Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở tây thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.68 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Địa danh học là một bộ phận đặc biệt của từ vựng học,
chuyên nghiên cứu nguồn gốc, ý nghĩa và đặc điểm cấu tạo các tên
gọi chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn. Việc nghiên cứu
địa danh giúp chỉ ra các nguyên tắc định danh đặc thù gắn với mỗi
vùng phương ngữ và các khu vực địa - văn hóa khác nhau.
Là một cán bộ giảng dạy ở một trường đại học trên địa bàn
Thừa Thiên Huế, chúng tôi hướng đến một nguyện vọng thiết thực:
góp phần nghiên cứu những đặc trưng văn hoá - ngôn ngữ của địa
danh có nguồn gốc ngôn ngữ DTTS nơi đây, qua đó chỉ ra quá trình
tiếp xúc, giao thoa văn hóa và ngôn ngữ dân tộc - Việt trên địa bàn.
Đặc biệt, cho đến nay, việc nghiên cứu địa danh có nguồn gốc ngôn
ngữ DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế chưa được tìm hiểu, nghiên cứu
một cách kỹ lưỡng, nếu không muốn nói là đang bỏ sót; chưa một cá
nhân hay tổ chức khoa học nào quan tâm đến việc này một cách đúng
mực. Vì vậy, lựa chọn đề tài này, luận án góp phần giữ gìn các đặc
trưng văn hóa - tộc người được ký thác qua mỗi địa danh nhằm cung
cấp tư liệu biên soạn từ điển bách khoa và từ điển từ nguyên địa danh
Thừa Thiên Huế.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1.Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Việc nghiên cứu địa danh đã xuất hiện từ lâu trên thế giới:
Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh Mỹ,… Đáng chú ý là các nghiên cứu
của A.Dauzat và Ch.Rostaing (1963), A.V.Superanxkaja (1985),
Naftali Kadmon (2000), Những công trình nghiên cứu địa danh trên
thế giới nói trên đã vạch ra một khung lý thuyết tương đối khái quát,
từ cách phân loại đến việc miêu tả các lớp địa danh, phương thức
định danh.
2.2. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam


Việc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam được tiếp cận từ hai góc
độ: góc độ địa lí- lịch sử - văn hóa và góc độ ngôn ngữ học.
2
Từ góc độ lịch sử- địa lí- văn hóa, đáng chú ý là các nghiên
cứu của Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Âu, Từ góc độ ngôn ngữ học,
phải kể đến Hoàng Thị Châu, Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường,
Từ Thu Mai, Trần Văn Dũng, Phan Xuân Đạm, Trần Trí Dõi,
Nguyễn Đức Tồn, Phạm Đức Dương, Nguyễn Văn Hiệu, Nhìn một
cách tổng thể, việc tìm hiểu các địa danh gốc DTTS như một đối
tượng riêng, độc lập hiện vẫn còn là một khoảng trống.
2.3.Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Thừa Thiên Huế
Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Thừa Thiên Huế mới chỉ dừng
lại ở một vài khảo sát sơ sài trong một số sách địa chí xưa. Trần
Thanh Tâm và Huỳnh Đình Kết biên soạn “Địa danh thành phố Huế”
chỉ liệt kê địa danh thuần Việt và Hán Việt chứ chưa nghiên cứu địa
danh từ góc độ ngôn ngữ học. Luận văn thạc sĩ “Địa danh làng xã ở
Thừa Thiên Huế” của Nguyễn Thanh Hải chỉ đề cập đến tên làng xã
thuần Việt và Hán Việt. Cho đến nay, chưa ai đặt vấn đề địa danh
có nguồn gốc ngôn ngữ DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế từ góc độ
ngôn ngữ học như đề tài luận án.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN
3.1. Mục đích: Luận án hướng đến các mục đích sau:
- Giúp nhận diện đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa được ký thác, qua
các từ ngữ dùng để gọi tên địa danh ở Tây Thừa Thiên Huế.
- Cung cấp dữ liệu biên soạn từ điển từ nguyên và từ điển bách
khoa địa danh Thừa Thiên Huế.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận án có 4 nhiệm vụ:
1) Trình bày cơ sở lí luận và giới thiệu về địa bàn nghiên cứu; 2)
Miêu tả đặc điểm cấu trúc các địa danh; 3) Miêu tả đặc điểm định
danh, ngữ nghĩa và đặc trưng văn hóa của địa danh; 4) Phiên chuyển

địa danh gốc DTTS sang tiếng Việt.
4. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Luận án khảo sát và nghiên cứu hệ thống địa danh có nguồn
gốc ngôn ngữ DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế trên các phương diện
chính: Đặc điểm cấu trúc; đặc điểm ý nghĩa, phương thức định danh
và đặc trưng văn hóa của địa danh; vấn đề chuẩn hóa chính tả địa
3
danh gốc DTTS trong văn bản tiếng Việt. Khu vực Tây Thừa Thiên
Huế chủ yếu thuộc hai huyện miền núi Nam Đông và A Lưới, nơi tập
trung các tộc người nhóm ngôn ngữ Katuic, chi Môn-Khmer, ngữ hệ
Nam Á.
5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
- Về lí luận, những kết quả của luận án đã góp phần luận án tìm
hiểu nguồn gốc, ý nghĩa, cấu tạo và chuẩn hóa địa danh; chỉ ra những
mối liên quan mật thiết giữa địa danh với hệ thống ngữ âm, từ vựng,
sự giao thoa, tiếp xúc ngôn ngữ giữa các dân tộc.
- Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp đồng bào
các DTTS hiểu rõ các đặc trưng văn hóa và ngôn ngữ mẹ đẻ của
mình; giúp biên soạn từ điển bách khoa, từ điển từ nguyên địa danh
Thừa Thiên Huế, lập mới và chuẩn hóa địa danh trên bản đồ.
6. TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nguồn tư liệu của luận án: Nguồn tư liệu địa danh trong luận
án là nguồn tư liệu được thu thập hai chiều: vừa thu thập những đơn
vị địa danh được ghi bằng chữ Quốc ngữ, vừa thu thập các đơn vị địa
danh được ghi bằng chữ DTTS. Tương ứng là hai nguồn tư liệu quan
có được trong luận án: tư liệu thành văn và tư liệu điền dã.
6.2. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương
pháp miêu tả; phương pháp ngôn ngữ học điền dã; thủ pháp phân
loại, hệ thống hóa tư liệu, thủ pháp đối lập, thủ pháp thống kê…
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN

Ngoài Mở đầu, Kết luận và các phần Phụ lục, Tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận án được cấu trúc trong 4 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết về địa danh học và vấn đề địa
danh, địa bàn ở Tây Thừa Thiên Huế;
Chương 2: Đặc điểm cấu trúc địa danh gốc dân tộc thiểu số
ở Tây Thừa Thiên Huế;
Chương 3: Đặc điểm định danh, ngữ nghĩa và đặc trưng văn
hóa của địa danh gốc dân tộc thiểu số ở Tây Thừa Thiên Huế;
Chương 4: Vấn đề chuẩn hóa chính tả địa danh gốc dân tộc
thiểu số trong văn bản tiếng Việt.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH HỌC
VÀ VẤN ĐỀ ĐỊA DANH, ĐỊA BÀN Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ
1.1. DẪN NHẬP: Để tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa cũng như các
phương diện văn hóa của địa danh cần đến những tri thức và phương
pháp liên ngành. Người nghiên cứu vừa phải có tri thức ngôn ngữ học
vững chắc, đặc biệt danh xưng học; vừa phải am tường lịch sử, văn
hóa và địa lí của vùng đất chứa địa danh. Chương 1 đi vào nghiên
cứu hai vấn đề cơ bản: cơ sở lý thuyết về địa danh học và giới thiệu
về địa bàn, địa danh ở Tây Thừa Thiên Huế.
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH HỌC
1.2.1. Khái niệm địa danh: tiếp thu những định nghĩa về địa danh đã
có trước đây, luận án quan niệm: Địa danh chính là những từ, cụm từ
được sử dụng để gọi tên các đối tượng, không gian địa lí, các đặc
trưng địa hình, địa vật nào đó, có tác dụng khu biệt, định vị chính
những đối tượng, không gian địa lí, những đặc trưng địa hình, địa vật
được gọi tên đó với những đối tượng, không gian địa lí, những đặc
trưng địa hình địa vật khác trong môi trường xung quanh.
1.2.2.Vấn đề xác định chức năng của địa danh: luận án trình bày 4

chức năng sau: 1) Chức năng cá thể hoá đối tượng; 2) Chức năng
định danh sự vật; 3) Chức năng phản ánh hiện thực; 4) Chức năng
bảo tồn văn hóa. Trong đó, hai chức năng đầu gắn với thuộc tính
ngôn ngữ của địa danh; hai chức năng sau gắn với thuộc tính văn hoá
của địa danh.
1.2.3.Vấn đề phân loại địa danh: luận án trình bày các cách phân
loại địa danh của các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam một
cách chi tiết. Để phân loại “Địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc
thiểu số ở Tây Thừa Thiên Huế”, chúng tôi vận dụng cả hai tiêu chí:
tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên và tiêu chí nguồn gốc ngôn ngữ các
địa danh. Hơn nữa, việc quy nhóm địa danh theo ý nghĩa cũng là tiêu
5
chí được chúng tôi áp dụng. Kết quả phân loại địa danh được chúng
tôi trình bày chi tiết ở chương 2 của luận án.
1.2.4.Vị trí của địa danh học trong ngôn ngữ học: Địa danh học
vừa là “thành tố” vừa là “đối tác'” của ngôn ngữ học. Địa danh học
cũng có quan hệ với ngữ âm học, từ vựng học và ngữ pháp học,
phương ngữ học, Tuy nhiên, “địa danh học thuộc hẳn về từ vựng
học”. Bản thân địa danh học cũng được chia làm các tiểu ngành như
sơn danh học, thuỷ danh học, phương danh học và phố danh học,
1.2.5. Mối quan hệ giữa địa danh học với các ngành khoa học
khác: Là sản phẩm của quá trình nhận thức và định danh, địa danh
còn chịu tác động của các yếu tố ngoài ngôn ngữ: Đặc điểm tộc
người, lịch sử, chính trị thời đại, tâm lý xã hội.
1.2.6. Các hướng tiếp cận địa danh từ góc độ ngôn ngữ học: Từ
góc độ ngôn ngữ học, có thể chỉ ra các hướng tiếp cận địa danh: 1)
Tiếp cận địa danh theo hướng đồng đại; 2) Tiếp cận địa danh theo
hướng lịch đại; 3) Tiếp cận địa danh dưới góc độ ngôn ngữ - văn hóa;
4) Vấn đề chuẩn hóa địa danh.
1.3. VỀ ĐỊA BÀN, ĐỊA DANH TÂY THỪA THIÊN HUẾ

1.3.1. Giới thiệu chung về Thừa Thiên Huế: Luận án giới thiệu
chung về tỉnh Thừa Thiên Huế trên các phương diện: vị trí địa lí, dân
cư, ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa.
1.3.2. Vài nét về địa bàn Tây Thừa Thiên Huế: Luận án giới thiệu
chi tiết về đặc điểm dân cư, ngôn ngữ và vị trí địa lí. Về dân cư, các
DTTS ở đây thuộc nhóm ngôn ngữ Katuic, chi Môn - Khmer, ngữ hệ
Nam Á, là lớp cư dân bản địa có mặt sớm nhất. Về ngôn ngữ, các
ngôn ngữ DTTS ở đây đều được xếp vào nhóm Katuic, là những
ngôn ngữ đơn lập, thuộc tiểu loại hình cổ, cận âm tiết tính
(sesquisyllabic), chưa có thanh điệu, các phụ tố cấu tạo từ được bảo
lưu và ngày càng phát triển; từ có dạng đa tiết (gồm tiền âm tiết và
âm tiết chính); tất cả đã có chữ viết theo hệ La tinh.
1.4. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1: Tóm tắt những nội dung chủ yếu đã
được trình bày từ mục 1.1 đến 1.3.
6
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC CỦA ĐỊA DANH
GỐC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ
2.1. DẪN NHẬP: Tìm hiểu mặt cấu trúc của địa danh, tức là đi tìm
hiểu các mô hình cấu tạo, qua đó tìm ra các nguyên tắc (tạo từ) của
địa danh, những đặc điểm chung có tính phổ quát trong cấu tạo địa
danh thuộc về các ngôn ngữ và khu vực khác nhau và các đặc điểm
riêng, có tính khu biệt trong cấu tạo địa danh thuộc về chính ngôn
ngữ và khu vực đó. Về cách tiếp cận tư liệu, chúng tôi vừa đi từ cách
viết địa danh bằng chữ DTTS vừa đi từ cách ghi địa danh bằng chữ
Quốc ngữ.
2.2. KẾT QUẢ THU THẬP VÀ PHÂN LOẠI ĐỊA DANH
2.2.1. Nguyên tắc thống kê - thu thập địa danh: luận án chỉ ra
nguyên tắc thống kê, thu thập địa danh trên hai nguồn tư liệu chính:
tư liệu thành văn và tư liệu điền dã.

2.2.2. Kết quả thống kê - thu thập địa danh: luận án thu thập được
559 địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế, được phân bố chủ
yếu ở huyện Nam Đông và huyện A Lưới. Kết quả thu thập địa danh
được thể hiện qua bảng thống kê sau:
Bảng 2.1: Kết quả thu thập địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên
Huế
TT Loại hình địa danh Số lượng Tỉ lệ%
1 Địa danh ĐHTN 330 59,04
2 Địa danh ĐVHC 150 26,83
3 Địa danh CTNT 79 14,13
Tổng 559 100
2.2.3. Kết quả phân loại địa danh: Luận án phân theo hai tiêu chí:
tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên và tiêu chí nguồn gốc ngôn ngữ.
Kết quả phân loại thể hiện qua hai bảng thống kê sau:
Bảng 2.2: Kết quả phân loại địa danh theo tiêu chí tự nhiên -
không tự nhiên
7
Tiêu chí Loại hình địa danh Số lượng Tỉ lệ %
Tự
nhiên
Đia danh
ĐHTN
Sơn danh 158
330
47,88
59,04
Thủy danh 169 51,12
Vùng đất nhỏ 3 9,09
Không
tự nhiên

