Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN bồi dưỡng HS yếu kém môn tiếng việt lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.04 KB, 13 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến: Båi dìng häc sinh yÕu kÐm m«n TiÕng ViÖt líp
1.
Trong công cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện chủ chương chính sách
của Đảng và Nhà nước nói chung của ngành giáo dục nói riêng về việc nói
không với tiêu cực và bệnh thành tích từ những năm học trước đã thể hiện
rất rõ. Theo thống kê đã có biết bao học sinh ở lại lớp và học sinh yếu kém
ngồi nhầm chỗ. Học sinh bỏ học do quá yếu không theo học được. Điều đó
làm tôi rất trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém
giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp 1. Bởi lớp 1 là
nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này. Với lớp 1 điều quan trọng
nhất là đọc , viết được. Có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung
văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn học khác.
Đối với cấp tiểu học để đạt được điều đó thực sự là một bài toán khó,để
giải được bài toán khó này cần có sự giúp đỡ của cả cộng đồng và xã hội.
Nhất là học sinh tiểu học các em còn vừa học vừa chơi nhưng việc học của
các em lại có sự ảnh hưởng rất lớn tới con đường học sau này của các em.
Chính vì điều đó là giáo viên một trường vùng II đa số các em là học sinh
dân tộc thiểu số sự tăng cường tiếng việt, phương pháp dạy học thực sự là
Mời quý thầy cô ghé thăm />1
cần thiết và cấp bách để các em mạnh dan trong giao tiếp bằng ngôn ngữ
thứ hai một cách tự tin khi phát âm có độ chính xác cao. Chính vì lẽ đó tôi
chọn đề tài “ Bồi dưỡng học sinh yếu kém môn Tiếng Việt lớp 1”.
2. Nhiệm vụ của sáng kiến:
Sáng kiến này nhằm đạt được:
- Giúp học sinh nắm được về tiếng việt: Ngữ âm và chữ viết.
- Giúp học sinh có kĩ năng đọc: Thao tác đọc, phát âm các âm, đánh dấu
câu, đọc trơn.
- Giúp học sinh có thái độ yêu thích môn học và tự tin khi giao tiếp.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Qua thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đưa ra một số cách thức “ Bồi


dưỡng học sinh yếu kém môn Tiếng Việt lớp 1”.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu bằng thực nghiệm trên đối tượng học sinh là học sinh lớp 1
Trường Tiểu học Bằng Lang - Quang Bình - Hà Giang. Áp dụng từ năm
học 2010 - 2011 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luyện tập.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp trực quan.
Mời quý thầy cô ghé thăm />2
-Phương pháp thực hành giao tiếp.
- Phương pháp học tập theo nhóm.
- Phương pháp trò chơi học tập.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở thực tiễn:
Khi dạy học môn tiếng việt giáo viên cần áp dụng dạy lấy hoc sinh làm
trung tâm là tạo cơ hội cho học sinh học tập thông qua hoạt động thực
hành. Giáo viên phải là người thiết kế bài day sao cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh trong lớp, là người tổ chức, hướng dẫn điều khiển quá trình
dạy học để học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức mới
theo yêu cầu bài học qua các hình thức dạy học như: cá nhân, nhóm đôi, tổ,
cả lớp. trò chơi học tập và tổ chức nhiều hình thức trong quá trình dạy học
như thay đổi vị trí chỗ ngồi của học sinh, thay đổi góc học tập, tạo không
gian góc học tập thoáng mát gây được không gian học tập tốt nhất…
Vào đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát phân loại học sinh trong lớp 1
Trường Tiểu học Bằng Lang với nội dung sau:
- Tìm hiểu số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh không đi học mẫu
giáo hoặc đi học không đều. Tìm hiểu lí do học sinh không đi học mẫu
giáo.

