Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Đầu tư phát triển du lịch Bình Định liên kết với vùng Duyên hải miền Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.6 KB, 81 trang )

z
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA KINH TẾ & KẾ TOÁN

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BÌNH ĐỊNH
LIÊN KẾT VỚI VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Duy Thục
GV. Đào Quyết Thắng
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Ngọc Hà
Lớp : Kinh tế Kế hoạch & Đầu tư -K31
Quy Nhơn, 03/2012
Quy Nhơn, 03/2012
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ Viết Tắt Nguyên chữ
QH-KHTH Quy hoạch kế hoạch tổng hợp
KH–ĐT Kế hoạch đầu tư
GDP Tổng sản phẩm quốc dân
ODA Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
PTDL Phát triển du lịch
SOFOFA Hiệp hội sản xuất công nghiệp
UNWTO Tổ chức Du lịch Thế giới
CSHT Cơ sở hạ tầng
VKTTĐMT Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
VH,TT&DL Văn hóa, thể thao và Du lịch
UBND Uỷ ban nhân dân
KT-XH Kinh tế xã hội
CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân


DN Doanh nghiệp
KDDL Kinh doanh du lịch
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành du lịch cả nước, du
lịch Bình Định đã có những bước tiến đáng kể. Từ một vùng đất ven biển còn
hoang sơ trước đây, đến nay Bình Định đang được biết đến như một địa điểm
du lịch có sức hấp dẫn trong nước, có sức thu hút mạnh mẽ du khách trong
nước và quốc tế. Việc phát triển du lịch địa phương đã được chính quyền các
cấp và các nhà đầu tư quan tâm thúc đẩy. Cùng với nhiều dự án được đăng ký
và triển khai, lượng vốn đầu tư vào ngành du lịch Bình Định ngày càng tăng
đã tạo nên sự phát triển nhanh chóng các cơ sở hoạt động du lịch của tỉnh nhà.
Thực hiện Nghị quyết số 39/NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị
về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng Duyên hải
Trung Bộ và Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về Phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Uỷ ban
nhân dân tỉnh Bình Định đã triển khai lập Quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh đến năm 2020, trong đó có bản “Quy hoạch tổng thể phát triển
Du lịch tỉnh Bình Định đến năm 2020” xác định quan điểm, mục tiêu, định
hướng phát triển và những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu đưa du
lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của địa phương và làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại, góp phần thực hiện chiến lược phát triển ngành.
Thời gian qua, mặc dù Bình Định đã đạt được những kết quả khả quan
trong việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển du lịch, thể hiện qua số lượng vốn
đầu tư tăng nhanh, các hoạt động xúc tiến đầu tư từng bước được đa dạng
hoá, thu hút nhiều thành phần tham gia đầu tư…Song những gì đã đạt được
chưa xứng với tiềm năng vốn có của tỉnh nhà. Từ đó, để đầu tư phát triển du
lịch Bình Định không những từ nỗ lực của tỉnh nhà thông qua các vốn đầu tư
mà còn phải biết kết hợp với sự phát triển du lịch của các tỉnh lân cận nằm

trong vùng Duyên hải miền Trung nhằm đem lại hiệu quả tối ưu cho hoạt
động đầu tư vào du lịch.
Với mong muốn được tìm hiểu rõ hơn về phát triển du lịch của tỉnh nhà
thông qua việc phân tích và đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất một số giải
pháp thúc đẩy đầu tư cho phát triển du lịch Bình Định trong thời gian tới,
cũng như phát triển du lịch của sự liên kết của vùng Duyên hải miền Trung
với Bình Định. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Đầu tư phát triển du lịch
Bình Định liên kết với vùng Duyên hải miền Trung” để viết bài Chuyên đề
thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích của đề tài là ứng dụng lý luận về đầu tư phát triển và thu hút
vốn để phân tích vai trò của các nguồn vốn trong quá trình phát triển du lịch
Bình Định cũng như các tỉnh vùng Duyên hải miền Trung trong thời gian qua,
đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc, từ đó xác
định những giải pháp và kiến nghị cần giải quyết.
Đối tượng nghiên cứu là cơ sở lý luận về đầu tư phát triển ngành du
lịch, phân tích đánh giá thực trạng đầu tư phát triển du lịch Bình Định với du
lịch của vùng Duyên hải miền Trung. Từ đó đề xuất một số giải pháp để phát
triển ngành du lịch.
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Bình Định và một số tỉnh
lân cận trong vùng Duyên hải miền Trung.
Phương pháp nghiên cứu là mô tả, thống kê, so sánh và phân tích, với
nguồn số liệu được thu thập từ niên giám thống kê, các báo cáo của các sở
ban ngành trong tỉnh và các số liệu được công bố trên các website.
Những kết quả nghiên cứu của chuyên đề sẽ góp phần nâng cao việc
thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch của Bình Định nói riêng và các tỉnh
vùng Duyên hải miền Trung, đưa ra một số giải pháp nhằm đưa du lịch thành
ngành kinh tế mũi nhọn của vùng cũng như của tỉnh nhà theo định hướng
chung của nước ta.
Nội dung bài Chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về đầu tư phát triển ngành du lịch

Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển du lịch Bình Định với vùng
Duyên hải miền Trung
Chương 3: Định hướng và giải pháp đầu tư phát triển du lịch Bình
Định gắn với vùng Duyên hải miền Trung trong những năm tới
Do thời gian thực tập còn hạn hẹp, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và
kỹ năng tích chưa sâu và kỹ năng bản thân còn yếu nên bài Chuyên đề không
tránh phải những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy TS. Nguyễn Duy Thục và thầy Đào Quyết Thắng để bài Chuyên đề thực
tập này được hoàn thiện tốt hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Nguyễn Duy Thục và
thầy Đào Quyết Thắng, chú Nguyễn Thanh Hải –Trưởng phòng QH –KHTH,
chú Huỳnh Cao Vân –Chuyên viên chính của Sở KH – ĐT tỉnh Bình Định và
các anh chị ở Sở đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành bài Chuyên đề thực
tập này.
Sinh viên thự hiện
Nguyễn Thị Ngọc Hà
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH
DU LỊCH
1.1 Ngành du lịch và vai trò của du lịch trong nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm về ngành du lịch
1.1.1.1 Khái niệm du lịch
Ngành du lịch hiện đại hình thành trong thế kỉ XIX cùng với sự phát
triển của nền văn minh công nghiệp, và từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã
trở thành một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng mạnh và chắc chắn
của kinh tế thế giới. Khái niệm về du lịch cũng có những thay đổi theo sự
phát triển của ngành. Nếu xem xét du lịch như là một hiện tượng xã hội, hiện
tượng nhân văn làm phong phú thêm nhận thức và cuộc sống con người, Tổ
chức thương mại thế giới WTO đã dưa ra định nghĩa: “Du lịch bao gồm
những hoạt động của những người đi đến một nơi khác ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình trong thời hạn không quá một năm liên tục để vui

chơi, vì công việc hay vì mục đích khác không liên quan đễn những hoạt động
kiếm tiền ở nơi mà họ đến”. Nếu xem du lịch không chỉ đơn thuần là hiện
tượng xã hội mà còn là hoạt động kinh tế, nó được coi là toàn bộ các hoạt
động mà mục tiêu là kết hợp hoạt động của các đối tượng tham gia vào quá
trình, kết hợp giá trị của các tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với
các dịch vụ, hàng hóa để tạo ra sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của khách.
Ngày nay, du lịch đã thực sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội
phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay không chỉ ở nước ta nhận thức
về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực)
khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau mỗi người có một cách
hiểu về du lịch khác nhau. Đúng như một chuyên gia du lịch nhận định: “Đối
với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Như vậy, có khá nhiều khái niệm Du lịch nhưng tổng hợp lại ta thấy du
lịch hàm chứa các yếu tố cơ bản sau:
- Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội.
- Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên
của các cá nhân hoặc tập thể nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của
họ.
- Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng
nhằm phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu
khác của cá nhân hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên
của họ.
- Các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời của cá nhân hoặc tập thể đó đều
đồng thời có một số mục đích nhất định, trong đó có mục đích hoà
bình.
1.1.1.2 Đặc điểm của ngành du lịch
Du lịch là ngành không khói, ít gây ô nhiễm môi trường, giúp khách du
lịch vừa được nghỉ ngơi, giảm strees vừa biết thêm nhiều điều hay mới lạ mà
khách chưa biết. Du lịch còn góp phần phát triển kinh tế của đất nước, tạo

việc làm và tăng thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ
liên quan ).
Đặc điểm của ngành dịch vụ gồm những điều sau đây:
- Không có giá trị xác định (ví dụ: với một sản phẩm bạn có thể quy
định rõ về chất lượng phải nhưng thế nào nhưng phục vụ phải dựa vào
đòi hỏi của từng khách hàng)
- Trao đổi giao dịch dựa rất nhiều vào nhu cầu của khách
- Không có vật liệu tồn kho (đa số)
- Đa số có tính cách trao đổi cá nhân
- Tiếp xúc trực tiếp với khách hàng chiếm tỉ lệ rất cao và tỉ lệ nhận
những đánh giá trực tiếp từ khách hàng cũng rất cao, từ đó đưa ra quyết
định thay đổi để phù hợp với đòi hỏi của khách.
- Không thể theo một cơ chế nhất định mà phải biết ứng biến tùy hoàn
cảnh.
- Đòi hỏi kiến thức của nhân viên cao hơn những ngành sản xuất.
- Thường là những cơ sở nhỏ để phục vụ đến tận nơi cho khách hàng và
thị trường được rộng hơn
Hiện nay ngành du lịch đang phát triển mạnh ở các nước thuộc thế giới
thứ ba. Nhu cầu về du lịch càng tăng thì vấn đề bảo vệ môi trường cần phải
được coi trọng. Ngoài ra còn có một dạng du lịch nữa, đó là du lịch xúc tiến
thương mại, vừa đi du lịch vừa kết hợp làm ăn.
1.1.2 Vai trò của ngành du lịch trong nền kinh tế
Dù ra đời từ năm 1960 nhưng du lịch Việt Nam chỉ thực sự phát triển,
đặc biệt trong khoảng 20 năm lại đây.
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng tương đối ổn định với
tốc độ trung bình ở mức tương đối cao (khoảng 20%), thị phần du lịch của
Việt Nam trong khu vực đã tăng từ 5% năm 1995 lên trên 8% năm 2005, thu
nhập từ ngành du lịch tăng lên nhiều lần. Đây là một thành công lớn góp phần
giúp du lịch trở thành một trong những ngành có đóng góp lớn vào GDP.
Hiệu quả chiều sâu về nhiều mặt của du lịch ngày càng rõ nét. ở đâu du

lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp
hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hoạt động du lịch đã thúc đẩy
các ngành khác phát triển, tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hoá và
dịch vụ; mỗi năm, hàng chục lễ hội truyền thống được khôi phục, tổ chức dần
đi vào nền nếp và lành mạnh, phát huy được thuần phong mỹ tục. Nhiều làng
nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển, tạo thêm các điểm
tham quan du lịch, sản xuất hàng lưu niệm, thủ công mỹ nghệ bán cho khách,
nhân dân có thêm việc làm và thu nhập; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và nhiều hộ dân ở không ít địa
phương đã giàu lên nhờ làm du lịch. Du lịch phát triển đã tạo thêm nguồn thu
để tôn tạo, trùng tu các di tích và nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư giữ gìn, phát
triển di sản văn hoá. Tuyên truyền, quảng bá du lịch ở nước ngoài và tại chỗ
trong nước đã truyền tải được giá trị văn hoá dân tộc đến bạn bè quốc tế,
khách du lịch và nhân dân.
Điều quan trọng hơn cả là du lịch đã góp phần phát triển yếu tố con
người trong công cuộc đổi mới. Hoạt động du lịch đã tạo ra trên 80 vạn việc
làm trực tiếp và gián tiếp cho các tầng lớp dân cư, góp phần nâng cao dân trí,
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; mở rộng giao lưu giữa các vùng,
miền trong nước và với nước ngoài; đã thực hiện tốt vai trò ngoại giao nhân
dân với chức năng “sứ giả’’ của hoà bình, góp phần hình thành, củng cố môi
trường cho nền kinh tế mở, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội và tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Du lịch Việt Nam đã vươn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập
du lịch quốc tế; thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch nhiều mặt với
các nước láng giềng, các nước trong khu vực và thế giới; ký 29 Hiệp định hợp
tác du lịch song phương với những nước là thị trường du lịch trọng điểm và
đầu mối giao lưu quốc tế và Hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; đã
có quan hệ bạn hàng với trên 1.000 hãng, trong đó có nhiều hãng lớn, của hơn
60 nước và vùng lãnh thổ. Du lịch nước ta là thành viên của Tổ chức Du lịch

thế giới, của Hiệp hội Du lịch Châu á-Thái Bình Dương, của Hiệp hội Du lịch
Đông Nam á và phát huy được vai trò, khai thác tốt quyền lợi hội viên. Tham
gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và
thế giới. Nhờ thế đã tranh thủ được vốn, kinh nghiệm, công nghệ, nguồn
khách để phát triển, chủ động gắn kết với du lịch khu vực và thế giới. Tính
chủ động hội nhập cũng được thể hiện rõ trong việc thực hiện chủ trương dựa
vào lợi thế so sánh (như văn hoá, ẩm thực, nguyên liệu, lao động rẻ ) đầu tư
ra nước ngoài, chủ yếu là kinh doanh ăn uống ở các nước láng giềng, Nhật
Bản, Đức và Hoa Kỳ.
Từ chỗ chỉ đón khoảng 250.000 lượt khách quốc tế vào năm 1990, đến
năm 2009, cả nước đón 3,8 triệu lượt khách quốc tế, 25 triệu lượt khách nội
địa với thu nhập từ du lịch đạt khoảng 70 nghìn tỷ đồng, thu hút khoảng 8,8 tỷ
USD, chiếm 41% tổng số vốn đăng ký FDI vào Việt Nam.Hiện du lịch đóng
góp khoảng 5% GDP của quốc gia. Từ năm 1991 đến năm 2009, lao động
trực tiếp trong lĩnh vực du lịch tăng gần 20 lần, từ 21.000 người lên 370.000
người và lao động gián tiếp khoảng trên 700.000 người…
Trong thời gian tới, du lịch phát triển theo hướng hiện đại, chất lượng,
có trọng tâm trọng điểm, xây dựng thương hiệu mạnh; đồng thời khai thác
hợp lý nguồn lực, bảo vệ môi trường gắn khai thác các giá trị văn hoá dân tộc;
phát triển du lịch cộng đồng xoá đói giảm nghèo. Đến năm 2020, Việt Nam
thu hút khoảng 12 triệu lượt khách quốc tế và 45 triệu lượt khách nội địa; đưa
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
1.2 Đặc điểm và nội dung đầu tư phát triển
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm đầu tư phát triển
1.2.1.1 Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc sử dụng vốn
trong hiện tại vào các hoạt động nào đó, là việc đánh đổi lợi ích trước mắt lấy
lợi ích lâu dài nhằm tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, tạo thêm
việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp,

nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn
lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài
nguyên. Như vậy, khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả
hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư
bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm
phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo
ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối
tượng đầu tư chia làm hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và
công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng
đầu tư chia thành: loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến
khích đầu tư và loại cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản, đối tượng đầu tư chia
thành: những tài sản vật chất (tài sản thực) và tài sản vô hình. Tài sản vật
chất, ở đây, là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động. Tài sản vô hình như phát
minh sáng chế, uy tín, thương hiệu…
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà
xưởng, thiết bị…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học, kỹ
thuật…) và tài sản vô hình (những phát minh sáng chế, bản quyền…). Các kết
quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã
hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả
kinh tế xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu
quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và xã
hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động
sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra giám sát của cơ quan quản
lý Nhà nước các cấp. Thực tế, có những khoản đầu tư tuy không trực tiếp tạo
ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh như
đầu tư cho y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo… nhưng lại rất quan trọng để
nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó, cũng được
xem là đầu tư phát triển.

Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích
quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư Nhà nước nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và
nâng cao đời sống cho các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp
nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất
lượng nguồn nhân lực…
1.2.1.2 Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau :
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư
thường rất lớn. Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư. Quy mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn
và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch
đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến
độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm.
- Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và
đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất
nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến
mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra
như việc bố trí lao động, giải quyết lao động dôi dư…
- Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện
dự án đén khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình
đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn
nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các
nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình,
quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu
vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian này tính từ
khi dưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn hoạt động và

đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy kết quả lâu dài, có
thể tồn tại vĩnh viễn như các Kim tự tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở
Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, ĂngCoVát ở Cam-pu-
chia… Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác
động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính
trị, kinh tế, xã hội…
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây
dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do
đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả
đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội
vùng.
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ
đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…
nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro
đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó, có nguyên nhân chủ quan từ
phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt
yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá
bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…
1.2.2 Nội dung của hoạt động đầu tư phát triển
Nội dung đầu tư phát triển ở phạm vi doanh nghiệp và phạm vi nền
kinh tế có thể khác nhau. Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư phát triển phải làm
gia tăng tài sản cho nền kinh tế chứ không phải là hiện tượng chu chuyển tài
sản giữa các đơn vị. Ví dụ, việc mua bán tài sản cố định giữa các đơn vị, vẫn
được xem là hoạt động đầu tư của các đơn vị này, nhưng trên phương diện
nền kinh tế, không có đầu tư tăng thêm mà chỉ chuyển quyền sở hữu từ đơn vị
này sang đơn vị khác.
Thứ nhất: Trên giác độ của nền kinh tế đất nước:
- Đầu tư tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu. Trong ngắn
hạn, đầu tư tác động đến tổng cầu khi tổng cung chưa kịp thay đổi. Khi
đầu tư tăng làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng tăng và

giá cả của các yếu tố đầu vào cũng tăng theo. Khi thành quả của đầu tư
chưa phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng
cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng thêm, kéo theo sản lượng tiềm
năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm
cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất hơn
nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển
kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống
của mọi thành viên trong xã hội.
- Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế. Sự tác động
không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với
tổng cung của nề kinh tế làm cho môĩ sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng
hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu
tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn khi
tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả các hàng hoá
có liên quan tăng (giá chi phí vốn, gía công nghệ, lao động, vật tư) đến
một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Lạm phát làm cho sản
xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền
lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm
lại. Mặt khác khi tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng,
sản xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình
trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã
hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện phát triển nền kinh tế. Khi
tăng đầu tư cũng dẫn đến các tác động hai mặt nhưng theo chiều hướng
với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành kinh tế vĩ mô nền
kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết các tác động hai mặt
này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy
được các tác động tốt, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
- Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: Kết quả
nghiên cứu của các nhà đầu tư cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở
mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15 – 25 % so với GDP tuỳ

