Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Báo cáo sáng kiến Nâng cao kỹ năng giải bài tập di truyền phân tử (ADN) sinh học lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.9 KB, 45 trang )

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bảo Thắng, ngày 15 tháng 02 năm 2012
Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến huyện Bảo Thắng
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thúy Mai
Sinh ngày: 18 tháng 7 năm 1961
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Nơi cơng tác: Trường THCS thị trấn Phố Lu
Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm. Khoa Sinh học
A. Tên sáng kiến
NÂNG CAO KĨ NĂNG GIẢI BÀI TẬP DI TRUYỀN PHÂN TỬ (ADN) SINH
HỌC LỚP 9- THCS
B. Mơ tả các giải pháp
I- Lí do chọn đề tài
Ngày nay khối lượng tri thức khoa học trên thế giới khám phá ra ngày càng
tăng như vũ bão nên chúng ta khơng thể hi vọng rằng trong thời gian nhất định ở
trường phổ thơng có thể cung cấp cho học sinh một kho tàng tri thức khổng lồ mà
lồi người đã tích luỹ được. Vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên khơng những
phải cung cấp cho học sinh vốn tri thức cơ bản mà điều quan trọng là còn phải
trang bị cho học sinh khả năng tự làm việc, tự nghiên cứu để tìm hiểu và nắm bắt
tri thức.
Phương pháp dạy học ngày nay là phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học, thầy là người chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn người học giúp
người học tìm ra kiến thức.
Mặt khác Sinh học là một bộ mơn khó và mang tính chất trừu tượng cao, đặc
biệt là phần bài tập Di truyền phân tử lại càng khó và rất mới mẻ đối với học sinh
lớp 9 THCS vì nó nghiên cứu về vật chất Di truyền của các cơ thể sống. Sinh học
là mơn khoa học cơ bản trong nhà trường, nó góp phần hình thành nhân cách và là
cơ sở để học tập, nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới phương pháp, sử dụng
các kĩ thuật dạy học trên cả nước. Mỗi thầy, cô giáo chúng ta phải có nhiệm vụ


1
xây dựng cho mình một phương pháp giảng dạy tích cực để khắc phục phương
pháp giảng dạy thụ động truyền thụ kiến thức một chiều
Vì vậy việc tìm ra phương pháp nâng cao chất lượng dạy học là một vấn đề
cực kì quan trọng.
Với mong muốn được góp một phần nhỏ bé để thực hiện tốt nhiệm vụ trên,
với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, tơi đã tích lũy được một số kinh nghiệm
giúp giáo viên làm tốt việc hướng dẫn học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc
giải các bài tập phần Di truyền phân tử. Từ đó xây dựng cho các em niềm ham mê
nghiên cứu, ham thích học tập bộ mơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của
nhà trường. Muốn học tốt, dạy tốt mơn Sinh học khơng thể thiếu kĩ năng này và
đây cũng chính là nền tảng để các em học sinh tiếp thu tốt mơn Sinh học bậc
THPT. Do đó nội dung chủ yếu của kinh nghiệm này là một số kinh nghiệm của
bản thân đã rút ra trong q trình giảng dạy trực tiếp mơn Sinh học 9 tại trường
THCS thị trấn Phố Lu, với kinh nghiệm này tơi mong muốn sẽ giúp đỡ các em
nâng cao kĩ năng giải một số dạng bài tập Di truyền trong chương trình SGK và
trong sách nâng cao của bộ mơn Sinh học lớp 9 THCS.
II- Q trình thực hiên
1- Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của sáng kiến là hướng dẫn học sinh cách nghiên cứu, lòng say mê
học tập bộ mơn, tìm tòi tài liệu trên nhiều kênh thơng tin góp phần phát triển khả
năng tư duy trừu tượng, óc sáng tạo cùng với các thao tác tư duy: rèn luyện kỹ
năng phân tích, tổng hợp, từ đó đưa ra phương pháp giải một số dạng bài tập Di
truyền phân tử bộ mơn Sinh học một cách chính xác. Để làm được điều đó giáo
viên cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng nhìn nhận các vấn đề một cách tổng qt
từ những nội dung trừu tượng đến những vấn đề cụ thể, tập nhìn nhận một bài tập
theo quan điểm động, có kĩ năng thiết lập mối quan hệ giữa dữ kiện của bài tập với
những kiến thức lý thuyết Di truyền Sinh học đã học.
Để đạt được những mục đích trên, ngồi việc nắm chắc kiến thức cơ bản của
chương trình, các em phải được cọ sát với việc giải một số bài tập khó, đa dạng, vì

vậy đòi hỏi các em phải biết vận dụng nội dung kiến thức, phương pháp thích hợp
để tìm ra đáp án đúng cho bài tập Di truyền Sinh học.
Chính vì những lí do trên tơi thiết nghĩ việc “Nâng cao kĩ năng giải bài tập
Di truyền phân tử Sinh học lớp 9- THCS” là rất cần thiết và nếu làm tốt kĩ năng
này sẽ giúp các em có thái độ nghiêm túc, đúng đắn, ham mê học tập bộ mơn và
đặc biệt là các em khơng còn “sợ” bài tập Sinh học như trước đây
2- Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 9

– trường THCS thị trấn Phố Lu.
3- Phạm vi nghiên cứu.
Các dạng bài tốn Di truyền phân tử trong chương trình Sinh học 9 THCS
gồm: hai dạng cơ bản
2
- Bài toán về cấu tạo ADN
- Bài toán về cơ chế nhân đôi ADN.
III- Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết phương pháp tích cực là một thuật ngữ rút gọn được
dùng ở nhiều nước, để chỉ những phương pháp giáo dục dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt động
nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Rõ ràng là cách dạy chỉ đạo
cách học nhưng ngược lại thói quen học tập của trò có ảnh hưởng tới cách dạy của
thầy.
Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác của thầy và trò, có sự phối
hợp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Thuật ngữ :
“ phương pháp tích cực” hàm chứa cả phương pháp dạy của thầy và phương
pháp học của trò.

Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương
pháp tích cực, người học– đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của
hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ
đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải tự
động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình
huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, thí nghiệm,
giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm được kiến
thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó,
không rập theo khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà
còn hướng dẫn hành động.
Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tích cực xem
việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa học
kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu trẻ khối
lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ phương pháp học
ngay từ bậc tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho
người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ
lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ được
nhân lên gấp bội.
Vì vậy ngày nay, người ta nhấn mạnh mọi hoạt động học trong quá trình dạy–
học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt
3
vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau
bài học trên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học việc đánh
giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định hiện trạng học và điều chỉnh hoạt
động dạy của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng học và điều

chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ
năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan đến điều này, giáo viên cần
tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau, tự đánh giá
đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là một năng lực rất cần cho sự thành đạt
trong cuộc sống mà nhà trường cần phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người
năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra đánh giá không thể
dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải
khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống
thực tế.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực
chiếm lĩnh kiến thức nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình.
Để làm được điều này giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều
mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố
vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi, hào hứng, tranh luận sôi nổi của học
sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành
nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn
biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên
Học sinh lớp 9 ở lứa tuổi 14 và 15, ở giai đoạn này các em muốn tự khẳng
định mình, ưa thích hoạt động tự quản, có năng lực tư duy, phân tích, tổng hợp,
năng động sáng tạo trong học tập. Do đó trên cơ sở của bài giảng đã được nghiên
cứu giáo viên có thể nâng cao vai trò của học sinh với những dự kiến có định
hướng tạo điều kiện cho học sinh tham gia xây dựng bài, có như vậy hiệu quả giờ
dạy mới cao.
Muốn làm được như vậy giáo viên cần hướng cho học sinh biết cách giải
quyết vấn đề từng bước một, măt khác phải hình thành cho các em kĩ năng nghiên

cứu sách giáo khoa, tài liệu tham khảo
III. Nội dung giải pháp
1, Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài :
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Sinh học lớp 9 THCS, so sánh với chương
trình Sinh học trước đây. Tài liệu sách giáo khoa hiện nay học sinh phải đối mặt
với một khối kiến thức hoàn toàn mới, đặc biệt là phần Di truyền học kiến thức rất
4
trừu tượng, thời lượng cho việc chữa bài tập lại quá ít, học sinh tiếp thu kiến thức
đã khó, nhưng khi áp dụng để làm bài tập lại càng khó hơn, đây là điểm bế tắc nhất
của các em trong học sinh học lớp 9-THCS. Vì vậy, để phát huy tính tích cực học
tập của học sinh gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc hình thành và nâng cao kĩ
năng giải bài tập Sinh học cho các em lại càng khó khăn hơn.
Để thực hiện biện pháp của mình, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành điều
tra tình hình học tập bộ môn Sinh học của các em học sinh ở khối lớp 9 như sau :
Em hãy cho biết suy nghĩ của em khi học và giải các bài tập phần Di truyền
phân tử (ADN) trong chương trình Sinh học lớp 9 ?
Thích Không thích Dễ học Khó học
30% 30% 10% 30%
Kết quả bài kiểm tra phần Di truyền phân tử (ADN) bao gồm cả phần lí thuyết
và bài tập của bộ môn Sinh học 9 qua 3 năm gần đây như sau
Năm học
Dưới trung bình Trên trung bình Khá, giỏi
Lớp
chọn
Đại trà
Lớp
chọn
Đại trà
Lớp
chọn

Đại trà
2007-2008 12 % 23% 73 % 72% 15 % 5%
2008-2009 12 % 23% 72 % 71% 16 % 6%
2009-2010 11% 22% 72,5 % 71,5% 16,5 % 6,5%
Qua điều tra sơ bộ cho thấy chất lượng học tập của học sinh, tỉ lệ điểm dưới
trung bình ở các lớp đại trà còn chiếm với tỉ lệ khá cao. Với trách nhiệm của người
thầy tôi nghiên cứu, tìm hiểu rõ nguyên nhân của việc học sinh có chất lượng học
phần Di truyền phân tử quá yếu là do kiến thức trừu tượng, khó học, khó nhớ vì
vậy việc hiểu và giải được các bài tập phần này lại càng khó. Vì vậy cần phải sử
dụng phương pháp dạy học tích cực để nâng dần chất lượng dạy và học đáp ứng
được yêu cầu giáo dục hiện tại và lâu dài.
2- Quá trình thực hiện:
Để có được buổi hướng dẫn học sinh giải bài tập Di truyền phân tử đạt kết
quả. Tôi đã nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, các bài dạy lí thuyết, đúc rút ra thành
hai phần
- Phần thứ nhất: Tóm tắt nội dung kiến thức cơ bản trước khi soạn bài, đọc
các tài liệu tham khảo về sinh học nâng cao dành cho giáo viên và học sinh ôn thi
học sinh giỏi, tham khảo một số đề thi học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh, các sách viết
về chuyên đề sinh học lớp 9 do Bộ Giáo dục và một số tỉnh bạn biên soạn. Kết
hợp với chương trình dạy lớp 9 tôi đã biên soạn thành hệ thống nội dung kiến thức
và bài tập theo mạch kiến thức từ dễ đến khó sao cho phù hợp với từng đối tượng
học sinh do tôi phụ trách.
5
- Phần thứ hai: tìm tòi, nghiên cứu để lựa chọn nội dung cơ bản của tiết dạy,
chọn phương pháp phù hợp để học sinh tiếp thu kiến thức của bài học một cách
thoải mái, không bị gò bó, thụ động, gây được sự hứng thú học đối với học sinh.
Từ đó đã định ra những kiến thức cần chuẩn bị cho học sinh. Những thao tác tư
duy cần được sử dụng thành thạo, những đơn vị kiến thức cần truyền thụ, trao đổi
với các đồng nghiệp trong nhóm, tổ chuyên môn, từng bước thử nghiệm qua từng
bài dạy, chuẩn bị các kiến thức cơ bản cho nội dung bài này. Giảng kỹ các kiến

