Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Tây Hà Nội của NHNo&PTNT Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.96 KB, 75 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
LỜI MỞ ĐẦU
Mở cửa và giao lưu thương mại đã trở thành xu hướng phát triển của hầu
hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Mỗi quốc gia đều tham gia tích cực
hơn vào thương mại quốc tế để tận dụng mọi nguồn lực bên trong cũng như
bên ngoài nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Bởi vậy, khi thương
mại quốc tế càng phát triển thì vai trò của ngân hàng càng lớn. Ngân hàng đã
trở thành cầu nối vô cùng quan trọng, nó là trung gian tài chính, thanh toán
cho các chủ thể khi tham gia vào hoạt động ngoại thương.
Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng trở nên vô cùng cần thiết
trong kinh tế đối ngoại, đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngày nay
hoạt động thanh toán được coi là một chỉ tiêu khá rõ nét để đánh giá mức độ
phát triển, hội nhập đối với hoạt động ngoại thương của một quốc gia nói
chung và của từng ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh
hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, khi hoạt động ngoại thương càng phức tạp
bao nhiêu thì hoạt động thanh toán quốc tế cũng phức tạp và chứa đựng nhiều
rủi ro hơn.
Với tốc độ phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế trên thế giới nói
chung và của Việt Nam nói riêng, Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thôn Việt Nam đã tham gia tích cực và luôn luôn chú trọng đến việc
mở rộng hoàn thiện nghiệp vụ của mình. Chính vì vậy hoạt động của ngân
hàng luôn đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng trong thanh toán quốc tế và
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đã trở thành
một trong những trung tâm thanh toán quốc tế lớn của nước ta, đồng thời nó
luôn khẳng định vai trò chủ lực của mình trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam. Là một mắt xích quan trọng trong mạng lưới hoạt động,
NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội ngay từ khi thành lập cũng luôn coi
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
thanh toán quốc tế là một trong những nghiệp vụ quan trọng hàng đầu và luôn


dành sự đầu tư thích đáng. Do vậy, ngân hàng đã đạt được một số kết quả khả
quan quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhưng bên cạnh đó cũng có
những tồn tại cần khắc phục. Chính vì vậy sau khi thực tập với mục đích tìm
hiểu thực tế hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh và những tồn tại nhằm
tìm ra giải pháp khắc phục, phát triển hơn nữa hoạt động này, đề tài: “Phát
triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Tây Hà Nội của
NHNo&PTNT Việt Nam” được em chọn làm chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên
đề gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán quốc tế của hệ
thống ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng nông
nhiệp Tây Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp phát tiển hoạt động thanh toán quốc tế tại
ngân hàng nông nghiệp Tây Hà Nội.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại.
Để bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế quốc tế, thị trường tài chính
của các nước trên thế giới đã dần hình thành hàng loạt các trung gian tài chính
như công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty chứng khoán…Các trung
gian tài chính này đã làm cho thị trường trở nên sôi động hơn, bên cạnh đó
chúng cũng chiếm giữ thị phần lớn vốn là độc quyền của các ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng với vai trò là một trung gian
tài chính lâu đời, các ngân hàng thương mại vẫn luôn giữ một vị thế vô cùng
quan trọng trên thị trường tài chính.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền

tệ, cung cấp các danh mục tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiền gửi
và các dịch vụ thanh toán.
Một ngân hàng đạt được thành công là một ngân hàng cung cấp đầy đủ
những dịch vụ tài chính mà xã hội cần, đồng thời thực hiện các dịch vụ đó
một cách có hiệu quả nhất. Các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách
hàng bao gồm: nhận tiền gửi, mua bán ngoại tệ, cho vay, bảo quản tài sản hộ,
cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, bảo
lãnh, cho thuê, tài trợ các dự án của chính phủ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác,
cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đầu tư chứng khoán, …
Dịch vụ mà ngân hàng cung cấp rất đa dạng bởi vậy luôn đáp ứng mọi nhu
cầu có liên quan tới việc sử dụng đồng tiền của khách hàng, đồng thời tạo ra
thu nhập cho chính ngân hàng. Trong những dịch vụ của mình ngân hàng
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
quan tâm nhiều nhất là thực hiện thanh toán ở đây khách hàng uỷ thác cho
ngân hàng thanh toán hộ hoặc thu hộ giá trị hàng hoá và dịch vụ. Thông qua
đó ngân hàng mở rộng được mối quan hệ đối với khách hàng, vừa có thêm
một lượng vốn để cho vay hoặc đầu tư vào các dự án, tài trợ thanh toán cho
khách hàng vừa tăng thu từ phí hoạt động giao dịch. Ngoài ra, ngân hàng còn
thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch với các đối tác nước ngoài và hoạt
động này chính là hoạt động thanh toán quốc tế. Do tính chất phức tạp của
hoạt động thanh toán quốc tế đòi hỏi sự chặt chẽ, chính xác mà vai trò của
ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng.
1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng
lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các
tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác hay giữa một quốc
gia với tổ chức quốc tế thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước

có liên quan.
Khác với hoạt động thanh toán trong nước thanh toán quốc tế có một số
đặc điểm riêng sau:
Một là, chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế tại các quốc gia
khác nhau. Thông thường mỗi giao dịch thanh toán quốc tế có liên quan tới
tối thiểu là hai quốc gia.
Hai là, hoạt động thanh toán liên quan tới hệ thống luật pháp của các quốc
gia khác nhau thậm chí là đối nghịch nhau. Do tính phức tạp đó các bên tham
gia vào thanh toán thường lựa chọn các quy phạm pháp luật mang tính thống
nhất và theo thông lệ quốc tế.
Ba là, đồng tiền dùng trong giao dịch thanh toán quốc tế thông thường tồn
tại dưới hình thức các phương tiện thanh toán như: hối phiếu, séc, thẻ, chuyển
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
khoản…, có thể là đồng tiền của nước thứ ba và thường là loại ngoại tệ được
tự do chuyển đổi.
Bốn là, ngôn ngữ được sử dụng trong thanh toán quốc tế phổ biến là tiếng
Anh.
Năm là, thanh toán quốc tế đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, trình độ công
nghệ tương xứng với trình độ quốc tế.
Sáu là, hoạt động thanh toán quốc tế chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn.
Không gian thanh toán rộng, thời gian tương đối dài, cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ không đồng đều, trình độ nguồn nhân lực tham gia thanh toán quốc tế
giữa các quốc gia chênh lệch rất lớn. Bởi vậy, có thể coi đó là một trong
những nguyên nhân phát sinh rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
1.2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế.
Đối với một hợp đồng thanh toán quốc tế thì phương thức thanh toán là
một trong những điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là một
cách thức nhất định để người bán thu được tiền thanh toán nhanh, an toàn và

người mua trả được tiền nhận được hàng chuẩn xác đủ về số lượng đúng về
chất lượng, thời hạn như trong hợp đồng đã ký.
Tuỳ vào mỗi quốc gia, hoàn cảnh cụ thể, các bên đối tác trong quan hệ
thanh toán sẽ lựa chọn và thoả thuận về cách sử dụng phương thức thanh toán.
1.2.2.1. Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền.
- Khái niệm: Thanh toán bằng chuyển tiền là phương thức thanh toán trong
đó khách hàng (người nhập khẩu) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển
một số tiền cho người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng
phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
- Các bên tham gia vào thanh toán:
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Người yêu cầu chuyển tiền (remitter): là người yêu cầu ngân hàng thay
mình thực hiện chuyển tiền cho đối tác ở nước ngoài thường là người mua,
người trả nợ hoặc nhà đầu tư yêu cầu chuyển vốn, kinh phí ra nước ngoài.
Người thụ hưởng (beneficiary): là người đựơc nhận số tiền chuyển tới
thông qua ngân hàng, thường là nhà xuất khẩu hoặc người tiếp nhận đầu tư do
người chuyển tiền chỉ định.
Ngân hàng nhận uỷ nhiệm chuyển tiền (remitting bank): là ngân hàng phục
vụ người chuyển tiền.
Ngân hàng trả tiền (paying bank): là ngân hàng trực tiếp trả tiền cho người
thụ hưởng thông thường là ngân hàng đại lý.
- Đặc điểm:
Trong phương thức chuyển tiền thủ tục đơn giản, phí thanh toán cao
thường được áp dụng với những lô hàng có giá trị nhỏ hoặc phí dịch vụ ngoại
thương như phí vận tải, bảo hiểm hoặc hoa hồng.
Ngân hàng khi thực hiện chuyển tiền hoặc trả tiền chỉ đóng vai trò trung
gian thanh toán để hưởng hoa hồng (ở đây là phí dịch vụ) và không bị ràng
buộc với người mua và người bán.

Việc chuyển tiền được hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho người thụ
hưởng; trước thời điểm thanh toán, số tiền này trong tài khoản vẫn thuộc
quyền sở hữu của người chuyển tiền và họ có quyền huỷ bỏ lệnh chuyển tiền
mà người thụ hưởng không thể khiếu nại với ngân hàng. Như vậy, việc trong
hình thức thanh toán này phụ thuộc vào thiện chí của người mua nên lúc này
quyền lợi của người bán không được đảm bảo.
Người mua cũng có thể gặp rủi ro trong trường hợp thanh toán trước tiền
hàng cho người bán, vì người mua buộc phải có một lượng vốn lưu động bị
ghim giữ trong một thời gian dài. Hơn nữa nếu hàng hoá kém chất lượng hay
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
người sản xuất bị phá sản hoặc tình hình chính trị của nước người bán bất ổn
thì người bán không còn khả năng giao hàng cho người mua.
- Hình thức chuyển tiền: thanh toán theo phương thức chuyển tiền được thực
hiện dưới hai hình thức.
+ Chuyển tiền bằng thư: là hình thức trong đó lệnh thanh toán của ngân
hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung 1 bức thư mà ngân hàng này
yêu cầu ngân hàng thanh toán thực hiện. Thư chuyển tiền là chỉ thị của ngân
hàng chuyển tiền đối với ngân hàng thanh toán yêu cầu ngân hàng này chi trả
một khoản tiền được ấn định cho người thụ hưởng được chỉ định trong thư.
+ Chuyển tiền bằng điện: là hình thức chuyển tiền trong đó lệnh thanh toán
của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung của một bức điện mà
ngân hàng này gửi cho ngân hàng thanh toán thông qua truyền tin của mạng
viễn thông như SWIFT.
- Ưu, nhược điểm của phương thức chuyển tiền.
+ Ưu điểm: Phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức tương đối
đơn giản, thủ tục nhanh gọn.
+ Nhược diểm: Phương thức này đòi hỏi quan hệ giao dịch giữa người mua
và người bán là hoàn toàn tin tưởng lẫn nhau nên mức độ rủi ro là cao nếu