Địa danh
ĐVHC
Thị trấn, huyện 4
150
2,67
26,83
Xã 5 3,33
Thôn, làng 141 94,00
Địa danh
CTNT
Công trình giao
thông
57
79
72,15
14,13
Công trình xây dựng 22 27,85
Tổng 100 100
Bảng 2.3: Kết quả thống kê địa danh theo nguồn gốc ngôn ngữ
của các yếu tố
TT Loại hình
địa danh
Số lượng địa danh
theo nguồn gốc ngôn
ngữ
Tổng
Ta ôi Pa cô Cơ tu Số lượng Tỉ lệ%
1 Địa danh ĐHTN 113 49 168 330 59,04
2 Địa danh ĐVHC 41 51 58 150 26,83
3 Địa danh CTNT 20 30 29 79 14,13

Tổng 174 130 255 559 100
2.3. CẤU TRÚC MÔ HÌNH PHỨC THỂ ĐỊA DANH
2.3.1. Về yếu tố tổng loại và yếu tố loại biệt trong phức thể địa
danh: Một phức thể địa danh gồm hai yếu tố. Chúng tôi gọi yếu tố
thứ nhất là yếu tố tổng loại (YTTL), yếu tố thứ hai là yếu tố loại
biệt (YTLB). Thuật ngữ YTTL và YTLB sử dụng trong luận án có
tham khảo và chuyển dịch từ các khái niệm Naftali Kadmon sử dụng
để nói về địa danh: “generic elements” và “specific element”.
2.3.1.1. Quan niệm yếu tố tổng loại: Trong cấu trúc của một địa
danh, YTTL thường được quy loại là danh từ chung, đứng trước
YTLB, có chức năng gọi tên, chỉ ra một lớp sự vật, đối tượng cùng
thuộc tính loại hình.
8
2.3.1.2. Quan niệm yếu tố loại biệt: YTLB có thể là từ, ngữ; có thể
là danh từ, động từ hay tính từ; có thể là đơn tiết, hoặc đa tiết,… có
chức năng đánh dấu (nhận diện), khu biệt hoá (cá thể hoá) đối tượng
địa lý.
2.3.1.3. Về mối quan hệ giữa yếu tố tổng loại với yếu tố loại biệt:
Quan hệ giữa YTTL và YTLB là quan hệ giữa cái được hạn định và
cái hạn định, trong đó, YTTL là cái được hạn định với sự biểu thị
một loại đối tượng có cùng thuộc tính, còn YTLB là cái dùng để hạn
định cho YTTL với chức năng chỉ những đối tượng cụ thể, xác định
trong lớp đối tượng mà YTTL chỉ ra.
2.3.2. Cấu trúc mô hình phức thể địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa
Thiên Huế: Mô hình phức thể địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên
Huế được phản ánh một cách cụ thể sau:
Mô hình 2.2: Cấu trúc phức thể địa danh gốc DTTS ở Tây
Thừa Thiên Huế
Mô hình
Phức thể địa danh

Yếu tố
tổng loại
Yếu tố loại biệt- khu biệt đối tượng
(tối đa là 4 âm tiết)
1 âm tiết 2 âm tiết 3 âm tiết 4 âm tiết
Ví dụ
minh
họa
veel (làng) Kê
dak (sông) Sal
kakoong(núi) Kalươn
g
pakkong(đồi) Tu Ăt
tơớm (suối) Tu Parleech
ahơar (khe) Kăn Rơang
Kakoong(núi
)
Radang
Radâng
Số lượng cả YTTL lẫn YTLB trong mô hình địa danh gốc
DTTS ở đây không quá dài, tối thiểu 1 âm tiết, tối đa 4 âm tiết. Số
lượng âm tiết không quá chênh lệch giữa hai yếu tố.
2.4. CẤU TRÚC CỦA YẾU TỐ TỔNG LOẠI
9
2.4.1.Về số lượng, thu thập được 559 địa danh, luận án thống kê
được 50 YTTL có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác nhau (Pa-cô, Tà-
ôi, Cơ-tu). Ví dụ: kooh (T: núi), dak (T: sông), veel (T: làng), bôl (K:
đồi), vil (K: làng), tơớm (K: suối),
2.4.2.Về sự chuyển hóa của yếu tố tổng loại: Quá trình chuyển hoá
YTTL thành YTLB có thể được phân thành hai loại: Loại chuyển

hoá trực tiếp thành YTLB [Ví dụ: ahơar Pakong (T: khe, đồi cao),
…]; Loại chuyển hoá thành một bộ phận của YTLB [Ví dụ:
kakoong Bôl Đhrông (K: núi đồi Đhrông), vil Tu Krung (K: thôn đầu
sông), ]. Đa số các địa danh có YTTL chuyển hóa theo loại này đều
thuộc vào các địa danh có cấu tạo phức. Các YTTL chuyển hóa thành
YTLB đa số rơi vào vị trí thứ nhất, đầu tiên của địa danh.
2.4.3. Về khả năng kết hợp của yếu tố tổng loại với yếu tố loại
biệt: được trình bày chi tiết ở phần Phụ lục của luận án.
2.5. CẤU TRÚC CỦA YẾU TỐ LOẠI BIỆT
2.5.1. Về số lượng và hoạt động của YTLB: Với số lượng 559 địa
danh, các YTLB có độ dài tối thiểu 1 âm tiết đến tối đa 4 âm tiết,
được trình bày qua bảng tổng hợp trang sau:
Bảng 2.5: Thống kê địa danh theo số lượng các âm tiết của yếu tố
loại biệt
TT Số lượng âm
tiết
Số lượng địa danh Tổng
cộng
Tỉ lệ
%
ĐHTN ĐVDC CTNT
1 Một âm tiết 30 10 1 41 7,34
2 Hai âm tiết 267 108 71 446 79,78
3 Ba âm tiết 28 30 7 65 11,63
4 Bốn âm tiết 5 2 0 7 1,25
Tổng 330 150 79 559 100
Như vậy, việc các YTLB 2 âm tiết chiếm đa số không phải là
ngẫu nhiên, tùy tiện mà nó phản ánh quy luật khách quan về loại hình
ngôn ngữ và lối tư duy của chủ thể định danh.
2.5.2. Yếu tố loại biệt đơn : có thể là từ đơn tiết [veel Tru (P: làng

Tru)]; hoặc cũng có thể là một từ đơn đa tiết [karung Asap (K: sông
Asap)]. YTLB đơn chiếm 75,49%, trong đó, loại cấu tạo bằng từ
10
đơn đa tiết là chủ yếu. Về từ loại, các YTLB đơn có thể là danh từ
[núi Ta Vi (T : kooh Taviar - núi, cây giang)]; là động từ [sông Tà
Hàm (T: dak Taham - sông, chảy máu)]; là tính từ [suối Pleng (P:soq
Pleng- suối, thiêng liêng)].
2.5.3. Yếu tố loại biệt phức: là những YTLB được cấu tạo từ hai
thành tố có nghĩa trở lên, không phụ thuộc vào số lượng âm tiết tạo
nên chúng, chiếm một tỉ lệ nhỏ (với 96/559 địa danh, chiếm 17,17%).
Các YTLB phức được xem xét trên hai khía cạnh: đặc điểm từ loại và
mối quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố. Xét về mặt từ loại, đa số các
địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế là danh từ, hoặc cụm
danh từ: Ví dụ: kakoong Hare Yang (K: núi, rẫy thần),… Xét về
quan hệ ngữ pháp, chúng vừa có quan hệ chính phụ, quan hệ đẳng
lập và quan hệ chủ vị, trong đó quan hệ chính phụ là chủ yếu
(85,42%). Ví dụ: đồi Đon Pa Ní (T: pakong Dol Parnis - đồi, hình
cán chổi), thôn Tu Krung (vil Tu Krung - làng, đầu ngọn sông), khe
Tu Ắt (ahơar Tu Ắt - khe, đầu ngọn), Sự phân loại địa danh theo
kiểu cấu tạo của YTLB được tổng hợp qua bảng thống kê sau :
Bảng 2.6: Phân loại địa danh theo kiểu cấu tạo của yếu tố loại biệt
Loại hình
địa danh
Số lượng địa danh theo kiểu cấu tạo Cộng
Cấu tạo đơn Cấu tạo phức
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Đơn