thức đã dạy, đặc biệt là kiến thức cơ bản, trọng tâm trong chương trình sinh học
lớp 9-THCS.
Tôi xin phép được trình bày một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học
sinh giải bài tập Di truyền phân tử Sinh học 9 mà tôi thấy có hiệu quả rõ rệt trong
việc nâng cao kĩ năng giải bài tập. Các dạng này có rất nhiều bài tập, sau đây là
một số bài tập điển hình phù hợp với quá trình tiếp thu của học sinh lớp 9-THCS.
Mỗi nội dung kiến thức đều được chia làm hai phần:
- Phần 1: Tóm tắt kiến thức cơ bản.
- Phần 2: Các dạng bài tập, công thức và phương pháp giải
A/ Phần cấu tạo ADN.
I- Tóm tắt kiến thức cơ bản
- Phân tử ADN (Axit đê ô xi ri bônuclêic) có kích thước và khối lượng lớn, có
cấu tạo đa phân, do nhiều đơn phân hợp lại.
- Mỗi đơn phân là một nuclêôtit có chiều dài 3,4A
0
và khối lượng trung bình
là 300 đvC. Có 4 loại nuclêôtit là A,T,G,X.
- Các nuclêôtit liên kết nhau tạo thành 2 mạch pôlinuclêôtit. Các nuclêôtit trên
2 mạch của ADN liên kết theo từng cặp, gọi là nguyên tắc bổ sung.
* A liên kết với T bằng 2 liên kết hiđrô.
* G liên kết với X bằng 3 liên kết hiđrô.
- Bốn loại nuclêôtit sắp xếp với thành phần, số lượng và trật tự khác nhau tạo
cho ADN vừa có tính đa dạng vừa có tính đặc thù.
II- Các dạng bài tập và phương pháp giải:
Gồm 4 dạng cơ bản.
Dạng 1: Tính chiều dài, số lượng nuclêôtit và khối lượng của phân tử ADN.
1-Hướng dẫn và công thức:
Hai mạch pôlinuclêôtit của ADN xếp song song nhau nên chiều dài của ADN
bằng chiều dài của một mạch.
Kí hiệu: * N: số số nuclêôtit của ADN.


2
N
: số nuclêôtit của 1 mạch.
• L: Chiều dài của ADN
6
• M: Khối lượng của ADN.
Mỗi nuclêotit dài 3,4A và có khối lượng trung bình là 3000đvC nên:
L=
2
N
.3,4AN =
2 ( )
3,4
L A
M= Nx3000đvC.
2- Bài tập áp dụng và hướng dẫn giải:
Bài số 1: Một phân tử ADN dài 1,02mm. Xác định số lượng nuclêotit và
khối lượng của phân tử ADN.
Giải:
Chiều dài của phân tử ADN:
1,02mm = 1,02 x 10
7
A
0.
Số lượng nuclêôtit của phân tử ADN:
N=
2
3,4
xL

=
7
2 1,02 10
3,4
x x
= 6.10
6
= 6000000 (nu).
Khối lượng của phân tử ADN:
M = N . 300đvC = 6. 10
6
. 300 = 18 .10
8
đvc
Dạng 2: Tính số lượng và tỉ lệ từng loại nuclêôtit của phân tử ADN.
1-Hướng dẫn- Công thức.
Theo nguyên tắc bổ sung, trong phân ADN, số nuclêôtit loại ađênin luôn
bằng timin và loại guanin luôn bằng xitôzin: A = T; G = X.
- Số lượng nuclêôtit cuả phân tử ADN.
A + T + G + X = N
Hay 2A + 2G = NA + G =
2
N
.
- Suy ra tương quan tỉ lệ các loại nucl ê ô tit trong phân tử ADN.
A + G = 50%N T + X = 50% N.
2-Bài tập và hướng dẫn giải:
Bài 2: Một đoạn phân tử ADN có khối lượng là 1440000đvC và có số
nuclê ôtit loại ađênin là 960.
a, Tính số lượng và tỉ lệ phần trăm từng loại nuclêôtit của đoạn phân tử ADN

b, Tính chiều dài của đoạn ADN.
Giải.
a, Số lượng và tỉ lệ từng loại nuclêôtit của đoạn ADN.
Tổng số nuclêôtit của đoạn ADN.
7
N =
300
M
=

1440000
300
= 4800 (nu).
Số lượng và tỉ lệ từng loại nuclêôtit của đoạn ADN.
A = T = 960 (Nu) =
960
4800
. 100% = 20%
Suy ra: G = X = 50% - 20% = 30%.
= 30% x 4800 = 1440 (nu).
b, Chiều dài của đoạn phân tử ADN :
L =
2
N
.3,4A
0
=
4800
2
x 3,4A

0
= 8160A
0
.
Dạng 3 : Xác định trình tự và số lượng các loại nuclêôtit trên mỗi mạch
pôlinuclêôtit của phân tử ADN.
1-Hướng dẫn- Công thức.
Xác định trình tự nuclêôtit trên mỗi mạch của phân tử ADN dựa vào nguyên
tắc bổ sung: A trên mạch này liên kết với T trên mạch kia và G trên mạch này liên
kết với X trên mạch kia.
Gọi A
1
, T
1
, G
1
, X
1
, lần lượt là số nuclêôtit mỗi loại trên mạch thứ nhất và A
2
, T
2
G
2
X
2
lần lượt là số nuclêôtit mỗi loại trên mạch thứ hai.
Dựa vào nguyên tắc bổ sung (NTBS), ta có :
A
1

, T
1
, G
1
, X
1
(mạch 1) A
1
= T
2
T
1
= A
2
T
2
, A
2
, X
2
, G
2
(mạch 2) G
1
=X
2
X
1
= G
2

A =T = A
1
+ A
2
G = X = G
1
+ G
2
.
2-Bài tập áp dụng :
Bài 3: Một gen có chiều dài 5100A
0
và có 25% Ađênin. Trên mạch thứ nhất
có 300 Timin và trên mạch thứ hai có 250 Xitôzin. Xác định:
a, Số lượng từng loại nuclêôtit của cả gen.
b, Số lượng từng loại nuclêôtit của mỗi mạch gen.
Giải
a, Số lượng từng loại nuclêôtit của cả gen:
Tổng số nuclêôtit của gen;
N=
2.
3,4
L
=
2 5100
3,4
x
= 3000(nu)
8
A=T = 25%. Suy ra: G=X= 50%-25%= 25%.