một trong hai phía có ý đồ không trung thực trong quan hệ giao dịch.
1.2.2.2. Phương thức thanh toán mở tài khoản.
- Khái niệm: Nhà xuất khẩu mở tài khoản để ghi nợ nhà nhập khẩu sau khi
nhà xuất khẩu đã hoàn thành giao hàng hóa dịch vụ, định kỳ sau khi kiểm tra,
đối chiếu theo thoả thuận giữa hai bên nhà hập khẩu trả tiền cho nhà xuất
khẩu.
- Đặc điểm của phương thức:
Đây là phương thức không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng là
người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Chỉ mở tài khoản đơn biên không mở tài khoản song biên.
Nhà nhập khẩu mở tài khoản thì tài khoản này chỉ là tài khoản theo dõi
không có giá trị thanh quyết toán.
Chỉ có hai bên tham gia thanh toán là nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.
Do những đặc điểm trên mà phương thức mở tài khoản chỉ áp dụng trong
trường hợp người mua và người bán thực sự tin tưởng lẫn nhau hoặc dùng
trong mua bán hàng đổi hàng nhiều lần, thường xuyên trong một thời gian
nhất định, thanh toán tiền gửi bán hàng ở nước ngoài, thanh toán phi mậu
dịch.
1.2.2.3. Phương thức thanh toán nhờ thu.
- Khái niệm: là phương thức thanh toán mà nhà xuất khẩu sau khi giao hàng
hoặc cung ứng dịch vụ cho nhà nhập khẩu tiến hành uỷ thác cho ngân hàng
thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc chứng từ do nhà xuất khẩu lập.
- Các bên tham gia vào thanh toán:
Người có yêu cầu uỷ nhiệm thu: người cung ứng dịch vụ.
Ngân hàng nhận uỷ thác thu: ngân hàng phục vụ bên bán.
Ngân hàng xuất trình: ngân hàng thu hộ.
Người trả tiền: người nhập khẩu.

- Các hình thức nhờ thu:
+ Nhờ thu trơn: là phương thức thanh toán trong đó nhà xuất khẩu uỷ thác
cho ngân hàng phục vụ thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu căn cứ vào hối phiếu do
chính nhà xuất khẩu lập, các chứng từ thương mại có liên quan giao dịch nhà
xuất khẩu đã chuyển giao trực tiếp cho nhà nhập khẩu không qua ngân hàng.
Phương thức này không được áp dụng nhiều trong thanh toán mậu dịch do
phương thức này không đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu khi nhà nhập
khẩu có thể nhận hàng mà không trả tiền hoặc trả chậm tiền. Tuy nhiên, nhà
nhập khẩu cũng có rủi ro khi hối phiếu đến sớm hơn chứng từ thì họ sẽ phải
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
trả tiền ngay mà không chắc việc giao hàng của nhà xuất khẩu có đúng hợp
đồng không.
+ Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức thanh toán, nhà xuất khẩu uỷ
nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu không chỉ căn cứ vào hối
phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện
nếu nhà xuất khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền sẽ trao bộ chứng từ cho nhà
nhập khẩu nhận hàng.
Trong nhờ thu kèm chứng từ nhà xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài
việc thu hộ tiền còn nhờ ngân hàng khống chế chứng từ gửi hàng đối với nhà
nhập khẩu, đây là sự khác biệt cơ bản của hai phương thức nhờ thu trơn và
nhờ thu kèm chứng từ. Với điều kiện này quyền lợi của nhà xuất khẩu được
đảm bảo hơn.
Nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng khống chế quyền định đoạt hàng hoá
của nhà nhập khẩu nhưng không thể khống chế việc trả tiền của họ. Nhà nhập
khẩu vẫn có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận được chứng từ hoặc
có thể không trả tiền nếu có những vấn đề về kinh tế, chính trị bất lợi cho họ.
Việc trả tiền đôi khi còn chậm có thể kéo dài từ vài tháng đến một năm
không những vậy ngân hàng chỉ có vai trò trung gian chứ không có trách

nhiệm trong việc trả tiền của nhà nhập khẩu.
- Ưu, nhược điểm của phương thức nhờ thu.
+ Ưu điểm: Trong thanh toán mậu dịch phương thức nhờ thu trơn ít được sử
dụng vì không đảm bảo quyền lợi cho người bán do quá trình nhận hàng tách
khỏi khâu thanh toán khiến người bán có thể không nhận được tiền do người
mua chậm trễ thanh toán khi đã nhận được hàng hoặc ngược lại người mua
nếu nhận được hối phiếu sớm cũng phải thanh toán mà không chắc việc giao
hàng có đúng như các điều khoản thoả thuận hay không. Chính vì vậy,
phương thức nhờ thu kèm chứng từ được sử dụng nhiều hơn trong TTQT nó
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
có ưu điểm hơn là qua ngân hàng, ngân hàng khống chế chứng từ vận tải đối
với người mua do vậy quyền lợi của cả người mua và bán cũng được đảm bảo
hơn.
+ Nhược điểm: Tuy được áp dụng nhiều hơn nhưng phương thức nhờ thu
kèm chứng từ có một số nhược điểm như:
Việc trả tiền đôi khi còn quả chậm khoảng thời gian từ lúc giao hàng và
nhận tiền kéo dài nên gây rất nhiều khó khăn.
Ngân hàng trong phương thức này chỉ đóng vai trò trung gian thu tiền hộ
còn lại không có trách nhiệm gì nếu người mua không trả tiền. Do vậy, người
mua có thể kéo dài thời gian trả tiền nếu thấy tình huống bất lợi cho mình,
điều này gây bất lợi cho người bán nếu đã giao hàng cho người mua.
1.2.2.4. Phương thức thanh toán tín dụng dụng chứng từ (L/C).
- Khái niệm: là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi nhất
và ưu việt trong thanh toán quốc tế, là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng
(ngân hàng phát hành thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu
cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận
hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất
trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định

trong thư tín dụng.
Thư tín dụng là một cam kết thanh toán của ngân hàng cho nhà xuất khẩu
nếu như họ xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều
kiện của L/C.
- Các bên tham gia:
Người mở thư tín dụng là người mua, nhà nhập khẩu hàng hoá hoặc là
người mua uỷ thác cho một người khác.
Ngân hàng phát hành thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người mua và
ngân hàng cấp tín dụng cho người mua.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Ngân hàng thông báo là ngân hàng ở nước người hưởng lợi, ngân hàng này
thông báo tín dụng thư cho người hưởng lợi một cách trực tiếp hoặc thông
báo thông qua một ngân hàng khác.
Người hưởng lợi là người bán, nhà xuất khẩu hoặc bất kỳ người nào khác
mà người hưởng lợi chỉ định.
Ngoài ra trong từng trường hợp còn có thể có sự tham gia của các ngân
hàng khác như: ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng trả
tiền…
- Đặc điểm của L/C:
Ngân hàng và các bên tham gia liên quan chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ
không dựa trên hàng hoá và dịch vụ.
L/C phải chỉ rõ là huỷ ngang hay không huỷ ngang nếu không chỉ ra như
vậy sẽ được coi là không huỷ ngang.
Chứng từ được coi như không phù hợp với các điều khoản trong L/C nếu:
chứng từ mâu thuẫn với các điều khoản quy định trong L/C hay các chứng từ
mâu thuẫn với nhau.
Ngân hàng phát hành có một khảng thời gian hợp lý không quá 7 ngày để
kiểm tra chứng từ và xác định xem chứng từ có phù hợp hay kông phù hợp,