tiết
Đa
tiết
Chính
phụ
Đẳng
lập
Chủ
vị
ĐDĐHTN 30 254 40 5 1 330 59,03
ĐDHCDC 10 101 31 8 0 150 26,83
ĐDCTNT 1 67 11 0 0 79 14,13
Tổng
cộng
Số lượng 41 422 82 13 1
559 100
Tỉ lệ% 7,33 75,49 14,21 2,33 0,65
2.6. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2:
Địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế
được thu thập và phân loại dựa trên hai tiêu chí: dựa vào YTTL chỉ
loại hình địa danh và dựa vào nguồn gốc ngôn ngữ tạo địa danh.
Mỗi phức thể địa danh được cấu trúc bằng hay yếu tố: YTTL
và YTLB, các yếu tố đều có độ dài tối đa là 4 âm tiết. Đặc biệt,
11
chúng chủ yếu được cấu tạo bằng các từ đơn đa tiết. Cả YTTL và
YTLB đều có cấu trúc đa tiết chiếm tỉ lệ lớn, chủ yếu từ đơn song
tiết.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH, NGỮ NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CỦA
ĐỊA DANH GỐC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ

3.1. DẪN NHẬP
Trong chương trình này, chúng tôi đề cập đến ba nội dung
chính: (1) Phương thức định danh; (2) Đặc điểm ngữ nghĩa của các
yếu tố tạo địa danh; (3) Đặc trưng văn hóa được phản ánh qua ngữ
nghĩa của yếu tố tổng loại và yếu tố loại biệt. Đây là những vấn đề có
nội dung liên quan mật thiết tới nhau. Bởi lẽ, chỉ khi tìm hiểu rõ
nguồn gốc, ý nghĩa của các yếu tố tạo địa danh thì mới chỉ ra được
các phương thức định danh và ngược lại, một phương thức định danh
được xác định thì vấn đề ý nghĩa của yếu tố ngôn ngữ được dùng
trong các phương thức định danh được làm sáng tỏ, qua đó góp phần
chỉ ra các đặc trưng văn hóa kí thác trong mỗi địa danh.
3.2. PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH ĐỊA DANH
3.2.1. Vấn đề định danh trong ngôn ngữ
3.2.1.1. Về khái niệm định danh: Định danh chính là cách đặt tên
gọi cho một sự vật, hiện tượng nào đó.
3.2.1.2. Về tính lí do của định danh: mỗi địa danh chính là một tên
gọi có tính lí do (motivated), tính phi võ đoán (unarbitrary).
3.2.2. Phương thức định danh tự tạo: Phương thức này được tiến
hành bằng những cách thức và cơ sở sau:
3.2.2.1. Định danh dựa vào đặc điểm chính của bản thân đối
tượng: Cách thức định danh này dựa trên 5 cơ sở định danh sau (hình
dáng, kích thước-cấu trúc, màu sắc, địa hình kiến tạo, mục đích sử
dụng). Ví dụ: đồi Đon Pa Ní (T: pakkong Dol Parnis - đồi có hình
cán chổi, núi Kà Lương (K: kakoong Kalương - đồi trọc),
12
3.2.2.2. Định danh dựa vào các đặc điểm có liên quan đến đối
tượng: Cách thức định danh này dựa trên 12 cơ sở định danh (gọi
theo động vật, thực vật, tên người, tên dòng họ, phương vị, tộc danh,
biến cố, truyền thuyết, nghề nghiệp, tín ngưỡng, ) Ví dụ: sông A
Lim (T: dak Alim - sông có nhiều châu chấu), thôn Ỷ Rỉ (P: veel Iri -

thôn có cây đa), thôn Tu Krung (K: vil Tu Krung - thôn nằm đầu
ngọn sông),
3.2.3. Các phương thức định danh theo lối chuyển hoá: Có hai
loại chuyển hoá: chuyển hoá trong nội bộ một loại địa danh, ví dụ:
sông A Sáp (karung Asap) - núi A Sáp (kakoong Asap); chuyển hoá
giữa các loại địa danh khác nhau, ví dụ:; thác A Ka (achúh Aka) -
thôn A Ka (veel Aka), Địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế
chỉ có 14 trường hợp YTTL chuyển hóa thành YTLB. Sự chuyển hóa
lồng ghép, mang thai như địa danh DTTS vùng Tây Nguyên hay Tày
Nùng là hiện tượng không được xem là phổ biến.
3.2.3.3. Đặc điểm định danh xét theo kiểu ngữ nghĩa: Có hai con
đường định danh: Con đường định danh gián tiếp thường do sự
chuyển nghĩa theo lối ẩn dụ hóa hoặc hoán dụ hóa một đơn vị từ
vựng sẵn có tạo nên. Ví dụ: sông Pling (daq Pling) là dòng sông có
hình dáng uốn lượn như con chim phượng. Con đường định danh
trực tiếp, chủ thể định danh đã chọn đặc trưng “đập vào mắt” để
định danh. Ví dụ: núi Ta Vi (kooh Taviar - núi có nhiều cây giang),
đồi Đon Pa Ní (pakkong Dol Parnis - ngọn đồi có hình cán chổi)],
Địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế xu hướng định
danh không văn hoa chải chuốt, không cầu kỳ; trái lại, đơn giản,
mộc mạc và gần gũi với đời thường, mối quan hệ âm thanh và nội
dung ý nghĩa của nó thường có tính trực tiếp.
3.3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA CÁC YẾU TỐ CẤU TẠO ĐỊA
DANH
3.3.1. Vấn đề ý nghĩa của địa danh: Theo quan niệm phổ biến,
chúng tôi quan niệm rằng địa danh có nghĩa. Nhưng nghĩa (ý nghĩa)
của địa danh sẽ không giống với nghĩa (ý nghĩa) của từ ngữ thông
13
thường. Theo Naftali Kadmon [176, tr.36], có thể kể đến 3 loại ý
nghĩa có trong địa danh: ý nghĩa mô tả hay nghĩa từ vựng (descriptive

