từ tiếng Ta Ôi (trong sự so sánh với tiếng Việt),
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Hà Nội.
9. Uỷ ban Nhân dân Bình Trị Thiên (1986), Sách học tiếng Bru-Vân Kiều, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
10. Uỷ ban Nhân dân Bình Trị Thiên (1986), Sách học tiếng Pacôh- Taôih, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
11. Xtankêvich, N.V. (1982), Loại hình các ngôn ngữ, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
Tiếng Anh
12. Bernard Comrie (2009), The World’s Major Languages, Second Edition,
Routledge, London and New York.
13. Cliff Goddard (2005), The languages of East and Southeast, Oxford University
Press.
14. Paul Sidwell (2006), A Mon - Khmer comparative dictionary, Pacific Linguistics,
Research School of Pacific and Asian Studies, The Australian National
University.

×