Vậy số lượng từng loại nuclêôtit của gen đều bằng nhau.
A = T = G = X = 25% x 3000= 750(nu)
b, Số lượng từng loại nuclêôtit của mỗi mạch gen :
Theo đề bài và theo NTBS, ta có :
A
1
= T
2
= 300(Nu).Suy ra : A
1
= T
2
= A - A
1
= 750 - 300= 450(nu)
Suy raG
1
= X
2
= G - G
1
= 750 - 250 = 500(nu).
Bài 4 : Gen có khối lượng 707400đvC.
Trên mạch thứ nhất của gen có 320 Ađênin và 284 Tinin. Trên mạch thứ hai
của gen có 325Guanin. Xác định số lượng từng loại nuclêôtittrên mỗi mạch gen và
của cả gen.
Giải.
Số lượng nuclêôtit của gen.
N =
300

M
=
707400
300
= 2358(nu).
Số lượng nuclêôtit trên mỗi mạch gen
2
N
=
2358
2
= 1179(nu).
Theo đề bài và theo NTBS, ta có số lượng từng loại nuclêôtit trên mỗi mạch gen :
A
1
= T
2
= 320(nu)
T
1
= A
2
= 284(nu)
X
1
= G
2
= 325 (nu).
Áp dụng : A
1

+ T
1
+ G
1
+, X
1
=
2
N
.
Suy ra : G
1
=
2
N
- (A
1
+ T
1
+ X
1
).
Nên : G
1
=X
2
= 1179- (320+284+325)= 250(nu).
Số lượng từng loại loại nuclêôtitcủa cả gen.
A = T = A
1

+ A
2
= 320+284=604(nu) A
2
G=X= G
1
+ G
2
=250+325= 575(nu).
Dạng 4 : Tính số liên kết Hyđrô của phân tử ADN.
1- Hướng dẫn- Công thức :
Trong phân tử ADN :
- A trên mạch này liên kết với T trên mạch kia bằng 2 liên kết hyđrô
9
- T trên mạch này liên kết với X trên mạch kia bằng 3 liên kết hyđrô.
- Gọi H là số liên kết hyđrô của phân tử ADN.
H = (2 x số cặp A - T) + (3 x số cặp G - X).
Số cặp A – T = số A ; Số cặp G-X= số G.
Nên : H = 2A + 3G.
2- Bài tập áp dụng :
Bài 5 : Một gen có 2700 nuclêôtit và có hiệu số giữa A với G bằng 10% số
nuclêôtit của gen.
a, Tính số lượng từng loại nuclêôtit của gen.
b, Tính số liên kết hyđrô của gen.
Giải.
a, Số lượng từng loại nuclêôtit của gen
Theo đề bài: A- G = 10%
Theo NTBS: A + G = 50%
Suy ra: 2A = 60%
Vậy: A=T=

60%
2
= 30%
G = X = 50%- 30% = 20%
Số lượng từng loại nuclêôtit của gen :
A = T= 30% x 2700= 810(nu).
G = X= 20% x2700=540(nu).
b, Số liên kết hyđrô của gen.
H= 2A + 3G = (2 x 810) + (3 x 540) = 3240 liên kết.
Bài 6: Một gen có 2720 liên kết hyđrôvà có số nuclêôtit loại X là 480. Xác
định:
a, Số lượng từng loại nuclêôtit của gen.
b, Chiều dài của gen
Giải
a) Số lượng từng loại nuclêôtit của gen.
Theo đề bài G=X=480(nu)
Gen có 2720 liên kết hyđrô, nên
H= 2A+3G

2720=2.A+ (3x480)
10
Suy ra: A=
2720 (3 480)
2
x−
= 640(nu).
Vậy lượng từng loại nuclêôtit của gen: A=T=640(nu); G=X=480(nu).
b) Chiều dài gen:
Số lượng nuclêôtittrên một mạch gen:
2

N
= A + G= 480 + 640 =1120(nu).
Chiều dài của gen: L=
2
N
.3,4 A
0
= 1120 x 3,4 A
0
=3808 A
0
.
III- Bài tập tổng hợp về cấu tạo ADN.
Bài 7: Một đoạn phân tử ADN dài 11220A
0
và có 8910 liên kết hiđrô.
a)Tính số lượng từng loại nuclêôtit của đoạn ADN.
b) Trên mạch thứ nhất của đoạn ADN có 270 ađênin và trên mạch thứ hai có
615 guanin. Xác định số lượng từng loại nuclêôtit trên mỗi mạch của đoạn ADN.
Giải.
a) Số lượng từng loại nuclêôtit của đoạn ADN.
Số lượng nuclêôtit của đoạn ADN:
N =
2
3,4
l
=
0
2 11220
3,4

X A
= 6600(nu).
Đoạn ADN có 8910 liên kết hiđrô nên:
2A + 3G = 8910
Áp dụng: N = 2A = 2G = 6600. Suy ra: G = 2310(nu).
A + G =
2
N

A =
2
N
- G =
6600
2
- 2310 = 990(nu).
Vậy số lượng từng loại nuclêôtit của đoạn ADN là:
A = T =990(nu); G = X = 2310(nu).
b, Số lượng từng loại nuclêôtit trên mỗi mạch của đoạn ADN
Theo đề bài và theo NTBS, ta có:
A
1
=T
2
= 270(nu)

T
1
=A - A
1

= 990 - 270 =720(nu)
X
1
= G
2
=615 (nu).
G
1
= X
2
= G - G
2
= 2310 – 615 = 1695(nu).
11
Bài 8: Hai gen đều có số liên kết hiđrô bằng nhau là 2760.Gen I có 840
ađênin.
Gen II có 480 ađênin. Cho biết gen nào dài hơn? Xác định chênh lệch chiều
dài ấy là bao nhiêu?
Giải.
- Xét gen I;
2A + 3G =2760
(2 x 840) + 3G = 2760.
Suy ra:G =
2760 (2 840)
3
x−
=
360(nu).
- Số lượng nuclêôtit của mỗi mạch gen:


2
N
= A + G = 840 + 360 = 1200(nu)
Chiều dài của gen thứ nhất:

L =
2
N
x 3,4A
0
= 1200 x 3,4A
0
= 4080A
0
.
- Xét gen II.
2A + 3G =2760
(2 x 480) + 3G = 2760.
Suy ra:G =
2760 (2 480)
3
x−
= 600(nu).
Số lượng nuclêôtit của mỗi mạch gen:
2
N
= A + G = 480 + 600 = 1080 (nu).
Chiều dài của gen II :
L =
2

N
x 3,4A
0
= 1080 x 3,4A
0
= 3672A
0
.
Vậy gen I dài hơn gen II và chênh lệch đó là;
4080A
0
- 3672A
0
= 408A
0
Bài 9 : Hai gen có chiều dài bằng 4080A
0
.Gen thứ nhất có hiệu số giữa A và
G bằng 5% số nuclêôtit của gen. Gen thứ hai có số nuclêôtit loại A ít hơn so với
loại A của gen thứ nhất là 180 nuclêôtit.
a, Tính số lượng từng loại nuclêôtit của mỗi gen.
b, Tính số liên kết hiđrô có trong hai gen trên.
Giải
12
a, Số lượng từng loại nuclêôtit của mỗi gen.
Hai gen dài bằng nhau đề có số nuclêôtit giống nhau là:
N =
2
3,4
l

=
2 4080
3,4
x
= 2400 (nu)
- Xét gen thứ nhất:
A – G = 5%.:
A + G = 50%
Suy ra: 2A = 55%

A =
55%
2
= 27,5%.
G = 50% - 27,5% = 22,5%
Số lượng từng loại nuclêôtit của gen.thứ nhất:
A = T = 27,5% x 2400 = 660 (nu).
G = X = 22,5% x 2400 = 540 (nu).
- Xét gen thứ hai :
A cuả gen thứ hai ít hơn A của gen thứ nhất 180 nuclêôtit.
Suy ra: số lượng từng loại nuclêôtit của gen thứ hai là:
A = T = A
genI
- 180 = 660 – 108 = 480 (nu).
G = X =
2
N
- A =
2400
2

- 480 = 720 (nu).
b, Số liên kết hiđrô :
- Số liên kết hiđrô của gen I :
H
I
= 2. A
genI
+ 3. G
genI
= (2 x 660) + (3 x 720) = 3120 liên kết H .
- Tổng số liên kết hiđrô của hai gen:
2940 + 3120 = 6060 liên kế
B- Cơ chế nhân đôi ADN.
I- Tóm tắt kiến thức cơ bản
Dưới tác dụng của enzim, 2 mạch đơn của phân tử ADN lần lượt tách các liên
kết hiđrô từ đầu này đến đầu kia. Khi ấy, các nu clêôtit tự do của môi trường nội
bào lần lượt di chuyển vào liên kết với các nu clêôtit của 2 mạch đơn theo đúng
nguyên tắc bổ sung.
- A của mạch liên kết với T của môi trường
- T của mạch liên kết với A của môi trường
- G của mạch liên kết với X của môi trường
- X của mạch liên kết với G của môi trường.
13
Kết quả từ một phân tử ADN mẹ hình thành 2 phân tử ADN con giống hệt
nhau và giống với ADN mẹ. Trong mỗi phân tử ADN con có một mạch đơn nhận
từ ADN mẹ và một mạch đơn còn lại được liên kết từ các nuclêôtit của môi trường.
Quá trình nhân đội ADN còn gọi là quá trình tự sao.
II- Các dạng bài tập và phương pháp giải.
Dạng 1: Tính số lần nhân đôi của ADN và số phân tử ADN được tạo ra qua
nhân đôi.

1, Hướng dẫn- Công thức: Phân tử ADN thực hiện nhân đôi
Số lần nhân đôi Số ADN con
1 2 = 2
1
2 4 = 2
2
3 8 = 2
3
Gọi x là số lần nhân đôi của ADN thì số phân tử ADN được tạo ra là: 2
x

2. Bài tập và hướng dẫn giải:
Bài 10: Một gen nhân đôi một số lần và đã tạo được 32 gen con. Xác định số
lần nhân đôi của gen.
Giải.
Gọi x là số lần nhân đôi của gen, ta có số gen con tạo ra là:
2
x
= 32 = 2
5
.
Suy ra x = 5.
Vậy gen đã nhân đôi 5 lần.
Bài 16 : Một đoạn phân tử ADN có trật tự các nuclêôtit trên một mạch đơn
như sau :
- A – T – X – A–G – X – G – T – A
a, Xác định trật tự các nuclêôtit của môi trường đến bổ sung với đoạn mạch trên.
b, Viết hai đoạn phân tử ADN mới được hình thành từ quá trình nhân đôi của doạn
ADN nói trên.
Giải

a, Trật tự các nuclêôtit của môi trường :
- T – A – G – T – X – G – X – A - T
b, Hai đoạn ADN mới :
Theo đề bài và theo NTBS, đoạn ADN đã cho có trật tự các cặp nuclêôtit như sau :
- A – T – X – A – G – X - G – T – A-
14
- T – A – G – T – X – G – X – T – A-
Hai đoạn ADN mới giống hệt đoạn ADN đã cho :
- A – T – X – A – G – X -G – T – A-
- T – A – G – T – X – G – X – T – A-
- A – T – X – A – G – X -G – T – A-
-T – A – G – T – X – G – X – T – A-
Dạng 2 : Tính số lượng nuclêôtit môi trường cung cấp cho ADN nhân đôi.
1- Hướng dẫn- Công thức.
Nếu x là số lần nhân đôi của ADN thì.
- Tổng số nuclêôtit môi trường cung cấp :
.nu mt

= (2
x
- 1). N
ADN
.
- Số lượng nuclêôtit từng loại môi trường cung cấp :
A
mt
= T
mt
= (2
x