thuộc vào ICOR của mỗi nước.Mức tăng trưởng GDP = Vốn đầu tư
/ICOR. Nếu ICOR không đổi mức tăng trưởng hoàn toàn phụ thuộc vào
mức đầu tư. Tại các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 – 7 do thừa
vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế lao động và sử
dụng nhiều công nghệ có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển
ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu vốn thừa lao động, sử dụng nhiều lao động
để thay thế vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR
của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát
triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm của các
nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và
hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùnh lãnh thổ cũng như phụ thuộc
vào hiệu quả của các chính sách kinh tế nói chung. Đối với các nước
đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các
nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc nội dự
kiến. Tại nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một cái huých ban đầu,
tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế (các nước NICS, các nước Đông
Nam Á).
- Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kinh nghiệm của các nước
trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh
tốc độ mong muốn (từ 9% – 10%) là tăng cường đầu tư tạo ra sự phát
triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông-
ngư nghiệp do có hạn chế về đất đai và khả năng sinh học , để đạt được
tốc độ tăng trưởng từ 5% – 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu
tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm
đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế đất nước.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết các mất cân đối về
phát triển giữa các vùng và lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát
khỏi đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế,
kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn,
làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển.

- Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện
tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất
nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ
công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu
vực. Việt Nam là một trong số 90 nước kém nhất về công nghệ. Với
trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một
chiến lược đầu tư phát triển về công nghệ lâu dài, nhanh chóng và vững
chắc. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu và
phát minh ra cônh nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên
cứu hay nhập công nghệ từ nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần có
vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn
vốn đầu tư đều là những phương án không khả thi.
Thứ hai: Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
- Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng
hạn để tạo dựng một cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ
sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và
lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng
cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong
một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động
này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh
dịch vụ đang tồn tại: Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ
thuật của các cơ sở này bị hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được hoạt
động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới
các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để
thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ
thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các
trang thiết bị mới thay thế trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là
phải đầu tư.

- Đối với các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại, để duy trì hoạt động, ngoài tiến
hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực
hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động này đều là
những hoạt động đầu tư.
- Nguồn vốn đầu tư phát triển: gồm có nguồn vốn trong nước và nguồn
vốn nước ngoài
+ Nguồn vốn trong nước: Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, các
cơ sở hoạt động xã hội phúc lợi công cộng vốn đầu tư do ngân sách cấp
(tích luỹ qua ngân sách và viện trợ qua ngân sách) vốn viện trợ không
hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở ( bản chất cũng tích
luỹ từ phần tiền thưà do dân đóng góp không dùng đến).Đối với doanh
nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn hơn
bao gồm vốn ngân sách (lấy từ phần tích luỹ của ngân sách, vốn khấu
hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách), vốn tự có của doanh nghiệp,
vốn vay, vốn phát hành trái phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các
tổ chức trong và ngoài nước và các hình thức huy động vốn khác quy
định theo điều 11 nghị định 56/CP ngày 3/10/1996. Đối với các doanh
nghiệp ngoaì quốc doanh vốn đầu tư bao gồm vốn tự có, vốn vay, vốn
cổ phần, vốn liên doanh liên kết với các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, ngoài các nguồn vốn trên đây
còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu.
+ Vốn huy động của nước ngoài: bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn
đầu tư trực tiếp
• Vốn đầu tư gián tiếp: là vốn của Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các
tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau
là viện trợ hoàn lại và viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với
thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay dưới hình thức thông thường.
Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình
ODA – viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát
triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn cho nên có tác dụng mạnh và

nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh
tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên tiếp nhận vốn đầu tư
gián tiếp thường gắn với sự trả giá về chính trị và tình trạng nợ nần
chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả vốn vay và thực hiện
nghiêm ngặt chế độ trả vốn vay. Các nước Đông Nam Á và NICS
Đông Á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngắn hạn rất hạn
chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp,
việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian hoạt động đủ để thu hồi
vốn.
• Vốn đầu tư trực tiếp: là vốn của các doanh nghiệp và cánh ân nước
ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia
quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. Vốn này thường
không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của
nước nhận đầu tư. Tuy nhiên với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận
đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ
(do người đầu tư đem vào góp vốn và sử dụng) trong đó có cả công
nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương vì lý do cạnh trang
hay cấm vận các nước nhận đầu tư; học tập được kinh nghiệm quản
lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián
tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới
biết đến thông qua quan hệ làm ăn với các nhà đầu tư. Nước nhận
đầu tư phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư
theo mức độ góp vốn của họ.
1.3 Nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch
Từ khi ngành du lịch ra đời và bắt đầu phát triển đến nay thì nguồn vốn
đầu tư vào các địa điểm du lịch cũng như các cơ sở hạ tầng phục vụ cho
ngành này bao gồm từ nhiều nguồn khác nhau, từ nguồn vốn nươc ngoài, từ
ngân sách nhà nước hay các doanh nghiệp tổ chức cá nhân trong và ngoài
nước với nhiều hình thức đầu tư khác nhau.
Khai sơ để hình thành nên khu du lịch Nhà nước ta đã đầu tư vào xây