or lexical meaning), ý nghĩa ngữ pháp (grammmatical meaning), ý
nghĩa liên tưởng hay ý nghĩa ngữ dụng (connotative or pragmatic
meaning), trong đó, ý nghĩa mô tả là loại nghĩa cơ bản, thường trực
nhất của địa danh
3.3.2. Đặc điểm ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh
3.3.2.1. Tính rõ ràng về nghĩa của các yếu tố thể hiện qua nguồn
gốc ngôn ngữ: luận án chỉ ra hiện tượng địa danh rõ ràng về nghĩa
(ví dụ, núi A Ha (T: kooh Ahar - núi, ếch đá), ). Có 90% địa danh rõ
lí do tuyệt đối, có nghĩa rõ ràng. Hiện tượng địa danh không rõ
ràng về nghĩa là những địa danh đã bị Việt hóa, Pháp hóa [Nam
Đông, A Sầu, Truồi], ; mờ nghĩa, chưa rõ nghĩa ở thời điểm hiện tại
[kakoong Maxua (K: núi Maxua), karung Marai (K: sông Marai)],
hoặc còn tranh luận [veel Abung (thôn Abung): “abung” trong tiếng
Cơ-tu có nghĩa là “cái vá xúc cơm”, còn tiếng Ta-ôi có nghĩa là “cây
nứa”].
3.3.2.2. Vấn đề phân loại ý nghĩa địa danh gốc DTTS: Các từ ngữ
được sử dụng vào định danh được xếp thành từng nhóm cũng có thể
xem là các trường từ vựng - ngữ nghĩa có trong địa danh. Luận án
vừa tham khảo cách phân loại của Superanskaja, vừa dựa vào cách
phân loại của Naftali Kadmon, phân thành: Nhóm các địa danh
mang ý nghĩa mô tả (ý nghĩa từ vựng): Đó là ý nghĩa từ vựng, ý
nghĩa biểu vật. Ví dụ: đồi Đon Pa Ní (T: pakkong Dol Parnis - đồi
hình cán chổi, thôn A Ngo (veel Ango - thôn, cây thông)],… Nhóm
các địa danh mang ý nghĩa liên tưởng (ý nghĩa ngữ dụng). Ví dụ
sông Tà Hàm (dak Taham - sông, làm cho chảy máu), làm cho người
ta liên tưởng đến sự chết chóc, máu và những điều không may mắn.
3.4. ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ THỂ HIỆN TRONG ĐỊA DANH CÓ
NGUỒN GỐC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ
14
3.4.1. Mối quan hệ giữa văn hóa với ngôn ngữ trong nghiên cứu

địa danh: luận án trình bày khái niệm văn hóa và mối quan hệ giữa
ngôn ngữ với văn hóa trong nghiên cứu địa danh.
3.4.2. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua các thành tố ngôn ngữ
3.4.2.1. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua yếu tố tổng loại : Với 50
YTTL, phản ánh đặc trưng địa-văn hóa, không gian cư trú của các
DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế qua 109 ngọn núi (kooh, koóh,
kakoong), 17 ngọn đồi (pakkong, pangkong, bôl), 20 động (ghơớp,
akúp), 10 con đèo, dốc (nnâk, tangkứh, triot), 33 con sông (dak, daq,
karung), 43 con suối (toóm, soq, tơớm), 78 ngọn khe (ahơar, tơớm),
7 con thác (achúh, azúh), 1 gò (bônh), 4 đầm (pik), 2 hồ (tarlúng/
tarloóng), 2 vực (azeh azah).
3.4.2.2. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua các chế định ngôn ngữ -
văn hóa: Luận án chỉ ra kiểu chế định ngôn ngữ- văn hóa riêng biệt
của địa danh ngôn ngữ DTTS nhóm Katuic: bình dị, trực quan, cảm
tính và có tính khách quan.
3.4.3. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua ngữ nghĩa và sự phản ánh
hiện thực của yếu tố loại biệt
3.4.3.1. Sự phản ánh phương diện không gian văn hoá trong địa
danh, thể hiện qua: đặc điểm địa hình tự nhiên, thế giới động thực
vật gắn với vùng đất chứa địa danh. Ví dụ: đồi Đon Pa Ní (T:
pakkong Dol Parnis - đồi có hình cán chổi), thôn A Ngo (T: veel
Ango - thôn, cây thông), khe Cà Xình (T: ahơar Kaseénh - khe, con
rắn),…]. Điểm nổi bật là đặc điểm môi trường sinh thái núi rừng -
một nét văn hóa cư trú và sinh hoạt chính yếu của các cư dân
DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế.
3.4.3.2. Sự phản ánh các phương diện văn hóa lịch sử trong địa
danh: Phản ánh quá trình di trú của các tộc người trong lịch sử.
Chẳng hạn, huyện Nam Đông có nguồn gốc từ cách nói “Năm Dống”
(năm nhà, năm hộ), trong đó “năm” là từ tiếng Việt, “dống” là từ
tiếng Cơ tu có nghĩa là “nhà, hộ”; Phản ánh các biến cố, sự kiện

15
lịch sử đã xảy ra trên vùng đất chứa địa danh. Đồi A Bia
(Pangkong Abiah) được người Mỹ gọi là “Đồi thịt băm” (Hamburger
Hill) cũng do tính khốc liệt của chiến tranh chống Mỹ 1969; Phản
ánh những thay đổi về địa giới hành chính trên địa bàn. Chẳng
hạn, thôn Rung Gênh được ghép từ hai thôn: vil Tu Krung và vil
Geenh;
3.4.3.3. Sự phản ánh phương diện văn hoá - tộc người của chủ thể
định danh. Phương diện này thể hiện qua các địa danh đặt theo tên
nhân vật anh hùng, có công. Ví dụ: núi Quỳnh Trên (kooh Koonh
Trên - núi mang tên bí thư huyện A Lưới), ; theo tên dòng họ của
các tộc người. Ví dụ: thôn Kê (veel Kê thôn, làng mang tên dòng họ
kiêng con sóc),… hoặc phản ánh các đặc điểm tâm lí tộc người. Ví
dụ: thôn Tân Hối (veel Tanghooiq (thôn có nhiều người uyên bác,
thông minh),…
3.4.3.4. Sự phản ánh các phương diện xã hội - ngôn ngữ học: Đó
có thể là ngữ liệu về từ vựng phương ngữ, thổ ngữ như các nhóm
từ vựng cơ bản trong các ngôn ngữ Katuic liên quan đến địa danh.
Nhóm từ vựng chỉ núi non [ví dụ: núi (kooh, kakoong, koóh), đồi
(bôl, pakkong, pangkong), động (gơớp, akúp)]…; nhóm từ vựng có
quan hệ cội nguồn giữa các ngôn ngữ trong nhóm Katuic. Ví dụ:
toóm (T) - tơớm (K), dak (T) - daq (P), kooh (T) - koóh (P), kilâng
(K) - kallâng (T), pangkong (P) - pakong (T),… Đó có thể là quá
trình biến đổi, tiếp xúc, vay mượn ngôn ngữ. Ví dụ: Aso (gốc
DTTS) được người Pháp ghi Ashau (Pháp hóa), người Việt ghi dưới
dạng Quốc ngữ hóa thành A Sầu (Việt hóa). Có thể nói rằng, địa
danh chính là các vật dẫn văn hóa - ngôn ngữ góp thêm vào kho
ngữ liệu của ngôn ngữ học.
4.5. TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Về mặt định danh, địa danh gốc DTTS chủ yếu được định