Mời quý thầy cô ghé thăm />3
- Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái đã học trong trường mầm non.
Qua kết quả khảo sát tỉ lệ học sinh nhận diện được các chữ cái còn quá
thấp dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Một trong những lí do dễ thấy là vì
các em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em chưa chăm chỉ học. Vì
vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối
tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho
các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú. Giáo viên phải gần gũi yêu
thương động viên kịp thời để học sinh thích học.
2. Cơ sở khoa học:
Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề
nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ
cho môn học.
Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm
bài ở nhà của học sinh.
Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ đồ dùng, tranh ảnh và tài
liệu tham khảo phục vụ bài dạy. Đồng thời mượn đồ dùng học tập cho học
sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Xây dựng đôi bạn học giỏi - yếu kèm cặp nhau.
Mời quý thầy cô ghé thăm />4
Đưa ra các tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm. Đầu giờ truy bài các
nhóm kiểm tra chéo nhau. Cuối tuần tổng kết thi đua vào giờ sinh hoạt. Hết
tháng tổng kết tháng và có tuyên dương, khen thưởng.
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ
cơ bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để
cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo
các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh
dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân
biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dáng, cấu tạo gần giống

nhau.
Ví dụ:
Các nét chữ cơ bản và tên gọi:
Nhóm 1: Nét sổ thẳng
Nét gạch ngang
Nét xiên phải
Nét xiên trái
Nhóm 2: Nét móc trên
Nét móc dưới
Mời quý thầy cô ghé thăm />5
Nét móc hai đầu
Nhóm 3: Nét cong phải
Nét cong trái
Nét cong kín
Nhóm 4: Nét khuyết trên
Nét khuyết dưới
Nét thắt
Nét xoắn
Sau khi học sinh đã học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một
cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm ( chữ cái ). Giai đoạn học chữ
cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới
ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với
nhau tạo thành từ và thành câu.
Giai đoạn này tôi dạy trẻ phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ
cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác
nhau hay gặp trong sách giáo khoa thì tôi phân tích cho học sinh nhận biết
để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo trẻ dễ hiểu và không bị lúng túng.
Mời quý thầy cô ghé thăm />6
Ví dụ:
Âm : a - g

+ Âm a gồm hai nét: nét 1: nét cong kín, nét 2 nét thẳng đứng
ngắn bên phải cao rộng 2 ô li.
+ Âm g gồm hai nét: nét 1: nét cong kín ( cao 2 li trên dòng kẻ ),
nét 2: nét khuyết dưới ( 3 li dưới dòng kẻ ).
Từ việc học kĩ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kĩ và tỉ mỉ sẽ
giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm
sau: d , b, p, q.
Còn các âm ghép tôi cho học sinh học thật kĩ cấu tạo và cách ghép âm.
Phân từng cặp để học sinh phát âm chính xác và viết chính tả phân biệt.
Trong từng ngày, từng bài ôn tôi đã nghĩ ra được một số bài kiểm tra
sự nhận thức của trẻ thông qua các giờ chơi, các giờ nghỉ. Từ đó củng cố
thêm kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránh sự đơn điệu của các bài ôn
tập trong sách, vì những bài ôn ở trong sách được lặp đi lặp lại bài nào
cũng như bài nào làm cho học sinh tiếp thu một cách nhàm chán nên tôi đã
thay vào phần chơi trong tiết hai của bài ôn là những bài mà tôi tự nghĩ và
viết ra phiếu. Có thể phiếu chỉ là một từ gồm hai hoặc ba tiếng cũng có thể
là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính
giáo dục.
Mời quý thầy cô ghé thăm />7
Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vần mới học xong. Từ đó không
lấy trong sách ra. Nếu học sinh đã thuộc mặt chữ rồi thì bất kì một từ nào
mới trẻ cũng đọc được. Đến khi học sinh viết chính tả vào bảng con, tôi
cũng không đọc những tiếng và từ có sẵn trong bài. Thông qua việc xây
dựng tiếng, tù mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ý nghĩa của các từ
mà trẻ tìm được của hôm trước viết vào bảng con. Do đó phong trào tìm
tiếng, từ mới học sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi, nhiệt
tình.
Sang đến phần học vần học sinh đã được học chữ hoa nên trong các đoạn
văn, bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận biết và đọc chữ hoa sau
dấu chấm, các danh từ riêng tên gọi.

