Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

446 Phân tích ngành xây dựng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.88 KB, 16 trang )

Phân Tích Ngành Xây Dựng VN
I, TỔNG QUAN NGÀNH XÂY DỰNG:
Trên thế giới, ngành Xây dựng luôn được coi là ngành kinh tế quan trọng, là bộ phận không thể
thiếu của nền kinh tế quốc dân. Ở nhiều nước trên thế giới, trong bảng xếp loại các ngành tạo nguồn
thu chủ yếu và sử dụng nhiều lao động của nền kinh tế, ta luôn thấy có tên ngành Xây dựng.
Ở VN cũng vậy. Khi tổng kết bức tranh kinh tế toàn cảnh người ta thường chú ý tới 3 chỉ số: Việc
sử dụng đất đai, việc sử dụng lao động và sản lượng. Những số liệu thống kê chính thức trong nhiều
năm đã cho phép chúng ta cùng hình dung ra các nét cơ bản nhất của ngành Công nghiệp xây dựng.
Tổng thể trong những năm trước đây, ngoại trừ những giai đoạn khủng hoảng kinh tế thì ngành
công nghiệp xây dựng chiếm tỷ trọng khá lớn trong GDP của cả nước.
Trong ngành Xây dựng VN, bộ phận xây dựng nhà được đánh giá là bộ phận rất quan trọng,
thường liên quan đến các khoản tín dụng dài hạn nên trên thực tế nó thúc đẩy các khoản tín dụng dài
hạn, thúc đẩy thị trường tín dụng
Theo các số liệu gần đây nhất (2003 – 2005) thì hiện nay ở VN, ngành Xây dựng là ngành trực tiếp và
gián tiếp đào tạo việc làm cho khoảng 15% lực lượng lao động và chiếm gần 15% GDP.
Như vậy, trong mối quan hệ nội tại ở nền kinh tế, ngành Xây dựng đang ngày càng mở rộng vị thế
của mình so với các ngành khác trên cơ sở ngày càng phát triển tỷ trọng đóng góp của ngành vào cuộc
thu nhập quốc dân, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Nghiên cứu ngành Xây dựng trong mối tương quan với những ngành Xây dựng của các nước khác trên
thế giới, chúng ta sẽ có dịp thấy thêm nhiều tính chất mới và tầm vóc của ngành Xây dựng
Về công nghiệp sản xuất xi măng (xương sống của ngành sản xuất vật liệu xây dựng) hiện ở nước ta
đây vẫn là một ngành non trẻ.
Hình như thế giới chúng ta đang sống, hiện có quán tính gắn liền với hình ảnh các nhà thầu xây
dựng với hình ảnh của ngành Xây dựng, coi hình ảnh này là bức tranh phản chiếu rõ nét nhất. Như
chúng ta đều biết, trên thế giới hiện nay, các nhà thầu xây dựng, đặc biệt là các nhà thầu xây dựng lớn
luôn nhận được sự quan tâm và ngưỡng mộ của xã hội. Họ thực sự là những nhân tố quan trọng trong
sự phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại.
Không còn bao lâu nữa, tiến trình Hội nhập thị trường thế giới bao la đầy sóng gió của chúng ta sẽ bước
vào giai đoạn thử lửa đặc biệt. Việc mở cửa thị trường xây dựng, cắt giảm bảo hộ...chắc chắn đang gõ cửa
rất gần. Chúng ta cần nhanh chóng tìm hiểu kỹ tình hình mới, đôi stác mới để hoà nhập sức mạnh cùng tiến
lên.


Tóm lại, trong khuôn khổ nền kinh tế khổng lồ thì ngành Xây dựng nước ta được coi là ngành rất quan
trọng.
1
II, ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH XÂY DỰNG:
Ngày 29-4-1958, theo Nghị quyết của kì họp thứ VIII Quốc hội khoá I do
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa đã quyết định thành lập Bộ Kiến trúc - nay là Bộ
Xây dựng. Từ đó đến nay, ngày 29-4 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống
của ngành Xây dựng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ
công nhân viên trong suốt chặng đường 42 năm phát triển, ngành Xây dựng đã
đạt được nhiều thành tựu góp phần vào những thắng lợi to lớn của cả nước trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những thành tựu trong 42 năm qua của ngành Xây dựng gắn liền với những
sự kiện trong lịch sử giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất
nước ta. Đặc biệt sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ,
ngành Xây dựng đã đi đầu lòng sự nghiệp xây dựng lại đất nước. Những kết quả
trong giai đoạn này đã gắn liền với sự trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng
và chất lượng của đội ngũ những người xây dựng, sự hi sinh phấn đấu của các
thế hệ và sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo tiền nhiệm của ngành Xây dựng.
Sự phát triển và trưởng thành của ngành Xây dựng là thành quả của sự đổi
mới về lượng và về chất, thể hiện trên các mặt chính như sau:
1. Về công tác quản lý nhà nước:
Từ khi chuyển sang thời kì đổi mới đến nay, Bộ và toàn ngành Xây dựng đã
nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, tạo được chuyển biến tích
cực, đúng hướng và toàn diện trong quản lí nhà nước, chỉ đạo điều hành và thực
hiện phát triển sản xuất kinh doanh.
Bộ đã phân định rõ chức năng quản lí nhà nước và quản lí sản xuất kinh
doanh, mạnh dạn trao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế cơ sở, hướng dẫn và
thúc đẩy các sở xây dựng thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với ngành
tại các tỉnh, thành phố. Tiến hành các đợt kiện toàn bộ máy cơ quan Bộ, xây