danh bằng phương thức tự tạo, dựa trên những cơ sở định danh có
tính chất trực quan, dễ nhận biết. Về mặt ngữ nghĩa, thường được
16
quy về 3 loại ý nghĩa sau: ý nghĩa từ vựng - mô tả, ý nghĩa ngữ pháp
và ý nghĩa liên tưởng (ý nghĩa ngữ dụng). Bất cứ địa danh có nghĩa
nào cũng có ý nghĩa mô tả (ý nghĩa từ vựng) và nghĩa ngữ pháp
(từ loại), nhưng không phải địa danh nào cũng có ý nghĩa liên
tưởng, ý nghĩa ngữ dụng. Về mặt văn hóa, có thể dùng lời nhận xét
sau đây của nhà địa danh học Natafli Kadmon: “tên gọi địa lí là một
hiện tượng văn hóa” (the geographical name as a cultural
phenomenon). Các địa danh gốc ngôn ngữ DTTS không chỉ phản ánh
các giá trị về địa lí, lịch sử mà còn phản ánh đặc điểm tâm lí tộc
người, giá trị ngôn ngữ học, được thể hiện trên các phương diện: chủ
thể văn hóa, không gian văn hóa và tiến trình văn hóa của các DTTS
sống trên khu vực Tây Thừa Thiên Huế.
Chương 4
VẤN ĐỀ CHUẨN HÓA CHÍNH TẢ ĐỊA DANH
GỐC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ
TRONG TIẾNG VIỆT
4.1. DẪN NHẬP
Thực trạng cách ghi/viết các địa danh gốc DTTS trong tiếng
Việt đang có nhiều vấn đề đáng lo ngại, cần một giải pháp thống nhất
trong vấn đề chuẩn hóa cách viết địa danh.
Kết quả nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo, phương thức định
danh, đặc điểm ngữ nghĩa và văn hóa của địa danh gốc DTTS ở Tây
Thừa Thiên trong chương 2 và chương 3 là tiền đề cho việc phiên
chuyển địa danh gốc DTTS trong chương 4.
4.2. THỰC TRẠNG CÁCH VIẾT ĐỊA DANH GỐC DÂN TỘC THIỂU
SỐ Ở TÂY THỪA THIÊN HUẾ TRONG TIẾNG VIỆT
Các cách viết khác nhau của một địa danh được chúng tôi

đặc biệt lưu ý để chỉ ra thực trạng cách viết địa danh gốc DTTS thiếu
nhất quán hiện nay. Sự không thống nhất này đã được luận án thể
thiện chi tiết trong chương 4. Có thể đi đến nhận xét về nguyên nhân
17
trên như sau: Thứ nhất, do năng lực thẩm âm ngôn ngữ DTTS khi
phiên âm; Thứ hai, do tôn trọng chữ viết của các DTTS; Thứ ba, do
tác động của chính tả chữ Quốc ngữ; Thứ tư, do tác động của các
phương thức xử lí.
Thực trạng cách viết không thống nhất địa danh gốc DTTS ở
Tây Thừa Thiên Huế trong tiếng Việt (văn bản hành chính, bản đồ
các loại) có thể được minh họa qua bảng tổng hợp sau đây:
Bảng 4.1: Thực trạng cách viết địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên
Huế
Thực trạng viết địa danh gốc DTTS
Ví dụ minh họa
Địa danh gốc
DTTS
Cách viết trong
tiếng Việt
Phiên
âm
không
thống
nhất
- Cách viết
từ ngữ âm
không
thống nhất
Viết rời âm
tiết

- (kakoong)
Talu
- (veel) Atia
- (núi) Ta-lu,
Ta-Lu
- (làng) A Tia
Viết liền âm
tiết
- (veel) Abung
- (dak) Asap
- (làng) Abung
- (sông) Asáp
- Cách ghi
phụ âm
không
thống nhất
Ghi âm và
tổ hợp âm
đầu
- (ahơar) Krul
- (dak) Kluông
- (khe) Krul
Ca run
- (sông) Kà Luông
Ghi âm và
tổ hợp âm
cuối
- (veel) Taviar
- (kooh) Abiah
(làng) Ta Vi,

Ta-viar
-(núi) A-bia,
Abiah
- Cách ghi nguyên âm
không thống nhất
- (bôl) Rập
-(kooh) Anoong
- (đồi) Rập, Rạp
- (núi) A Nông
A Nong
A Noong
Chuyển tự
không
thống nhất
- Chuyển hoàn toàn chữ
DTTS sang tiếng Việt
- (kooh) Mpao
- (toóm) Ta-ăi
-(núi) Mpao
-(suối) Ta-ăi
- Chuyển một phần chữ
DTTS sang chữ Quốc
-(pakkong)
Prok
-(đồi) Pơ Rok
- (làng) Aroh
18
ngữ - (veel) Aróh
Phiên âm kết hợp với chuyển dịch
trùng lặp về nghĩa

- (kooh) Kava
- (bôl) Dhrui
- (núi) Cô Ca Va
- (đồi) Bôn Dơ Rui
4.3. CÁCH PHIÊN CHUYỂN ĐỊA DANH GỐC DTTS SANG TIẾNG
VIỆT
4.3.1. Một số đặc điểm ngữ âm - chữ viết các DTTS ở Thừa Thiên
Huế (so sánh với tiếng Việt và chữ Quốc ngữ): luận án chỉ ra sự
tương đồng và khác biệt giữa các ngôn ngữ DTTS với tiếng Việt
dùng trong phiên chuyển địa danh.
4.3.2. Cách phiên chuyển địa danh gốc DTTS sang tiếng Việt
4.3.2.1. Một số nguyên tắc khi phiên chuyển
- Cố gắng bám sát cách ghi của chữ Quốc ngữ:
- Cố gắng bám sát cách đọc và cách ghi của nguyên ngữ.
4.3.2.2. Những giải pháp cụ thể
a) Cách ghi âm tiết trong từ ngữ âm Một từ ngữ âm trong ngôn ngữ
DTTS (gồm tiền âm tiết và âm tiết chính) phải được viết rời từng âm
tiết, viết hoa chữ cái đầu từ, giữa các âm tiết có dấu gạch nối, có hoặc
không có dấu thanh. Ví dụ: (dak) Asap - (sông) A-sap, (veel) Abung -
(thôn) A-bung, (kakoong) Atin - (núi) A-tin…
b) Cách ghi âm đầu của âm tiết: Những âm đầu trong các ngôn ngữ
DTTS có cách đọc và cách viết giống với các âm đầu trong tiếng Việt
và chữ Quốc ngữ thì giữ nguyên khi phiên chuyển địa danh, còn
những âm đầu được đọc và ghi khác với cách đọc và cách ghi của
tiếng Việt và chữ Quốc ngữ. Ví dụ. Ví dụ: (karung) Joóng - (sông)
Giong, (tơớm) Yong - (khe) Dong; (daq) Pling - (sông) Bơ-ling,
(kakoong) Bôl Dhrui - (núi) Bôn Đơ-rui, (vil) Ngrang - (thôn) Ần-
rang, …
c) Cách ghi nguyên âm của âm tiết: Đối với các nguyên âm trong
ngôn ngữ DTTS tương ứng với các nguyên âm trong tiếng Việt, cách