dựng cơ sở hạ tầng cơ bản chẳng hạn như xây dựng đường sá thuận lợi để từ
đó thu hút các nhà đầu tư vào nhằm phát triển hơn. Từ năm 2001 đến nay,
Chính phủ đã cấp 4.836 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch ở các khu du
lịch trọng điểm tại các địa phương. Các thành phần kinh tế đầu tư hàng nghìn
tỷ đồng cho cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Nguồn vốn FDI đầu tư vào các khu du lịch có tiềm năng và mang lại
hiệu quả kinh tế cao như vào 2009 có Dự án đầu tư xây dựng vườn bách thú
hoang dã Safari và khu nghĩ dưỡng Bình Châu với tổng vốn đầu tư là 500
triệu USD (vốn điều lệ 75 triệu USD), hay vào năm 2010 có Khu du lịch Nam
Hội An với tổng số vốn đầu tư là 4 tỷ USD (vốn điều lệ 800 triệu USD)…
Về xây dựng cơ sở vật chất và đa dạng sản phẩm du lịch, toàn ngành và các
địa phương, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội lực,
huy động vốn từ các thành phần kinh tế để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch.
Những hoạt động đầu tư từ các nguồn vốn trên, do đó đến năm 2009, cả
nước có 789 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 68 doanh nghiệp nhà
nước, 250 công ty cổ phần, 12 công ty liên doanh, 455 công ty TNHH và 4
doanh nghiệp tư nhân và hơn 10.000 doanh nghiệp lữ hành nội địa. Hệ thống
cơ sở lưu trú du lịch cũng không ngừng phát triển cả về số lượng và chất
lượng. Nếu như năm 1990, cả nước chỉ có 350 cơ sở lưu trú du lịch với
16.700 buồng, thì đến hết năm 2009, cả nước đã có 10.900 cơ sơ lưu trú du
lịch với trên 215.000 buồng, trong đó: 3 sao: 184 cơ sở với 13.168 buồng; 4
sao: 95 cơ sở với 11.628 buồng; 5 sao: 35 cơ sở với 8.810 buồng.
Ngoài ra còn có khoảng hàng nghìn hộ tư nhân kinh doanh du lịch hoạt
động ở hầu hết các địa phương cả nước.
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển du lịch
1.4.1 Tiềm năng và nguồn lực cho phát triển du lịch
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú,
tiềm năng ấy thể hiện ở các thế mạnh sau:
1.4.1.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên

a. Địa hình
Địa hình có ý nghĩa đặc biệt với du lịch. Các dạng địa hình nước ta có
tiềm năng lớn về du lịch chủ yếu là địa hình Karst, địa hình bờ biển và địa
hình hải đảo
- Địa hình Karst: Kiểu địa hình này chiếm khoảng 60.000 km
2
tập trung
chủ yếu ở Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, với các dạng
Karst hang động, Karst ngập nước và Karst đồng bằng. Địa hình Karst
tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn với hệ thống các hang động, núi đá
vôi…
- Địa hình bờ biển: Bờ biển nước ta dài khoảng 3.260 km với nhiều cảnh
quan phong phú, đa dạng, có nhiều bãi tắm đẹp là một tiềm năng rất có
giá trị cho du lịch biển, nghĩ dưỡng và vui chơi giải trí. Các bãi biễn nổi
tiếng: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn
(Thanh Hóa), Văn Phong (Nha Trang), Vũng Tàu…
- Địa hình hải đảo: Nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó
nhiều đảo có cảnh quan đẹp đã được đưa vào khai thác phục vụ du lịch
như Quan Lạn, Cô Tô (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Côn Đảo(Bà
Rịa – Vũng Tàu)…
Khó khăn: các dạng địa hình Karst tập trung chủ yếu trong các khu vực
cực kỳ khó khăn về điều kiện giao thông, trong các hệ sinh thái nhạy cảm dễ
bị phá vỡ. Vì vậy khó khăn lớn nhất trong khai thác các loại hình vào phát
triển du lịch chính là việc vừa phát triển mà vẫn đảm bảo sự bền vững của
môi trường.
b. Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới gió mùa có sự phân hóa đa dạng theo mùa, theo vĩ
tuyến và theo độ cao nên có ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức du lịch. Sự phân
hóa của các loại khí hậu đã quy định sự phát triển của các loại hình du lịch, vì
vậy nước ta có cả các hình thức du lịch của đới nóng và đới lạnh.