nếu quá thời gian ngân hàng không có quyền thông báo sai sót.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra chứng từ không quy định
trong L/C.
Nếu ngân hàng từ chối chứng từ thì phải thông báo bằng phương tiện
truyền thông trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ 7.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ do phát sinh trong qua
trình truyền tin.
- Các loại L/C:
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều loại thư tín dụng, tuỳ thuộc vào mối
quan hệ giữa người mua và người bán mà họ sử dụng các loại thư tín dụng
khác nhau.
* L/C có thể huỷ ngang: là loại L/C có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không
cần thông báo cho người hưởng lợi. Nó chứa đựng rủi ro đối với người bán vì
việc sửa đổi hoặc huỷ thư tín dụng có thể xảy ra khi hàng hoá đang trên
đường vận chuyển hoặc trước khi việc thanh toán được thực hiện. Vì vậy, loại
L/C này rất ít được sử dụng vì cả người mua và người bán đều e ngại tính bấp
bênh trong quá trình thanh toán.
* L/C không thể huỷ ngang: là loại L/C sau khi đã được ngân hàng mở thì
không thể sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ trong thời gian hiệu lực của nó nếu
chưa có sự thoả thuận của các bên tham gia. Tính đảm bảo của loại L/C này
rất cao nên nó được dùng khá phổ biến trong thanh toán thương mại quốc tế,
do trong quan hệ thanh toán quyền lợi của các bên tham gia thường mâu
thuẫn với nhau.
* Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận: là loại thư tín dụng
không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác xác nhận, điều đó có nghĩa là
ngoài sự cam kết của ngân hàng phát hành còn có thêm sự cam kết thanh toán
của ngân hàng xác nhận. L/C này thường được sử dụng trong trường hợp

hàng hóa dịch vụ do người bán cung cấp là hàng hoá dịch vụ khan hiếm rất
cần thiết đối với người mua.
* L/C có điều khoản đỏ: là loại L/C trong đó có một điều khoản ghi rõ điều
khoản đặc biệt ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc uỷ quyền cho ngân
hàng thông báo thực hiện ứng trước cho người hưởng một số tiền nhất định
trước khi giao hàng, thông thường số tiền ứng trước tính theo tỷ lệ % so với
giá trị L/C và phải xuất trình chứng từ tại ngân hàng mà họ đã nhận tiền ứng
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng - Tài chính
trc v phi bi hon li s tin ny nu khụng xut trỡnh chng t hp l
trong thi hn quy nh.
* L/C tun hon: l loi L/C khụng th hu ngang m sau khi s dng
xong hoc sau khi ht hn hiu lc L/C thỡ s t khụi phc li giỏ tr nh c
m khụng cn m L/C mi. L/C tun hon c dựng trong trng hp hai
bờn mua v bỏn nhng mt hng cú giỏ tr ln, cú mi quan h mua bỏn
thng xuyờn nh k hay ký mt hp ng cú giỏ tr ln giao hng lm nhiu
ln, ngi bỏn tin cy ngi mua. Loi L/C ny cú li cho ngi mua vỡ tit
kim c chi phớ m L/C lm nhiu ln giỏ tr mt L/C m nh hn, do ú
ngi mua khụng b ng vn trong trng hp phi ký qu.
* L/C chuyn nhng: l mt L/C m ngi hng u tiờn cú th yờu cu
ngõn hng phc v mỡnh chuyn nhng ton b hoc mt phn giỏ tr L/C
gc cho mt hoc nhiu ngi hng li th hai. Bi trong hot ng sn
xut thng cú mi quan h tớn dng thng mi, mt nh sn xut cú th
mua chu hng hoỏ ca mt nh cung cp lm u vo sn xut khi nh sn
xut c thanh toỏn h s tr cho nh cung cp, an ton nh cung cp yờu
cu L/C phi l L/C chuyn nhng. L/C ny s loi tr kh nng nh sn
xut sau khi nhn c tin hng trỡ hoón khụng tr cho nh cung cp.
* L/C giỏp lng: khi ngi hng nhn c mt L/C khụng phi L/C
chuyn nhng song khụng th t mỡnh cung cp hng hoỏ, khi ú h cú th