2
dựng chức năng, nhiệm vụ, quy chế tổ chức cho phù hợp với quy chế mới. Đồng
thời kiện toàn và sắp xếp lại hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh trong ngành,
bằng cách sáp nhập, nâng cấp chuyển hoá mở rộng quyền hạn và tinh giản bộ
máy quản lí tại các đơn vị cơ sở. Tạo môi trường lành mạnh cho sản xuất và
kinh doanh phát triển.
Để góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Bộ đã nghiên cứu đề ra các chiến lược, định
hướng phát triển và các cơ chế, chính sách của ngành. Tổ chức các hội nghị, hội
thảo để trao đổi và thống nhất với các cấp, các ngành về quan điểm, nhận thức
đối với các nội dung đổi mới. Bộ đã và đang soạn thảo mới, bổ sung, thay thế
các văn bản pháp quy trình Nhà nước ban hành, hoặc ban hành theo thẩm quyền
để ngày càng hoàn thiện môi trường pháp lí quản lí các lĩnh vực do Bộ phụ trách
cho phù hợp với cơ chế thị trường, hội nhập các nước.
Đồng thời Bộ đã tiến hành nhiều đợt thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các
thủ tục, pháp quy, chủ trương, chính sách của ngành tại nhiều cơ quan, đơn vị
thuộc các ngành, các cấp. Đã tổ chức và thúc đẩy sự hoạt động thường xuyên
của hệ thống giám sát chất lượng công trình xây dựng và sản phẩm vật liệu xây
dựng.
2. Về công tác nghiên cứu khoa học kĩ thuật và công nghệ:
Đã có những tiến bộ đáng kể. Từ một viện thí nghiệm vật liệu xây dựng lúc
ban đầu, đến nay trực thuộc Bộ đã có các viện nghiên cứu về khoa học công
nghệ xây dựng, vật liệu xây dựng, kiến trúc, quy hoạch đô thị, nông thôn, môi
trường, khoa học quản lí kinh tế xây dựng... Các tổ chức nghiên cứu khoa học kĩ
thuật, khoa học quản lí cũng được hình thành ở các địa phương và các doanh
nghiệp. Hàng vạn sáng kiến, hàng ngàn đề tài nghiên cứu (R), nghiên cứu ứng
dụng (R & D) đã được công nhận và phát huy hiệu quả. Trong thời kì nền kinh
3
tế đất nước còn khó khăn, trang thiết bị yếu kém... những sáng kiến, những đề
tài nghiên cứu đã góp phần tích cực trong các hoạt động của ngành.

Trong thời kì đổi mới, việc nghiên cứu khoa học công nghệ càng được chú
trọng, đã giải quyết dược hàng loạt vấn đề về chuyển giao công nghệ mới, ứng
dụng những tiến bộ kĩ thuật trong xây dựng, trong sản xuất vật liệu xây dựng và
trong các tiêu chuẩn, quy trình quy phạm để từng bước hội nhập với cộng đồng
thế giới. Đội ngũ những người làm công tác khoa học, công nghệ đã phát triển
và trưởng thành; có khả năng giải quyết nhiều vấn đề kĩ thuật phức tạp trong xây
dựng các công trình công nghiệp, dân dụng quy mô lớn ở Việt Nam như xử lí
nền móng, castơ, xử lí chống lún, chống dội; xây dựng và lắp ráp nhà máy lớn
(không có chuyên gia kĩ thuật nước ngoài) như Xi măng Hà Tiên, Xi măng
Hoàng Thạch, Xi măng Bút Sơn...; làm chủ được nhiều công nghệ hiện đại trong
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như kĩ thuật sản xuất xi măng theo
phương pháp khô, kĩ thuật sản xuất sứ vệ sinh, gạch lát ceramic, kính xây dựng,
công nghê thông tin trong điều hành sản xuất, điều hành quản lí...
3. Về công tác đào tạo cán bộ:
Được hết sức coi trọng, đã bổ sung nhanh cả về số lượng và chất lượng, là
nhân tố và động lực quan trọng trong quá trình phát triển của ngành. Bắt đầu từ
một trường và một lớp nhỏ đào tạo cán bộ kỹ thuật, kiến trúc sư vào cuối thập
kỷ 50, đến nay toàn ngành đã có một hệ thống, một mạng lưới đào tạo ngành
nghề tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh, bao gồm các trường đào tạo kiến trúc sư,
kỹ sư, cán bộ quản lí, cán bộ kĩ thuật trên đại học, các trường kỹ thuật nghiệp
vụ, trường đào tạo công nhân kỹ thuật ở trung ương và địa phương. Cùng với
việc đào tạo trong nước, nhiều cán bộ, công nhân được cử đi học tập ở nước
ngoài (đặc biệt là đối với các cán bộ quản lí cán bộ cao cấp kĩ thuật, quản lí và
các công nhân thuộc ngành nghề mới, kĩ thuật phức tạp).
Qua 42 năm hoạt động, ngành Xây dựng không ngừng trưởng thành và
phát triển. Đến nay lực lượng toàn ngành đã có tới 35 vạn người; trong đó thuộc
4
trung ương 23 vạn, thuộc địa phương 12 vạn. Riêng Bộ Xây dựng có trên 14 vạn
cán bộ, công nhân. Về cán bộ khoa học, kĩ thuật chuyên môn, nghiệp vụ, toàn
ngành có trên 43.000 người, trong đó Bộ Xây dựng có trên 22.000 người. Cán