- 1). A
ADN
.
G
mt
= X
mt
= (2
x
- 1). G
ADN
.
1- Bài tập và hướng dẫn giải.
Bài 11 : Mạch 1 của gen có 200 ađênin và 120guanin; mạch 2 của gen có
150a đênin và 130 guanin. Gen đó nhân đôi 3 lần liên tiếp. Xác định từng loại
nuclêôtit môi trường cung cấp cho gen nhân đôi.
Giải.
Số lượng từng loại nuclêôtit gen.
A = T = A
1
+ A
2
= 200 + 150 – 350 (nu)
G = X = G
1
+ G
2
= 120 + 130 – 250 (nu).
Số lượng từng loại nuclêôtit môi trường cung cấp cho gen nhân đôi :
A

mt
= T
mt
= (2
3
- 1) . A gen = (2
3
- 1) . 350 = 2450 (nu)
G
mt
= X
mt
= (2
3
- 1) . G gen = (2
3
- 1) . 250 = 1750 (nu)
Bài 12 : Gen có 600 ađênin và có G =
3
2
A. Gen đó nhân đội một số đợt, môi
trường cung cấp 6300 guanin
a, Xác định số gen con được tạo ra.
b, Xác định số liên kết hiđrô của gen.
15
Giải
a, Số gen con:
Gen có: A = T =600 (nu)
G = X =
3

2
A =
3
2
x 600 = 900 (nu)
Gọi x là số lần nhân đôi của gen, ta có số guanin môi trường cung cấp cho
gen nhân đôi là :
G
mt
= (2
x
- 1) . G gen.


6300 = (2
x
- 1) . 900


(2
x
- 1) =
6300
900
= 7
Số gen con được tạo ra.
2
x
= 7 + 1 = 8 gen.
b, Số liên kết hiđrô của gen :

H = 2A + 3G
= (2 x 600) + (3 x 900)
= 3900 liên kết.
Dạng 3: Tính số liên kết hyđrô bị phá vỡ trong quá trình nhân đôi ADN.
1, Hướng dẫn- Công thức:
Nếu phân tử ADN chứa H liên kết hy đrô (H = 2A + 3G) nhân đôi x lần thì:
Số liên kết hyđrô bị phá là (2
x
- 1). H.
2, Bài tập và hướng dẫn giải:
Bài 13: Một gen có chiều dài 4182 A
0
và có 20% ađênin. Gen nhân đôi 4 lần.
Xác định:
a, Số gen con được tạo ra.
b, Số lượng từng loại nuclêôtit môi trường đã cung cấp cho gen nhân đôi.
c, Số liên kết hyđrô bị phá vỡ trong quá trình nhân đôi của gen.
Giải
a, Số gen con: 2
x
= 2
4
= 16 gen.
b, Số lượng từng loại nuclêôtit môi trường đã cung cấp:
Gen có: N =
2
3,4
L
=
2 4182

3,4
x
= 2460 (nu).
16
Số lượng từng loại nuclêôtit của gen:
A = T = 20% x 2460 = 492 (nu).
G = X =
2
N
- A =
2460
2
- 492 = 738 (nu).
Số lượng từng loại nuclêôtit môi trường đã cung cấp cho gen nhân đôi :
A
mt
= T
mt
= (2
x
- 1). A
= (2
4
- 1) x 492 = 7380 (nu).
G
mt
= X
mt
= (2
x

- 1). G
= (2
4
- 1) x 738 = 11070 (nu)
c, Số liên kết hyđrô bị phá.
Số liên kết hyđrô của gen ;
H = 2A + 3G
= (2 x 492) + (3 x 738) = 3198 liên kết.
Số liên kết hyđrô bị phá vỡ trong quá trình nhân đôi của gen;
(2
x
- 1). H = (2
4
- 1) x 3198 = 47970 liên kết.
Bài 14 : Một gen nhân đôi 3 lần đã phá vỡ tất cả 22680 liên kết hyđrô, gen đó
có 360 ađênin.
a, Tính số lượng từng loại nuclêôtit của gen.
b, Tính số liên kết hyđrô có trong các gen con tạo ra.
Giải
a, Số lượng từng loại nuclêôtit của gen.
Gọi H là số liên kết hyđrô của gen. Áp dụng công thức tính số liên kết hyđrô
bị phá trong nhân đôi của gen.
(2
x
- 1). H = (2
3
- 1). H = 22680
Suy raH =
3
22680

2 1−
= 3240 liên kết.
2A + 3G = HHay (2 x 360) + 3G = 3240

G =
3240 (2 360)
3
x−
= 840 (nu)
Vậy số lượng từng loại nuclêôtit của gen:
A = T = 360 (nu).
G = X =840 (nu)
b, Số liên kết hyđrô có trong các gen con
17
Số gen con tạo ra: 2
x
= 2
3
= 8 gen.
Số liên kết hyđrô có trong các gen con
3240 x 8 = 25920 liên kết.
C- CHÚ Ý KHI LÀM BÀI TẬP DI TRUYỀN PHÂN TỬ.
1. Đối với dạng bài cấu tạo ADN:
- Giáo viên phải cung cấp cho học sinh phần Hướng dẫn và công thức giải đối
với từng dạng bài.
- Giải mẫu cho học sinh ít nhất mỗi dạng 01 bài.
- Yêu cầu học sinh tự giải sau đó đối chiếu với bài mẫu của giáo viên.
2- Đối với dạng bài cơ chế nhân đôi ADN
- Giáo viên tóm tắt kiến thức cơ bản của phần cơ chế nhân đôi của ADN.
- Giới thiệu các dạng bài tập cơ bản và hướng dẫn cách giải đối với từng

dạng.
- Học sinh tự giải
3- Kết quả khảo sát sau khi thực hiện đề tài.
Sau gần hai năm thực hiện đề tài, áp dụng vào giảng dạy đã làm thay đổi rõ
rệt về ý thức của học sinh, phá bỏ được quan niệm coi bộ môn Sinh học là môn
“phụ”, không còn “sợ” làm bài tập phần Di truyền học, chất lượng học sinh tăng
lên rõ rệt. Qua kết quả khảo sát thể hiện ở bài kiểm tra nội dung phần Di truyền
học đã khẳng định điều này.
Năm học
Dưới trung bình Trên trung bình Khá, giỏi
Lớp
chọn
Đại trà
Lớp
chọn
Đại trà
Lớp
chọn
Đại trà
2010-2011 5% 15% 40% 73,5% 35% 11,5%
H.Kì I
2011-2012
4,7% 14% 39,3% 72% 36% 12%
C. Tính mới của giải pháp.
Việc thực hiện đề tài ‘Nâng cao kĩ năng giải bài tập Di truyền phân tử Sinh
học lớp 9-THCS” học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, phát huy tính tích cực, chủ động, tính năng động sáng tạo trong học tập,
đáp ứng yêu cầu của phương pháp dạy học tích cực “Lấy học sinh làm nhân vật
trung tâm”. Giúp giáo viên phối hợp linh hoạt giữa các phương pháp và kĩ thuật
dạy học tạo không khí lớp học sôi nổi, tích cực, chủ động, tiết học nhẹ nhàng, hiệu