tho thun vi ngõn hng ca mỡnh phỏt hnh mt L/C th hai vi ni dung
tng t cho ngi cung cp hng hoỏ.
* L/C d phũng: do cn c ch yu ngõn hng tr tin l b chng t
do ngi bỏn xut trỡnh sau khi nhn c hng, nờn vn cú th xy ra ri ro
cho ngi mua khi ngi bỏn cú ý lm chng t gi nhn tin. m
bo quyn li ca mỡnh ngi mua yờu cu ngõn hng ca ngi bỏn phỏt
hnh mt L/C trong ú cú cam kt s thanh toỏn cho h trong trng hp
Nguyễn Thu Hơng Ngân hàng 45C
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
người bán không hoàn thành nghĩa vụ. Các L/C này thường có tính chất dự
phòng và dùng trong quan hệ một bên là người đặt hàng một bên là người sản
xuất.
* L/C đối ứng: ra đời để phục vụ cho phương thức mua bán hàng đổi
hàng hoặc trong gia công, khi đó người bán đồng thời là người mua và ngược
lại. Như vậy, người mua nguyên liệu mở cho người bán một L/C đảm bảo
thanh toán giá trị nguyên liệu nhập khẩu và L/C này chỉ có giá trị khi người
bán cam kết nhập lại những thành phẩm được sản xuất ra từ chính nguyên liệu
trên. L/C này đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, người mua thành phẩm mua
đúng hàng hoá làm từ nguyên liệu mà mình cung cấp, bên gia công được đảm
bảo về đầu ra yên tâm sản xuất vì sản phẩm có những đặc điểm riêng do
người đặt hàng theo đùng quy định.
- Ưu, nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ.
+ Ưu điểm: Đây là phương thức được sử dụng rộng rãi, với phương thức
này đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên trong giao dịch ở mức độ cao nhất.
Người bán sẽ thu đủ và đúng số tiền sau khi đã thực hiện nghĩa vụ của mình
theo các điều kiện của L/C, người mua cũng chỉ được yêu cầu thanh toán khi
đã nhận đủ hàng. Ngoài ra, thanh toán theo phương thức này cũng giúp ngân
hàng thu được phí trong hoạt động giao dịch và khả năng huy động tiền gửi
tăng lên.

+ Nhược điểm: Các quy định trong thanh toán phù hợp với thông lệ quốc tế
nhưng trong nhiều trường hợp gây khó khăn cho việc thu hút khách hàng
trong hoạt động thanh toán của ngân hàng. Để mở L/C nhập khẩu, khách hàng
phải qua nhiều thủ tục mất thời gian. Hơn nữa đối với những khách hàng lần
đầu tiên tham gia giao dịch phải chịu mức ký quỹ khá cao điều này an toàn
nhưng lại dễ làm mất khách hàng đối với ngân hàng.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
1.2.3. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại.
1.2.3.1. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thu hút khách hàng, mở rộng thị phần
kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính, thực hiện chức năng kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và cung ứng dịch vụ ngân hàng. Thông
qua hoạt động đa năng, ngân hàng thương mại đã thiết lập nên mối quan hệ
không chỉ với khách hàng trong nước mà còn thiết lập quan hệ với các tổ
chức kinh tế quốc tế khác và đã trở thành một chủ thể tham gia vào hoạt động
thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế đã trở thành chức năng ngân hàng
quốc tế của ngân hàng thương mại.
Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng không chỉ đóng vai trò trung gian
thanh toán, mà còn tư vấn cho khách hàng về điều kiện thanh toán, hướng dẫn
về kỹ thuật thanh toán nhằm giảm rủi ro, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng,
tạo sự an tâm, tin tưởng cho khách hàng trong giao dịch ngoại thương.
Trong điều kiện cạnh tranh giữa các ngân hàng, đặc biệt là với các ngân
hàng cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngày càng gay gắt và thêm
vào đó là xu hướng phát triển ngoại thương, đầu tư tài chính mang tính quốc
tế như hiện nay. Do đó thanh toán quốc tế là nghiệp vụ không thể thiếu giúp
ngân hàng thương mại có thể ít nhất là giữ được các khách hàng hiện có, đồng
thời tạo cơ hội thu hút khách hàng mới.

1.2.3.2. Thanh toán quốc tế góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng.
Ngoài việc nguồn vốn huy động tăng tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín
dụng, thông qua thanh toán quốc tế ngân hàng còn tạo ra nguồn thu đáng kể
từ thu phí dịch vụ thanh toán, tài trợ xuất khẩu, mua bán ngoại tệ…
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
1.2.3.3. Thanh toán quốc tế làm giảm rủi ro trong kinh doanh.
Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể quản lý việc sử
dụng vốn vay và giám sát được tình hình kinh doanh của khách hàng, tạo điều
kiện quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Mặt khác, việc kinh
doanh đa năng là phương sách hiệu quả để phân tán rủi ro trong kinh doanh
của ngân hàng.
1.2.3.4. Thanh toán quốc tế làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế không chỉ tạo điều kiện thu hút khách hàng,
làm tăng số dư tiền gửi thanh toán mà trong quá trình thực hiện các phương
thức thanh toán cho khách hàng đặc biệt là phương thức tín dụng chứng từ,
những khoản tiền ký quỹ mở thư tín dụng của khách hàng tạo ra nguồn vốn rẻ
và tương đối ổn định. Ngoài ra, các khoản khách hàng nộp để giải ngân thế
chấp lô hàng nhập khẩu do ngân hàng quản lý khi chưa đến hạn thanh toán
cũng là một nguồn tạo thanh khoản cho ngân hàng dưới hình thức tiền tập
trung chờ thanh toán.
1.2.3.5. Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại.
Thanh toán quốc tế giúp cho quy mô hoạt động của ngân hàng vượt ra khỏi
phạm vi quốc gia hoà nhập với các ngân hàng trên thế giới, góp phần nâng
cao uy tín ngân hàng nội địa trên trường quốc tế. Trên cơ sở đó, ngân hàng có
điều kiện phát triển quan hệ đại lý, khai thác nguồn tài trợ trên thị trường
quốc tế, nguồn tài trợ từ ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn phát
triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, thanh toán quốc tế không những có vai trò vi mô với nền kinh tế