Trở ngại chính ảnh hưởng tới du lịch: Nước ta có nhiều bão, lũ lụt vào
mùa mưa tàn phá nặng nề các khu vực nó đi qua, đặc biệt là vùng duyên hải
miền trung; gió mùa đông bắc vào mùa đông, và một số hiện tượng thời tiết
đặc biệt làm ngưng trệ nhiều hoạt động du lịch sinh thái, tham quan.
c. Thủy văn
Nước trên mặt: Nước trên mặt có giá trị quan trọng không chỉ cung cấp
cho nhu cầu của khách du lịch mà còn tạo ra các loại hình du lịch đa dạng: du
lịch hồ, du lịch song nước…Có giá trị hơn cả là mạng lưới song ngòi ở đồng
bằng song Cửu Long và một vài song khác như sông Hương, sông Hàn, sông
Hồng…Hệ thống hồ cũng có giá trị lớn về du lịch, tiêu biểu như hồ Tây (Hà
Nội), hồ Hòa Bình (Hòa Bình), hồ Ba Bể (Bắc Cạn), hệ thống hồ ở Đà Lạt
(Lâm Đồng)…
Nước dưới đất: Nhìn chung ít có giá trị du lịch. Trong đó tài nguyên
nước khoáng có giá trị đặc biệt đối với du lịch. Nước khoáng chứa một số
thành phần vật chất đặc biệt có tác dụng cho sức khỏe con người và gắn với
loại hình du lịch chữa bệnh. Nước ta đã phát hiện được khoảng hơn 400
nguồn nước khoáng tự nhiên, trong đó có nhiều nguồn nước đã được đưa vào
khai thác cho mục đích du lịch, tiêu biểu như Kim Bôi (Hòa Bình), Quang
Hanh (Quảng Ninh), Mỹ Lâm (Tuyên Quang), Thanh Hóa, Vũng Tàu…
Tuy nhiên nguồn nước của các hệ thống sông suối phân hóa rõ rệt theo
mùa đã và đang gây ảnh hưởng to lớn đến các hoạt động du lịch có liên quan
mật thiết đến nguồn lợi sông nước.
d. Sinh vật
Việt Nam nằm ở nơi gặp gỡ giữa các luồng di cư động thực vật, vì thế
tài nguyên sinh vật rất phong phú và đa dạng. Diện tích rừng che phủ ở nước
ta khoảng 37%, chủ yếu tập trung ở Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ
và Tây Nguyên. Đã thống kê được hơn 800 loài cây gỗ, 332 loài thú, trên
1.000 loài chim và 330 loài bò sát, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Nước ta
đã thành lập được 105 khu bảo tồn thiên nhiên, bao gồm 27 vườn quốc gia, 44
khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hóa, lịch sử, môi trường. Tài

nguyên sinh vật nước ta ngoài giá trị lớn về môi trường còn có ý nghĩa kinh
tế, du lịch to lớn.
Khó khăn: Nguồn tài nguyên sinh vật tuy đa dạng và phong phú nhưng
đang đứng trước nhiều nguy cơ suy giảm về số lượng và chất lượng, nhất là
khi các hoạt động du lịch có liên quan trực tiếp đến sinh vật phát triển, nguy
cơ này ngày càng được nhân lên.
1.4.1.2 Tài nguyên du lịch nhân văn
a. Di tích lịch sử - văn hóa
Di tích lịch sử - văn hóa là tài nguyên quan trọng hàng đầu của du lịch.
Cho đến nay cả nước có khoảng 4 vạn di tích các loại, trong đó có 2.715 di
tích được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng. Đặc biệt đã có những di tích lịch
sử - văn hóa được UNESCO công nhận là di sản của nhân loại như cố đô Huế
(1993), phố cổ Hội An (1999), thánh địa Mỹ Sơn (1999)…Ngoài ra còn có
một số di tích khác đang đề nghị UNESCO công nhận như chùa Hương (Hà
Tây), bãi đá cổ Sa Pa (Lào Cai), Hoàng Thành Thăng Long…Các di tích này
đã và đang được khai thác nhất định vào phát triển du lịch.
b. Lễ hội
Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc riêng độc đáo. Chính
nhửng nét riêng đó đã làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc dân tộc việt
nam.nhiều lễ hội ra đời các ngay nay hàng nghìn năm vẫn được giữ gìn và
duy trì .Các lễ hội văn hóa có sức hút vô cùng to lớn đối với du kháh thập
phương.
Các lễ hội của nước ta chủ yếu tập trung vào các tháng giêng và tháng
hai lễ hội đền gióng (Hà Nội), Chùa Hương (Hà Tây), Phủ Giày (Nam Định),
Đền Hùng (Phú Thọ), Yên Tử (Quảng Ninh), Tây Sơn (Bình Định), Hội đâm
trâu (Tây Nguyên), Hội chọi trâu (Đồ Sơn)…
c. Các dạng tài nguyên du lịch nhân văn khác
Nước ta có 54 dân tộc phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam với những
phong tục, tập quán độc đáo ,các hoạt động văn hóa –nghệ thuật đa dạng và
đặc sắc có sức hút to lớn đối với các các du lịch trong và ngoài nước.