quả.
Học sinh không còn thấy “Khó” và “Sợ” làm bài tập Di truyền.
18
D. Hữu ích của giải
Đề tài đã quan tâm tới tinh thần đổi mới của phương pháp dạy học trong
trường THCS đó là đề cao vai trò chủ động, tích cực của học sinh trong hoạt động
nhận thức, cảm thụ và ứng dụng các kiến thức, kĩ năng giải bài tập, giáo viên
không chỉ là người biết truyền thụ kiến thức, kĩ năng Sinh học cho học sinh mà có
cả vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi để khám phá, chiếm lĩnh tri thức.
Giúp giáo viên có định hướng đúng khi soạn giảng, tạo ra những bài giảng đạt hiệu
quả cao. Tạo được hứng thú học tập, ham mê nghiên cứu, óc sáng tạo, nâng cao
hiệu quả học tập. Phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh, góp
phần đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo trong công việc, đáp ứng yêu cầu mới
của thời đại.
Đối với giáo viên: Từ khi nghiên cứu và áp dụng đề tài trong phần dạy về Di
truyền học đã xác định chính xác những kiến thức cơ bản, thiết lập các mối quan
hệ, xây dựng được công thức và hướng dẫn giải đối với từng dạng bài cụ thể cho
phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Đối với học sinh: Khi các em đã có kĩ năng thành thạo về giải bài tập, lớp học
sôi nổi hơn, không khí lớp học không còn nhàm chán, tẻ nhạt, nặng nề. Học sinh
tích cực hoạt động chiếm lĩnh tri thức, từ đó kết quả học tập được nâng lên rõ rệt.
Học sinh không chỉ ham thích học phần Di truyền học mà môn Sinh học cũng được
các em đón nhận hào hứng, có nhiều học sinh xung phong vào các đội tuyển học
sinh giỏi môn Sinh học và đạt giải cao trong các kì thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp
tỉnh.
E. Khả năng phổ biến và nhân rộng
Đề tài “Nâng cao kĩ năng giải bài tập Di truyền phân tử môn Sinh học lớp
9THCS” được áp dụng cho tất cả học sinhlớp 9-THCS. Mục tiêu cơ bản của đề tài
này là đào tạo những con người có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của
cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo. Khắc

phục lỗi truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học,
từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình
giáo dục. Đề tài nghiên cứu của tôi đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả trong
giảng dạy phần Di truyền học môn Sinh học lớp 9, góp phần tích cực vào việc nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được đúc kết trong quá trình
giảng dạy tại trường THCS đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả tại trường THCS
thị trấn Phố Lu, rất mong được sự góp ý của hội đồng thẩm đinh và các bạn đồng
nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN CẤP TRÊN NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN
(ký, ghi rõ họ và tên)
19
20
21
ĐẶT VẤN ĐỀ
I- Lí do chọn đề tài
Ngày nay khối lượng tri thức khoa học trên thế giới khám phá ra ngày càng
tăng như vũ bão nên chúng ta khơng thể hi vọng rằng trong thời gian nhất định ở
trường phổ thơng có thể cung cấp cho học sinhmột kho tàng tri thức khổng lồ mà
lồi người đã tích luỹ được. Vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên khơng những
phải cung cấp cho học sinh vốn tri thức cơ bản mà điều quan trọng là còn phải
trang bị cho học sinh khả năng tự làm việc, tự nghiên cứu để tìm hiểu và nắm bắt
tri thức.
Phương pháp dạy học ngày nay là phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học, thầy là người chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn người học giúp
người học tìm ra kiến thức.
Mặt khác Sinh học là một bộ mơn khó và mang tính chất trừu tượng cao, đặc
biệt là phần bài tập Di truyền phân tử lại càng khó và rất mới mẻ đối với học sinh
lớp 9THCS vì nó nghiên cứu về vật chất Di truyền của các cơ thể sống, các q
trình sống và đặc biệt nó gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Sinh học

là mơn khoa học cơ bản trong nhà trường, nó góp phần hình thành nhân cách và là
cơ sở để học tập, nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới phương pháp, sử dụng
các kĩ thuật dạy học trên cả nước. Mỗi thầy, cô giáo chúng ta phải có nhiệm vụ
xây dựng cho mình một phương pháp giảng dạy tích cực để khắc phục phương
pháp giảng dạy thụ động truyền thụ kiến thức một chiều
Vì vậy việc tìm ra phương pháp nâng cao chất lượng dạy học là một vấn đề
cực kì quan trọng.
Với mong muốn được góp một phần nhỏ bé để thực hiện tốt nhiệm vụ trên,
với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, tơi đã tích lũy được một số kinh nghiệm
giúp giáo viên làm tốt việc hướng dẫn học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc
giải các bài tập phần Di truyền phân tử. Từ đó xây dựng cho các em niềm ham mê
nghiên cứu, ham thích học tập bộ mơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của
nhà trường. Vì trong nội dung để học tốt, dạy tốt mơn Sinh học khơng thể thiếu kĩ
năng này và đây cũng chính là nền tảng để các em học tốt mơn sinh học bậc THPT.
Do đó nội dung chủ yếu của kinh nghiệm này là một số kinh nghiệm của bản thân
đã rút ra trong q trình giảng dạy trực tiếp mơn Sinh học 9 tại trường THCS thị
trấn Phố Lu, với kinh nghiệm này tơimong muốn sẽ giúp đỡ các em để các em có
kĩ năng giải một số dạng bài tập di truyền trong chương trình SGK và trong sách
nâng cao của bộ mơn Sinh học lớp
9-THCS.
II / Mục đích và nhiệm vụ của sáng kiến
Mục đích của sáng kiến là dạy học sinh cách nghiên cứu, lòng say mê học tập
bộ mơn, tìm tòi tài liệu góp phần phát triển khả năng tư duy trừu tượng, sáng tạo
cùng với các thao tác tư duy: rèn luyệnkỹ năng phân tích, tổng hợp, từ đó đưa ra
22
phương pháp giải một số dạng bài tập Di truyền phân tử bộ môn Sinh học một cách
chính xác. Để làm được điều đó giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng nhìn
nhận các vấn đề một cách tổng quát từ những nội dung trừu tượng đến những vấn
đề cụ thể, tập nhìn nhận một bài tập theo quan điểm động, có kĩ năng thiết lập mối