mà vai trò vĩ mô của hoạt động này là không nhỏ. Hoạt động này góp phần
thúc đẩy ngoại thương - nền kinh tế đối ngoại phát triển, nó còn là chỉ tiêu
đánh giá kết quả kinh doanh của từng đơn vị kinh tế và cao hơn nữa là hiệu
quả kinh tế ngoại thương của một quốc gia.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
1.2.4. Rủi ro trong thanh toán quốc tế.
Cũng giống như các giao dịch thương mại trong nước, hoạt động thanh
toán quốc tế cũng chứa đựng một số rủi ro tiềm ẩn đó là những rủi ro phát
sinh trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế giữa các bên tham gia liên
quan tới những giao dịch quốc tế.
Thứ nhất, rủi ro về tín dụng. Đây là rủi ro mất khả năng thanh toán của một
trong các bên tham gia vào thanh toán đặc biệt trong phương thức tín dụng
chứng từ.
Nguyên nhân của rủi ro này chủ yếu do trong nền kinh tế thị trường các
doanh nghiệp cũng như các ngân hàng thương mại phải hoạt động trong môi
trường cạnh tranh gay gắt chịu sự chi phối chủ yếu của quy luật cung cầu nên
thường phải đối mặt với rủi ro từ mọi phía. Ngoài ra, do thông tin không đầy
đủ, nếu một bên không nắm vững tình hình tài chính uy tín khả năng thanh
toán của đối tác hoặc không kiểm tra được các thông tin kỹ thuật và hiệu quả
tài chính của dự án mà mình tài trợ thì rủi ro cũng là điều khó tránh khỏi.
Thứ hai, rủi ro về đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia cố tình
không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại tới những bên có liên
quan. Đây là vấn đề quan trọng trong thanh toán quốc tế vì các bên đối tác
tham gia giao dịch thường ở cách xa nhau.
Nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy
đủ, không cân xứng, vì vậy đã đưa ra những quyết định sai lầm gây nên rủi ro
trong thanh toán. Trong phương thức tín dụng chứng từ, theo UCP 500 quy
định việc thanh toán dựa vào chứng từ hồ sơ mà không căn cứ vào hiện trạng

của hàng hoá và sự tách biệt này đã tạo ra khe hở, rủi ro đạo đức vẫn có cơ sở
để tồn tại.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Thứ ba, rủi ro quốc gia. Là những rủi ro liên quan tới sự thay đổi về chính
trị, kinh tế, chính sách quản lý ngoại hối của một quốc gia khiến cho người
bán không nhận được tiền hàng và người mua không nhận được hàng.
Nguyên nhân của rủi ro này là do những biến cố về chính trị, kinh tế, xã
hội của một nước như: xung đột xã hội thông qua biểu tình, đình công bạo
động chiến tranh; hoặc do sự cấm vận về kinh tế của quốc tế; chính sách quản
lý ngoại hối của nước nhập khẩu đột ngột thay đổi; vấn đề nợ nước ngoài
chồng chất khiến chính phủ của nước nhập khẩu cấm thanh toán hoặc chuyển
tiền ngoại tệ ra nước ngoài…
Thứ tư, rủi ro pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp hay khiếu kiện
giữa các bên tham gia thanh toán.
Nguyên nhân chính là môi trường pháp lý và luật pháp giữa các bên
khác nhau, dù cho thanh toán quốc tế lựa chọn theo phương thức tín dụng
chứng từ được quy định trong UCP 500 song ở nững quốc gia khác nhau giao
dịch này cũng bị điều chỉnh phù hợp với luật pháp quốc gia. Luật pháp quốc
gia thường tôn trọng và ít khi đối đầu với thông lệ quốc tế nhưng không pải là
không có mâu thuẫn, nếu có sự đối nghịch với UCP thì luật pháp quốc gia sẽ
vượt lên trên tất cả và phải được tuân thủ. Vì vậy rủi ro pháp lý là không thể
tránh khỏi.
Thứ năm, rủi ro tác nghiệp. Đây là những rủi ro sai sót kỹ thuật do chính
các bên tham gia gây nên. Thường được thể hiện trong việc lập các chứng từ
hồ sơ không hoàn hảo, không đáp ứng đầy đủ các điều khoản, điều kiện của
các phương thức thanh toán tín dụng chứng từ hoặc hành động không đúng
theo UCP 500 và các thông lệ, tập quán quốc tế.
Nguyên nhân là do trình độ ngoại thương và thanh toán quốc tế của các

bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu khắt khe của L/C,
UCP 500 dẫn đến sai xót trong quá trình giao dịch từ lúc soạn thảo và ký kết
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
hợp đồng cho đến khi lập chứng từ, thanh toán. Ngoài ra cũng phải kể đến
trình độ nghiệp vụ, ý thức thực hiện nghiệp vụ của các thành viên tham gia
thiết lập hồ sơ thanh toán và các văn bản có liên quan.
Thứ sáu, rủi ro ngoại hối. Là rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định
bằng loại ngoại tệ nào đó, khi tỷ giá biến động sẽ gây tổn thất cho một trong
hai phía đối tác tham gia thanh toán. Trong giao dịch L/C các ngân hàng cũng
gặp một số rủi ro về ngoại hối, ngân hàng có trạng thái đoản về ngoại tệ khi
ngoại tệ này lên giá thì ngân hàng gặp phải rủi ro và ngược lại nếu trạng thái
ngoại tệ đó là trường thì khi ngoại tệ đó mất giá thì ngân hàng phải gánh chịu
tổn thất.
Nguyên nhân gây ảnh hưởng tới sự biến động của tỷ giá dẫn tới rủi ro
hối đoái đó là ảnh hưởng của sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm
phát của các nước hữu quan; mức chênh lệch lãi suất giữa các nước, giữa thị
trường tiền tệ nội địa và thị trường tiền tệ của quốc tế; trạng thái cán cân
thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ;…
1.3. Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại.
1.3.1. Quan điểm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế.
Theo đà phát triển của khoa học công nghệ điện tử viễn thông để hoạt
động thanh toán quốc tế phát triển thì các nghiệp vụ thanh toán cần phải ứng
dụng tốt công nghệ điện tử đó. Khi mà thương mại điện tử trở thành một mô
hình hoạt động thương nghiệp chưa từng có, nó đã dẫn tới sự cải cách sâu sắc
trong lĩnh vực thanh toán quốc tế mà mấu chốt là lưu động vốn. Sự ra đời của
thương mại điện tử đã đưa cả thế giới đứng trước hình thức thanh toán hoàn
toàn mới trong hệ thống ngân hàng. Để hoà chung với sự phát triển đó ngân
hàng thương mại cần phải phát triển không ngừng cả về dịch vụ lẫn nghiệp vụ