Vì thường xuyên phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đã
chia chất lượng của lớp ra làm 4 trình độ: giỏi, khá, trung bình, yếu và phân
công:
- Giỏi kèm yếu.
- Khá kiểm tra trung bình.
Hằng ngày tôi giao phiếu bài cho học sinh giỏi. Những ngày đầu tôi trực
tiếp kiểm tra học sinh giỏi, biết được các em học giỏi đã đọc trơn tru, lưu
loát rồi thì khi nhận được phiếu là trẻ kiểm tra bạn một cách chính xác. Từ
những điều học sinh giỏi tiếp thu được em sẽ in sâu và truyền thụ lại cho
Mời quý thầy cô ghé thăm />8
các bạn. Lúc đó học sinh trung bình và yếu dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha
đã dạy:
“ Học thầy không tày học bạn”.
Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn ngữ của trẻ dễ hoà đồng với nhau. Tuy nhỏ
nhưng trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải
cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó chất lượng học sinh trong lớp
tương đối đồng đều. Không ỷ lại chi học sinh giỏi mà tôi vẫn thường xuyên
kiểm tra và kèm cặp học sinh trung bình và yếu nhằm củng cố cho các em
về kiến thức một cách vững vàng hơn.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua thời gian nghiên cứu và thực hiện sáng kiến tại Trường Tiểu học
Bằng Lang, tôi thấy qua phương pháp này các em đã thực sự hứng thú và
tích cực học môn Tiếng Việt. Nhờ vậy các tiết học không bị nhàm chán.
Kết quả cụ thể được thể hiện như sau:
Năm học KÕt qu¶
HS giái HSkh¸ HS TB HS yÕu
2010 - 2011 5% 10% 82% 3%
2011 - 2012 10% 15% 75% 0%
2012 - 2013 20% 20% 60% 0%
Mời quý thầy cô ghé thăm />9

Từ bảng số liệu trên, ta có thể thấy kết quả rất khả quan khi thực hiện
sáng kiến này, góp phần nhỏ vào nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp
1, số học sinh đã giảm đáng kể, số học sinh khá giỏi ngày một tăng lên.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Ở tất cả các trường hợp học sinh yếu môn Tiếng Việt, việc quan tâm
của giáo viên đến từng học sinh và phương pháp giảng dạy sát đối tượng,
kịp thời khích lệ động viên, đáp ứng đúng những điều các em còn thiếu về
kiến thức, kỹ năng nhận chữ nhanh sẽ giúp các em dần theo kịp yêu cầu
về chât lượng ở cấp tiểu học. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay Bộ GD &
ĐT đang cương quyết thực hiện cuộc vận động hai không là: “ Nói không
với bệnh thành tích trong giáo dục và chống tiêu cực trong thi cử”, thì mỗi
người thầy cần phải luôn tìm tòi, nghiên cứu tài liệu và học hỏi để tạo ra
những sáng kiến hay, góp phần nhỏ để chất lượng giáo dục của địa phương
nói riêng, cũng như của cả nước nói chung ngày một nâng lên.
Nhiệm vụ chủ yếu của người giáo viên vẫn là sự tiến bộ chung của toàn
lớp. Vì thế tôi nghĩ, trong tất cả các khâu soạn, giảng, kiểm tra người giáo
viên vẫn phải lấy trình độ tiếp thu chung của lớp làm chuẩn mực để hướng
tới. Vấn đề là, trong cái chuẩn mực chung ấy người giáo viên cần phải luôn
luôn lưu tâm đến những em học yếu, luôn dành cho các em một sự ưu ái,
một thái độ khích lệ, động viên kịp thời, những lời chỉ bảo ân cần và sự
Mời quý thầy cô ghé thăm />10
tiến bộ của các em trong học tập là phần thưởng vô giá đối với mỗi người
giáo viên chúng ta.
Trên đây là phần sáng kiến kinh nghiệm của tôi, rất mong sự góp ý để
sang kiến hoàn thiện hơn nữa, để giúp các em học sinh tiểu học học tốt
môn Tiếng Việt, đồng thời góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục.
Bằng Lang, ngày 18 tháng 11 năm
2013
Người viết sáng kiến



Hoàng Thị Huyền
Nhận xét của tổ khối chuyên
môn



Mời quý thầy cô ghé thăm />11


( Kí tên )
Phê duyệt của thủ trưởng đơn
vị





( Kí tên đóng dấu )
Xác nhận của Phòng Giáo dục và Đào
tạo



Mời quý thầy cô ghé thăm />12


( Kí tên đóng dấu )
Mời quý thầy cô ghé thăm />13

×