phiên chuyển là giữ nguyên cách viết các địa danh. Còn đối với các
nguyên âm và kí hiệu nguyên âm không tương ứng, chúng tôi đề nghị
19
nên đưa về các nguyên âm sẵn có trong tiếng Việt có sự gần gũi về
cấu âm - âm vị học với nguyên ngữ. Ví dụ: (kooh) Atúng - (núi) A-
tung, (dak) Tarreenh - (sông) Ta-renh, … Những cách ghi địa danh
trên bản đồ như: oô, ôo, eu, ou, au của người Pháp phải được phiên
chuyển sang chữ Quốc ngữ: (kakoong) Talou - (núi) Ta-lu; (bôl)
Ashau - (đồi) A-so, Talouse - (núi) Ta-lu,…
d) Cách ghi âm cuối của âm tiết : Các phụ âm cuối của ngôn ngữ
DTTS chỉ được phiên chuyển thành 6 phụ âm cuối tiếng Việt được
thể hiện bằng các con chữ trong chữ Quốc ngữ sau đây: p, t, ch, c, m,
n, nh, ng. Ví dụ: (pakkong) Prok - (đồi) Bơ-roc, (pakkong) Krul -
(đồi) Cơ-run, (kooh) Taviar - (núi) Ta-via, (kooh) Ahar - (núi) A-ha,
… Những tên gọi hành chính đã có từ lâu đời, nên bảo lưu cách gọi
cũ mà không phiên chuyển như A Lưới, Nam Đông,…
4.4. TIỂU KẾT CHƯƠNG 4: Địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ DTTS
ở nước ta được sử dụng trong tiếng Việt với nhiều cách ghi khác
nhau, tồn tại nhiều biến thể khác nhau của cùng một địa danh. Điều
này đặt ra cho người nghiên cứu cần thiết phải chuẩn hóa chính tả địa
danh gốc DTTS trong văn bản tiếng Việt, trường hợp địa danh gốc
DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế cũng không phải là ngoại lệ. Luận án
chọn phương châm “Việt hóa” cách viết địa danh gốc DTTS trong
tiếng Việt.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ DTTS ở Tây
Thừa Thiên Huế, luận án đi đến những kết luận sau đây:
1. Về đặc điểm chung, Thừa Thiên Huế là tỉnh đa dân tộc, đa
ngôn ngữ. Trong đó, các DTTS nói ngôn ngữ nhóm Katuic, chi Môn-
Khmer, ngữ hệ Nam Á là cư dân bản địa, sống lâu đời. Các ngôn ngữ

DTTS ở đây đều là những ngôn ngữ đơn lập, thuộc tiểu loại hình cổ,
cận âm tiết tính, không có thanh điệu, chúng còn bảo lưu phương
thức phụ tố phái sinh từ và từ ngữ âm học thường đa tiết, đặc biệt
song tiết. Chúng vừa mang những đặc điểm chung có ở các ngôn ngữ
20
Môn - Khmer, vừa mang những đặc điểm khác biệt với ngôn ngữ đơn
lập điển hình như tiếng Việt.
Khảo sát, thống kê và phân loại địa danh gốc DTTS, luận án
đã cung cấp các thông tin về mặt nguồn gốc ngôn ngữ, đặc điểm cấu
tạo, phương thức định danh gắn với từng lí do đặt tên, chỉ ra các nét
văn hóa đặc trưng ký thác sau mỗi địa danh gốc DTTS ở miền núi
Thừa Thiên Huế, qua đó, đặt ra vấn đề chuẩn hóa chính tả địa danh
gốc DTTS trong văn bản tiếng Việt hiện nay.
2. Về đặc điểm cấu trúc, mô hình phức thể địa danh gốc DTTS
gồm hai yếu tố: YTTL và YTLB. Số lượng yếu tố cấu tạo nên YTTL
lẫn YTLB đều có độ dài tối đa là 4 âm tiết. Mỗi yếu tố mang những
đặc điểm cấu tạo riêng, làm nên cấu trúc phức thể định danh gắn kết
chặt chẽ về mặt cấu trúc.
Đối với địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế, các YTTL
có số lượng không nhiều nhưng lại đa dạng về nguồn gốc ngôn ngữ.
Khả năng tham gia, kết hợp và sự phân bố của chúng với các YTLB
không như nhau. Trong YTTL, có những yếu tố nằm trong vốn từ
chung có trong các ngôn ngữ cùng nhóm Katuic [ví dụ: dak (T: sông)
- daq (P: sông); kooh (T: núi) - koóh (P: núi)]; có những yếu tố được
chuyển hóa thành YTLB, đảm nhận chức năng định vị, cá thể hóa đối
tượng như YTLB [ví du: thôn Tu Krung (vil Tu Krung - thôn nằm
đầu ngọn sông)].
Từ góc độ cấu trúc, YTLB được phân thành YTLB đơn (đơn
tiết hoặc đa tiết) và YTLB phức. Các YTLB đơn trong địa danh gốc
DTTS chủ yếu được cấu tạo bằng những từ đơn đa tiết, đặc biệt từ

đơn song tiết, phản ánh rõ đặc điểm loại hình của ngôn ngữ tạo địa
danh. Chúng là những ngôn ngữ vẫn còn phương thức phụ tố phái
sinh từ và số lượng từ đa tiết chiếm tỉ lệ cao [ví dụ: sông Tà Hàm
(taham = ta (tiền tố: làm cho) + aham (căn tố: máu): làm cho chảy
máu]. Các YTLB phức trong địa danh gốc DTTS không tạo nên
những mô hình có tính chất điển hình, rập khuôn như trong địa danh
21
thuần Việt và Hán Việt, nhưng những cấu trúc như Tu + X, Koonh +
X, Kăn + X lại tạo nên nét đặc trưng riêng biệt của địa danh gốc
DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế. Quan hệ ngữ pháp trong YTLB phức
chủ yếu là quan hệ chính phụ. Quan hệ đẳng lập chiếm tỉ lệ khiêm
tốn, chủ yếu được ghép từ hai địa danh sẵn có để hình thành địa danh
mới.
3. Về mặt định danh, địa danh gốc DTTS sử dụng phương thức
định danh tự tạo và phương thức chuyển hóa, trong đó, phương thức
tự tạo là chủ yếu, dựa trên những cơ sở định danh khác nhau (về màu
sắc, động thực vật, hình dáng, kích thước, cấu trúc, các sự kiện, sự
vật liên quan đến đối tượng,…). Xét về kiểu ngữ nghĩa của định
danh, có hai kiểu định danh thường gặp trong địa danh gốc DTTS:
định danh theo lối trực tiếp và định danh theo lối gián tiếp, trong đó,
định danh theo lối trực tiếp là phổ biến. Có thể nhận thấy, giữa địa
danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế với địa danh thuần Việt và
Hán Việt có những điểm khác biệt. Trong địa danh tiếng Việt, lối
định danh gián tiếp có tính chất ẩn dụ hóa, hoán dụ hóa thường chiếm
tỉ lệ cao hơn rất nhiều so với lối định danh trực tiếp, nhất là địa danh
gốc Hán Việt; trong khi đó, đối với địa danh gốc DTTS, lối định
danh trực tiếp lại chiếm đa số. Điều này cho thấy địa danh tiếng Việt,
nhất là địa danh Hán Việt, có xu hướng lựa chọn các từ ngữ có ý
nghĩa tốt đẹp, mỹ tự, trừu tượng để định danh; còn địa danh gốc
DTTS lại thiên về sử dụng các từ ngữ có ý nghĩa trung hòa, mộc mạc,