bộ có trình độ đại học toàn ngành là gần 20.000 người, trong đó Bộ xây dựng có
trên 11.000 người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ toàn ngành có 220 người, trong đó
Bộ Xây dựng có 200 người. Thạc sĩ có trên 200 người, trong đó Bộ Xây dựng có
gần 150 người.
Chất lượng cán bộ kỹ thuật ngày càng được nâng cao, đáp ứng các yêu
cầu về trình độ quản lí, trình độ kỹ thuật chuyên môn, chính trị và ngoại ngữ....
Chất lượng đội ngũ công nhân kĩ thuật cũng được đổi mới, từ tác phong công
nghiệp đến cơ cấu ngành nghề. Hầu hết các công trình xây dựng quy mô lớn, các
sản phẩm vật liệu xây dựng kĩ thuật cao... do trong nước hoặc nước ngoài đầu tư
đều do bàn tay của người công nhân ngành Xây dựng thực hiện và làm chủ được
ngành nghề.
4. Về công tác thi đua:
Ngay từ những năm đầu thành lập, Lãnh đạo Bộ, Công đoàn Xây dựng
Việt Nam đã tổ chức và phát động nhiều phong trào thi đua. Từ phong trào thi
đua "Mọi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt" do Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi; phong trào thi đua "Phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, nâng cao
năng suất lao động", phong trào thi đua năng suất cao" trước đây, đến các phong
trào thi đua "Năng suất cao - Quản lí giỏi" hiện nay, là những phong trào thi đua
liên tục được cán bộ, công nhân viên trong ngành hương ứng tích cực, dấy lên
các cao trào lao động sản xuất sôi nổi 42 năm qua.
Vận dụng sáng tạo các phong trào thi đua vào từng nhiệm vụ, từng lĩnh
vực công tác, từng công trình xây dựng, đặc biệt đối với những dự án quan
trọng, trọng điểm của Nhà nước, các phong trào thi đua đã có tác dụng rất lớn.
Nhiều nơi đã trở thành phong trào thi đua quốc tế lôi cuốn được cán bộ công
5
nhân các nước bạn cùng tham gia như tại công trình Điện Phả Lại, Thuỷ điện
Hoà Bình, Trị An, Apatit Lào Cai, Kính Đáp Cầu, Xi măng Bỉm Sơn tăng và
Bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh.... Phong trào thi đua bảo đảm chất lượng công
trình, chất lượng sản phẩm xây dựng" đã cuốn hút cả các ngành, các địa phương
có công trình xây dựng tham gia.

Đảng và Nhà nước đánh giá cao những thành quả của ngành Xây dựng
trong 42 năm qua, và đã tuyên dương 9 tập thể Anh hùng, 24 cá nhân là Anh
hùng lao động, tặng thưởng hàng ngàn huân chương các loại; trong đó có Huân
chương Sao vàng (1998), Huân chương Hồ Chí Minh (1994), 25 Huân chương
Độc lập và một số giải thưởng Hồ Chí Minh.
Những thành quả ngành Xây dựng đã đạt được trong 42 năm qua. trước hết
là nhờ có sư lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và dẫn dắt. Đó là kết quả của toàn ngành quán triệt
và kiên trì phấn đấu thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng đã
được chỉ rõ trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc từng giai đoạn cách
mạng, trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước. Đồng thời, là do
cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong ngành đã đoàn kết trên dưới một lòng,
lao động cần cù, sáng tạo; vượt mọi khó khăn gian khổ, vươn lên hoàn thành
những nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó.
Trong quá trình xây dựng, phát triển và trưởng thành, ngành Xây dựng
luôn được sự chỉ đạo của Chính phủ; sự đóng góp tích cực của các ngành ở
trung ương, chính quyền và các cấp uỷ Đảng ở địa phương, các đoàn thể quần
chúng; sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô (trước đây), Trung Quốc cùng các
nước, các tổ chức quốc tế. Điều đó góp phần đưa ngành Xây dựng phát triển
mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, vững vàng tiến vào thiên niên kỷ mới xây dựng
"đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như lời Bác Hồ đã dạy.
6

×