của mình.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Về nghiệp vụ, đào tạo cán bộ phù hợp với trình độ công nghệ tiên tiến hiện
đại từ đó tạo ra một vị thế cho ngân hàng, đồng thời cũng tạo ra sự tin cậy đối
với khách hàng.
Về dịch vụ, mở rộng các hình thức dịch vụ tạo cơ hội cho khách hàng
trong giao dịch ngoại thương. Với công nghệ thanh toán điện tử như hiện nay
thì tương ứng với nó là các chứng từ điện tử và nó sẽ dần thay thế cho các
chứng từ giấy do lợi ích mà chứng từ điện tử mang lại rất lớn như: tiết kiệm
chi phí và hình thức xử lý; giảm thiểu rủi ro và thời gian luân chuyển qua các
khâu; giảm bớt những sai sót trong khâu lập chứng từ mà đây là nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới việc thu tiền chậm của người hưởng lợi. Tiếp đến là phát triển
hình thức thanh toán bằng thẻ, đây là hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt và có thể sử dụng để thanh toán hàng hóa dịch vụ tại tất cả các điểm chấp
nhận thanh toán thẻ. Từ đó việc thanh toán quốc tế cũng sẽ trở nên dễ dàng
hơn tạo ra những bước tiến mới cho ngân hàng.
1.3.2. Các nhân tố tác động tới phát triển hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán của các ngân hàng thương mại chịu tác động của
nhiều nhân tố, không chỉ là những nhân tố vi mô mà bao gồm cả những nhân
tố vĩ mô:
1.3.2.1. Nhóm nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng.
- Thứ nhất, chiến lược kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Việc ngân hàng xây dựng chiến lược kinh doanh triển khai nghiệp vụ kinh
doanh đối ngoại sớm sẽ tạo cho ngân hàng đó có lợi thế ban đầu, tạo được bề
dày về kinh nghiệm và chiếm lĩnh được thị phần phục vụ trong việc kinh
doanh xuất nhập khẩu.
Địa bàn hoạt động cũng là yếu tố rất quan trọng. Hầu hết doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu đều tập trung tại các thành phố lớn, nơi vốn đã

diễn ra sự canh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong việc tiếp
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
thị đối với khách hàng. Do vậy, việc chậm đưa hoạt động thanh toán quốc tế
vào những địa bàn này thì ngân hàng sẽ không thu hút được khách hàng tiềm
năng đặc biệt nếu không có đội ngũ cán bộ chuyên môn cao, công nghệ ngân
hàng hiện đại và nguồn lực tài chính đủ mạnh.
Tóm lại, để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường phục vụ khách hàng xuất
nhập khẩu ngân hàng phải có chiến lược kinh doanh tổng thể, đồng bộ.
- Thứ hai, khả năng nguồn lực của ngân hàng thương mại.
Đáp ứng yêu cầu của hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng thương mại
phải có hệ thống ngân hàng đại lý đủ để đáp ứng nhu cầu dịch vụ của khách
hàng, đây là điều kiện phát triển hoạt động thanh toán quốc tế ở cả hai chiều:
thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu. Ngoài ra, ngân hàng luôn luôn
phải có nguồn vốn, nguồn ngoại tệ đủ lớn, các hoạt động tín dụng và kinh
doanh ngoại tệ phát triển, điều kiện cung ứng dịch vụ linh hoạt, lãi suất, tỷ
giá, phí, điều kiện bảo lãnh, vay vốn…bên cạnh đó là đội ngũ cán bộ có
chuyên môn cao.
Về công nghệ, công nghệ ngân hàng tiên tiến hiện đại sẽ góp phần phát
triển thêm các dịch vụ mới; nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy nhanh quá trình
thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch với khách hàng. Bởi thanh
toán quốc tế thường liên quan tới khoảng cách không gian và thời gian nên
khi công nghệ phát triển thì sẽ tiết kiệm được chi phí nâng cao hiệu quả và uy
tín. Hiện nay để có thể thực hiện chức năng thanh toán quốc tế, ngân hàng
thương mại phải tham gia ít nhất vào một mạng truyền tin có tính bảo mật cao
như SWIFT. Ngoài ra có thể dùng một số mạng khác như Telex…
Trong tương lai gần, khi thương mại điện tử chính thức thực được hiện tại
Việt Nam, ngân hàng sẽ phải từng bước chuẩn bị cơ sở hệ thống công nghệ
thông tin đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của nghiệp vụ thanh toán quốc tế.

- Thứ ba, chính sách khách hàng.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Để duy trì và phát triển mọi mặt hoạt động của ngân hàng nói chung hoạt
động thanh toán quốc tế nói riêng, ngân hàng cần phải có tầm nhìn chiến lược
trong xây dựng chính sách khách hàng. Lựa chọn đối tượng khách hàng, tạo
dựng mối quan hệ bền chặt, áp dụng chính sách linh hoạt và tạo ra uy tín ngày
càng cao. Việc xếp loại khách hàng không chỉ căn cứ vào chất lượng quan hệ
tín dụng mà còn kể đến uy tín của khách hàng trong thanh toán.
- Thứ tư, uy tín của ngân hàng thương mại trong thanh toán quốc tế.
Uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế là
tiêu chí tổng hợp từ rất nhiều yếu tố: chất lượng dịch vụ, kỹ thuật xử lý
nghiệp vụ, khả năng thanh toán,…Một ngân hàng có uy tín là điều kiện đầu
tiên để khách hàng (hoặc bên đối tác của họ) lựa chọn giao dịch. Nhờ đó uy
tín của bản thân khách hàng cũng được đảm bảo và nâng lên, độ rủi ro giảm
đi và khách hàng giảm được chi phí mua hàng và không phải trả thêm các phí
phát sinh từ việc ngân hàng giao dịch có uy tín không cao. Đây là điều kiện
quan trọng để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, tăng doanh thu mở rộng
thị phần thanh toán quốc tế. Tuy nhiên uy tín của một ngân hàng không chỉ
phụ thuộc vào ngân hàng trung ương của nó quyết định mà còn phụ thuộc
phần lớn vào uy tín của mỗi chi nhánh thành viên.
1.3.2.2. Một số nhân tố khác.
- Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ.
Các chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi một nước được đưa nhằm mục đích
điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế của nước đó. Trong các chính sách
này có một số chính sách ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động ngoại thương và
ảnh hưởng gián tiếp đền hoạt động thanh toán quốc tế như: chính sách thuế,
chính sách quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu, chính sách kinh tế đối ngoại,
chính sách quản lý ngoại hối.

NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
Đối với chính sách thuế và chính sách quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu
nếu chính sách đưa ra không hợp lý sẽ dẫn đến hạn chế xuất khẩu hoặc thu
hẹp nhập khẩu hoặc hạn chế cả hai xuất nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng tới việc
giảm kim ngạch xuất nhập khẩu. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ của nhà nước đối
với hoạt động xuất nhập khẩu cũng như thanh toán quốc tế là rất cần thiết bởi
những hoạt động này mang tính rủi ro cao.
Chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách ngoại thương nói
riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động thanh toán quốc tế.
Kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực rất rộng bao gồm các hoạt động ngoại
thương, đầu tư tài chính, dịch vụ quốc tế, chuyển giao công nghệ và nhiều
hoạt động kinh tế khác, trong đó hoạt động ngoại thương là một hoạt động
trọng tâm và chính sách kinh tế đối ngoại chính là cơ sở nền tảng và có tác
động trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế.
Chính sách ngoại hối là những quy định liên quan tới pháp lý, những thể lệ
của ngân hàng nhà nước trong vấn đề quản lý ngoại tệ, quản lý vàng bạc đá
quý và những giấy tờ có giá trị bằng ngoại tệ; cũng như việc trao đổi, sử dụng
mua bán ngoại tệ trên thị trường và trong quan hệ thanh toán, tín dụng với
nước ngoài…với chức năng là trung gian thanh toán, khi thực hiện thanh toán
quốc tế, hệ thống ngân hàng thương mại đóng vai trò kiểm soát luồng tiền ra
vào của một đất nước. Vì vậy, các ngân hàng thương mại được phép tham gia
hoạt động thanh toán quốc tế phải tuân thủ đầy đủ, chấp hành nghiêm ngặt
các quy định về quản lý ngoại hối do ngân hàng nhà nước ban hành. Ngược
lại, nếu chính sách ngoại hối của nhà nước đưa ra không đúng đắn sẽ tác động
xấu đến cán cân thanh toán từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cân đối
ngoại tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế của ngân hàng.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
23

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
- Sự phát triển của hoạt động ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng quan trọng
nhất tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Sự phát triển của kinh tế
đối ngoại và đặc biệt là hoạt động ngoại thương sẽ làm phát sinh nhiều nhu
cầu thực hiện nghĩa vụ tiền tệ của quốc gia này với một quốc gia khác. Đây
chính là điều kiện để ngân hàng thương mại phát triển nghiệp vụ thanh toán
quốc tế của mình.
- Tỷ giá hối đoái.
Trong hoạt động thanh toán quốc tế, thông thường ngoại tệ mạnh tự do
chuyển đổi sẽ được sử dụng trong các giao dịch. Để xác định giá trị quy đổi
của đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác, các nước dùng tỷ giá hối
đoái. Tỷ giá hối đoái là một nhân tố nhạy cảm được xác định bởi mối quan hệ
cung cầu trên thị trường tiền tệ. Không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động xuất
nhập khẩu, biến động của tỷ giá còn ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Việc cân nhắc mua bán ngoại tệ trở nên rất khó khăn khi tỷ
giá thay đổi liên tục, bất thường và hậu quả là nguồn ngoại tệ phục vụ thanh
toán bị ảnh hưởng. Từ đó các ngân hàng buộc phải lựa chọn: hoặc chấp nhận
co hẹp hoạt động thanh toán quốc tế, hạn chế đối tượng khách hàng hoặc phải
chịu lỗ về kinh doanh ngoại tệ, bù lại ngân hàng sẽ giữ được khách hàng. Nếu
biết chọn thời điểm và tính toán khả năng cân đối ngoại tệ cân nhắc lợi ích
tổng thể từ các dịch vụ khác do hoạt động thanh toán quốc tế đem lại như
nguồn tiền gửi, ký quỹ, tín dụng, dịch vụ phí…có thể sẽ trở thành cơ hội cho
ngân hàng thu hút thêm một lượng khách hàng mới.
- Môi trường pháp lý.
Để tạo khả năng hội nhập với cộng đồng quốc tế trong thương mại quốc tế
cũng như trong hoạt động thanh toán quốc tế, khung pháp lý của mỗi quốc gia
đòi hỏi phải được bổ sung hoàn thiện theo hướng chuẩn mực quốc tế. Hoạt
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
24

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng - Tµi chÝnh
động thanh toán quốc tế một mặt thực hiện theo các quy chuẩn quốc tế, mặt
khác phải tuân thủ các quy định pháp luật liên quan của mỗi quốc gia. Do
vậy, đứng ở góc độ quản lý nhà nước các văn bản pháp lý phải được ban hành
một cách đồng bộ, tránh chồng chéo, bất cập sẽ dẫn đến buông lỏng hoặc sơ
hở đồng thời phải đảm bảo phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra cơ sở pháp
lý đầy đủ và hoàn chỉnh cho hoạt động thanh toán quốc tế.
NguyÔn Thu H¬ng Ng©n hµng 45C
25
CN Nhân Chính
CN Hùng Vương
Hành Chính

×