dễ hiểu đối với người bản ngữ để định danh. Điều này phản ánh lối tư
duy của mỗi tộc người khác nhau là khác nhau.
4. Về đặc điểm ngữ nghĩa, mỗi địa danh thường mang một ý
nghĩa nhất định và thường được quy về 3 loại ý nghĩa sau: ý nghĩa từ
vựng - mô tả, ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa liên tưởng. Bất cứ địa
danh có nghĩa nào cũng có ý nghĩa từ vựng -mô tả và ý nghĩa ngữ
pháp, nhưng không phải địa danh nào cũng có ý nghĩa liên tưởng.
Địa danh gốc DTTS ở đây thường rõ ràng về nghĩa đối với người bản
22
địa biết tiếng DTTS, nhưng lại trở nên vô nghĩa, không rõ ràng về
nghĩa với đa số những người không biết và không hiểu ngôn ngữ
DTTS khi chúng được dùng trong văn bản tiếng Việt đã được Quốc
ngữ hóa. Mỗi địa danh ra đời đều có tính lí do, đó có thể là lí do
khách quan dễ nhận biết, song cũng có thể là lí do chủ quan, liên
quan đến chủ thể định danh, khó nhận biết. Điều này chỉ ra
rằng những địa danh có ý nghĩa rõ ràng thường là những địa danh mà
các lí do định danh cũng được tìm ra dễ dàng; còn những địa danh
không rõ ràng về nghĩa thì việc chỉ ra lí do định danh của những địa
danh ấy cũng thường không dễ dàng, khó giải thích.
5. Về đặc trưng văn hóa, từ cách tiếp cận liên ngành, luận án
đi vào tìm hiểu những tầng văn hoá ẩn sâu đằng sau địa danh gốc
DTTS qua các thời kỳ khác nhau của vùng đất, được thể hiện trên
mấy khía cạnh sau:
- Địa danh gốc DTTS phản ánh sự hội nhập, đan xen ngôn
ngữ - văn hoá của những lớp cư dân có nguồn gốc khác nhau sinh
sống trên địa bàn. Những sự giao thoa, tiếp xúc và vay mượn ngôn
ngữ - văn hoá giữa dân tộc Kinh (Việt) với các DTTS qua địa danh
trở thành những vật dẫn văn hoá, ký thác nhiều giá trị lịch sử quan
trọng cũng như đặc điểm tâm lí tộc người của các chủ thể định danh.
- Địa danh không chỉ là một hiện tượng ngôn ngữ mà còn là

một hiện tượng văn hoá, một phạm trù lịch sử. Nghiên cứu các
phương diện văn hoá của địa danh gốc DTTS, chúng ta có thể biết
được đặc điểm địa lí tự nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của
vùng đất chứa địa danh, ghi dấu những sự kiện quan trọng đã xảy ra
trên địa bàn của cư dân Thuận Hoá - Phú Xuân với hơn 700 năm hình
thành và phát triển. Những thay đổi về dân cư và địa lí từng là vùng
đất “phên dậu”, “biên viễn xa xôi”, “Ô châu ác địa” này được bảo lưu
và ghi dấu trong các địa danh. Đặc biệt, đặc điểm địa hình, địa vật,
những dấu ấn văn hóa các cư dân Môn - Khmer bản địa được kí thác
qua các địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế một cách rõ nét.
23
Như vậy, đặc trưng văn hóa của địa danh có nguồn gốc
DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế thể hiện qua ý nghĩa và giá trị phản
ánh hiện thực của địa danh. Các địa danh gốc DTTS không chỉ phản
ánh các giá trị về địa lí, lịch sử mà còn cung cấp các đặc điểm văn
hóa - tâm lí tộc người, giá trị ngôn ngữ học, tạo nên những bức khảm
văn hóa các DTTS qua địa danh.
6. Vấn đề chuẩn hóa cách viết địa danh gốc DTTS trong văn
bản tiếng Việt đang là vấn đề cấp thiết và mang tính thực tiễn cao.
Cho đến nay, nhiều văn bản có tính pháp quy về quy đinh cách viết
tên riêng DTTS trong tiếng Việt đã được ban hành. Nhưng có thể
nhận thấy, ở từng thời điểm khác nhau, chúng ta nhận được những đề
xuất và những giải pháp phiên chuyển, chuẩn hóa không giống nhau,
tạo nên sự không thống nhất về cách viết tên riêng DTTS trong văn
bản tiếng Việt. Do vậy, việc đề xuất một nguyên tắc phiên chuyển địa
danh gốc DTTS sang tiếng Việt không phải dễ gì để có được một ý
kiến thống nhất. Trước vấn đề này, việc lựa chọn phương thức phiên
chuyển địa danh gốc DTTS trong luận án chỉ mang tính giải pháp,
bởi lẽ, đó chỉ là sự lựa chọn một giải pháp trong rất nhiều sự lựa chọn
khác, góp phần chuẩn hóa chính tả địa danh gốc DTTS trước thực

trạng cách viết địa danh vẫn còn thiếu thống nhất và tùy tiện như hiện
nay. Với phương châm “Việt hóa” cách viết địa danh gốc DTTS
trong tiếng Việt, luận án đề xuất phương thức xử lí dựa trên nguyên
tắc: vừa cố gắng bám sát cách ghi của chữ Quốc ngữ, vừa cố gắng
bám sát cách đọc, cách ghi của nguyên ngữ. Theo đó, việc phiên
chuyển địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế sang tiếng Việt
thực hiện theo các giải pháp sau:
- Đối với từ ngữ âm học, đề nghị viết rời từng âm tiết, viết
hoa chữ cái đầu từ, giữa các âm tiết có dấu gạch nối, có hoặc không
có dấu thanh.
- Các phụ âm, nguyên âm (đầu và cuối) trong ngôn ngữ
DTTS không có hoặc không tương ứng trong tiếng Việt đều được ghi
24
bằng các con chữ tương ứng có sẵn trong chữ Quốc ngữ hoặc lựa
chọn các con chữ phản ánh gần đúng cách đọc, cách viết của nguyên
ngữ để thay thế.
- Tất cả các tổ hợp phụ âm đầu âm tiết trong ngôn ngữ DTTS
đều phải được âm tiết hoá khi đi vào tiếng Việt.
Vấn đề chuẩn hóa địa danh nói chung, chuẩn hóa chính tả địa
danh gốc DTTS trong tiếng Việt nói riêng không chỉ là câu chuyện
của ngôn ngữ học mà còn là câu chuyện của văn hóa, thậm chí là vấn
đề liên quan đến chính trị có tính quốc gia và quốc tế. Trong phạm vi
của đề tài, chúng tôi chỉ đặt vấn đề chuẩn hóa chính tả địa danh gốc
DTTS ở phạm vi chuẩn hóa quốc gia, chuẩn hóa chính tả địa danh
trong vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt, theo nguyên tắc của chính tả tiếng
Việt.
7. Lựa chọn nghiên cứu địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ
DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế là một hướng nghiên cứu mới mẻ,
chưa có một công trình nào đề cập đến một cách hệ thống. Đây cũng
là một điểm vừa thuận lợi vừa khó khăn đối với chúng tôi, nhất là hệ

thống địa danh gốc DTTS ở Thừa Thiên Huế chủ yếu tồn tại trong
đời sống giao tiếp hàng ngày, hoặc được Quốc ngữ hóa trên các bản
đồ và văn bản một cách tùy tiện và thiếu nhất quán, rất khó nhận diện
và tìm ra nguồn gốc ban đầu của chúng. Hướng nghiên cứu của luận
án, do vậy, có thể đưa lại nhiều ứng dụng thực tiễn trong cuộc sống.
Kết quả nghiên cứu của luận án mở ra hướng nghiên cứu sâu rộng
hơn mà đề tài chưa có dịp đề cập như: lập từ điển từ nguyên địa danh
gốc ngôn ngữ DTTS trong tiếng Việt, vấn đề chuẩn hóa cách ghi địa
danh DTTS trên bản đồ, nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa của
định danh trong các ngôn ngữ DTTS trong sự so sánh với tiếng Việt.

×