quan hệ giữa dữ kiện của bài tập với những kiến thức lý thuyết Di truyền Sinh học
đã học.
Để đạt được những mục đích trên, ngoài việc nắm chắc kiến thức cơ bản của
chương trình, các em phải được cọ sát nhiều với việc giải một số bài tập khó, đa
dạng, vì vậy đòi hỏi các em phải biết vận dụng từng nội dung kiến thức, từng phư-
ơng pháp thíc hợp để tìm ra đáp án đúng cho bài tập Di truyền Sinh học.
Chính vì những lí do trên tôi thiết nghĩ việc “Hình thành kĩ năng giải bài tập
Di truyền phân tử Sinh học 9- THCS” là rất cần thiết và nêú làm tốt kĩ năng này
giúp các em có thái độ nghiêm túc, đúng đắn , đặc biệt là các em không còn “sợ”
bài tập Sinh học như trước đây.
III/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Học sinh khối 9

– trường THCS thị trấn Phố Lu.
IV/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Các dạng bài toán Di truyền phân tử trong chương trình Sinh học 9 THCS
gồm: hai dạng cơ bản
- Bài toán về cấu tạo ADN
- Bài toán vềcơ chế nhân đôi ADN.
Phần hai:
NỘI DUNG
I/ Thực trạng.
1- Đánh giá tình hình
1.1- Thuận lợi:
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm sât sao chuyên môn, thường xuyên
kiểm tra dự giờ để rút kinh nghiệm cho giáo viên. Trường có đội ngũ giáo viên
giầu kinh nghiệm, nhiệt tình, tâm huyết với nghề.
Trường THCS thị trấn Phố Lu từ nhiều năm nay đã luôn là đơn vị đứng đầu
toàn huyện về số học sinh tham gia thi và đạt giải học sinh giỏi cấp huyện và cấp
tỉnh môn Sinh học.

Học sinh trên địa bàn thi trấn Phố Lu hầu hết đều ngoan, chăm học, một số
em thông minh tiếp thu kiến thức nhanh, có ý thức và tinh thần học tập cao. Các
em lại được tiếp nhận kiến thức qua nhiều phương tiện truyền thông để mở mang
thêm hiểu biết. Điều kiện học tập tốt, nhà trường được trang bị nhiều thiết bị, đồ
23
dùng học tập, SGK và các tài liệu tham khảo. Đa số gia đình các em đầu tư và
giành nhiều thời gian cho các em học tập.
2.1-Khó khăn:
Thời lượng phân phối cho phần bài tập Di truyền phân tử Sinh học quá ít (1
tiết), số dạng bài tập nhiều và mới mẻ đối với học sinh.
Tài liệu tham khảo, đặc biệt là các sách bài tập Sinh học được trang bị còn ít.
II- Nội dung- Giải pháp
Phương pháp tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở nhiều nước, để
chỉ những phương pháp giáo dục dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học.
Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt động
nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Rõ ràng là cách dạy chỉ đạo
cách học nhưng ngược lại thói quen học tập của trò có ảnh hưởng tới cách dạy của
thầy.
Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác của thầy và trò, có sự phối
hợp hoạt động dạy với hoạt đông học thì mới thành công. Thuật ngữ :
“ phương pháp tích cực” hàm chứa cả phương pháp dạy và phương pháp học
Phương pháp dạy học tích cực được nêu ra những đặc trưng sau :
Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương
pháp tích cực, người học– đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của
hoạt động học– được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và
chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải tự
động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình

huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, thí nghiệm,
giải quyết vấn đê đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm được kiến
thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức kĩ năng đó,
không rập theo khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà
còn hướng dẫn hành động.
Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tích cực xem
việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa học
kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bãothì không thể nhồi nhét vào đầu trẻ khối
lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ phương pháp học
ngay từ bậc tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.
24
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho
người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ
lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ được
nhân lên gấp bội.
Vì vậy ngày nay, người ta nhấn mạnh mọi hoạt động học trong quá trình dạy–
học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt
vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau
bài học trên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học việc đánh
giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định hiện trạng học và điều chỉnh hoạt
động dạy của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng học và điều
chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây thường quan niệm giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh.
Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng
tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan đến điều này, giáo viên cần tạo
điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau, tự đánh giá đúng

và điều chỉnh hoạt động kịp thời là một năng lực rất cần cho sự thành đạt trong
cuộc sống mà nhà trường cần phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người
năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra đánh giá không thể
dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải
khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống
thực tế.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực
chiếm lĩnh kiến thức nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêukiến thức, kĩ
năng,thái độ theo yêu cau của chương trình.
Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng
hiểu được khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều
so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là
người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi, hào
hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu
rộng, có trình độ sư phạm lành nghe mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động
của học sinh mà nhieu khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên
2, Kết quả khảo sáttrước khi thực hiện đề tài :
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Sinh học lớp 9 THCS, so sánh với chương
trình Sinh học trước đây. Tài liệu sách giáo khoa hiện nay học sinh phải đối mặt
với một khối kiến thức hoàn toàn mới, đặc biệt là phần Di truyền và Biến dị kiến
thức rất trừu tượng, thời lượng cho việc chữa bài tập lại quá ít, học sinh tiếp thu
kiến thức đã khó, nhưng khi áp dụng để làm bài tập lại càng khó hơn, đây là điểm
25

×