Dọc chiều dài đất nước có hàng trăm làng nghề thủ công, những món
đặc sản đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra cả nước còn có hàng trăm bảo tàng
với nhiều hiện vật và tài liệu lịch sử quý giá đang được lưu trữ.
1.4.1.3 Nguồn nhân lực
Năm 1990 toàn Ngành mới có hơn 17.000 lao động trực tiếp, đến nay
đã có gần 30 vạn lao động trực tiếp (tăng gần 10 lần so với 30 năm trước,
phần đông từ các ngành khác chuyển sang) và trên 70 vạn lao động gián tiếp,
phần lớn là ở độ tuổi dưới 30 (60%); phân bổ trên phạm vi cả nước (miền Bắc
40%, miền Trung 10%, miền Nam 50%). Lao động quản lý chiếm tỷ trọng
khá cao (25%); lao động phục vụ trực tiếp ở các ngành nghề chuyên sâu
chiếm 75%, trong đó lễ tân là 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ ăn uống
(bàn, bar) là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%, nhân viên lữ hành và hướng
dẫn viên là 4,9%, nhân viên lái xe, tàu du lịch là 10,6% và 36,5% còn lại là
lao động làm các nghề khác. Trong tổng số có 56,86% lao động được đào tạo
(0,21% cán bộ đạt trình độ sau đại học; 12,75% đại học và cao đẳng; 25,8%
trung cấp và 18,1% sơ cấp (nghề). Có 32% lao động phục vụ trực tiếp biết
tiếng Anh; 3,2% biết tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ
khác nhau; các ngoại ngữ khác cũng đã được quan tâm đào tạo, nhưng số
lượng người thông thạo không nhiều. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức
ngành Du lịch mặc dù với biên chế rất hạn hẹp (cơ quan Tổng cục Du lịch
hiện có 104 biên chế; người làm công tác du lịch tại các Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch bình quân trong toàn quốc khoảng 10 biên chế), đã nỗ lực vượt
bậc, hoàn thành được chức năng quản lý nhà nước về du lịch ở cả tầm chiến
lược và tác nghiệp cụ thể. Chủ trương xã hội hóa trong đào tạo du lịch, có sự
kết hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp, người học để xây dựng đội ngũ lao
động chuyên nghiệp, có kỹ năng nghiệp vụ, phẩm chất và trách nhiệm, đổi
mới công nghệ, tăng cường quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh.
1.4.2 Hệ thống pháp luật, các chính sách khuyến khích và xúc tiến đầu tư
vào du lịch
1.4.2.1 Hệ thống pháp luật

Luật Du lịch được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ bảy,
ngày 14/6/2005 đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho việc thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước và hoạt động du lịch trong giai đoạn mới, thể hiện quan
điểm, chính sách của Ðảng, Nhà nước phát triển du lịch trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn, kích thích đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần
xóa đói, giảm nghèo… đáp ứng nhu cầu về du lịch trong nước và quốc tế và
phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước. Nghij
định đã sửa đổi và bổ sung một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, Cụ thể hóa một số nội dung được quy định trong Luật Du
lịch nhưng chưa được hướng dẫn tại Nghị định số 92/2007/NĐ-CP
Do tình trạng “luật khung” trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay nên
Luật Du lịch mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc, chung
chung, làm cơ sở cho việc đề ra những quy định cụ thể trong các văn bản
hướng dẫn.
Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, thực tiễn cho thấy Nghị định
92/2007/NĐ-CP còn thiếu tính toàn diện trong việc hướng dẫn thi hành Luật
Du lịch. Nhiều nội dung trong Luật Du lịch chưa được quy định cụ thể, đòi
hỏi sớm được bổ sung:
- Quy định về quản lý điểm du lịch.
- Quy định cụ thể về ngành, nghề kinh doanh lữ hành.
- Quy định cụ thể các trường hợp thu hồi Giấy phép kinh doanh lữ hành
quốc tế được quy định tại điểm c, d khoản 3 Điều 47 Luật Du lịch.
- Quy định cụ thể nội dung “giấy tờ liên quan” được quy định tại khoản
2 Điều 49 Luật Du lịch nhằm công khai, minh bạch hóa các thành phần
của hồ sơ đề nghị đổi giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế.
- Quy định về việc thu, nộp phí, lệ phí.
- Quy định cụ thể về nội dung hoạt động của văn phòng đại diện của
doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, Sửa đổi những nội dung chưa hợp lý được quy định tại Nghị
định 92/2007/NĐ-CP. Sửa đổi điểm c khoản 2 Điều 12 Nghị định

92/2007/NĐ-CP nhằm xác định cụ thể lĩnh vực quảng bá, xúc tiến du lịch của
người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành, đảm bảo thời gian làm việc
của người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành trong lĩnh vực lữ hành,
tránh tình trạng những người hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch trong các
lĩnh vực không thuộc lĩnh vực lữ hành nhưng vẫn đủ điều kiện được công
nhận là người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành. Điều chỉnh lại các
mức ký quỹ kinh doanh lữ hành quốc tế đối với từng ngành, nghề kinh doanh
lữ hành quốc tế, đảm bảo quyền lợi của khách du lịch trong trường hợp xảy ra
rủi ro hoặc doanh nghiệp vi phạm hợp đồng. Quy định trách nhiệm hướng dẫn
của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương đối với cơ quan có

×