1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên sáng kiến: “Giải pháp đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa trên địa bàn huyện Bảo Thắng”.
Họ và tên: Lê Quang Minh
Sinh ngày: 28/10/1965
Chức vụ: Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện
Nơi công tác: UBND huyện Bảo Thắng
Bảo Thắng, ngày 18 tháng 10 năm 2013
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bảo Thắng, ngày 18 tháng 10 năm 2013
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp huyện.
Họ và tên tác giả: Lê Quang Minh
Ngày tháng năm sinh: 28/10/1965
Chức vụ: Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện.
Đơn vị công tác: UBND huyện Bảo Thắng.
Trình độ chuyên môn: Cử nhân tài chính, học viện hành chính.
Đề nghị công nhận sáng kiến, kinh nghiệm:
Giải pháp đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá” trên địa bàn huyện Bảo Thắng.
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN NGƯỜI VIẾT
Lê Quang Minh
2
1. Tên sáng kiến, kinh nghiệm: Giải pháp đẩy mạnh phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn huyện.
2. Nội dung sáng kiến, kinh nghiệm
Bảo Thắng là 1 huyện vùng thấp của tỉnh Lào cai, có tổng diện tích đất
tự nhiên là 67.298 ha, có 22.694 hộ với 103.517 khẩu, có 17 dân tộc anh em
sinh sống ở 264 thôn, tổ dân phố ở 15 xã, thị trấn, có đa sắc màu văn hóa của
các dân tộc. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), với mục đích
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, với giải
pháp lớn là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đới sống văn hóa”,
gắn với các phong trào thi đua trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
như: Phong trào xây dựng và nêu gương“Người tốt, việc tốt”, phong trào
“thi đua chuyển dịch cơ cấu kinh tế xóa đói giảm nghèo”, phong trào “Phụ
nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình văn hoá”; phong
trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” , và nhiều phong trào thi đua sôi
nổi khác, trong đó phong trào “xây dựng gia đình văn hoá” được xác định
là nòng cốt của phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
Được triển khai, một cách đồng bộ, tất cả đều hướng về xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, lấy nhân tố văn hóa và xây dựng
nếp sống văn hoá làm nền tảng để thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Kết
quả, năm 2000 toàn huyện chỉ có 10.150 hộ gia đình văn hóa (đạt 34,5%), so
với tổng số hộ gia đình trong toàn huyện. Thì đến năm 2009 toàn huyện có
16.208 hộ gia đình văn hóa (đạt 63%). Riêng năm 2010 có 18.367 hộ gia
đình đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu văn hóa ( Đạt 72%). Năm 2000 toàn
huyện có 43/255 thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa, đến năm 2009 toàn
huyện có 141/264 thôn; tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa ( đạt 53%), tăng
30,49% so với năm 2000, năm 2012 có 185/264 thôn, tổ dân phố đăng ký
danh hiệu văn hóa (đạt 70%). Duy trì hoạt động của 20 đội văn nghệ và phối
hợp tổ chức trên 320 đêm biểu diễn văn nghệ tại cơ sở, tổ chức 120 cuộc thi
đấu và giao hữu thể thao các môn bóng chuyền, bóng bàn, bóng đá, cầu lông,
kéo co, đẩy gậy, bắn nỏ, với nhiều hoạt động đa dạng, nội dung phong
phú; số lượng cơ quan, đơn vị văn hóa ngày càng tăng. Năm 2000 toàn
huyện có 41/150 cơ quan đơn vị đạt danh hiệu văn hóa (Đạt 27,3%), đến
năm 2009 có 160/175 cơ quan đơn vị đạt danh hiệu văn hóa (đạt 91%), tăng
63,70% so với năm 2000. Năm 2012 có 186/186 cơ quan, đơn vị đăng ký
3
phấn đấu đạt danh hiệu văn hóa ( Đạt 100%), Toàn huyện có 19.909 người
thường xuyên rèn luyện thể thao (đạt 20,5 % dân số trong toàn huyện) 85/85
trường học thực hiện TDTT ngoại khoá tốt; có 47 đội, câu lạc bộ thể thao
thường xuyên hoạt động; 1.258 gia đình thể thao (đạt 5%/tổng số hộ toàn
huyện), bình quân hàng năm tổ chức từ 15 cuộc thi đấu thể thao tại thôn;
cụm dân cư và các xã, thị trấn; tổ chức 04 giải thể thao tại huyện và tham gia
4-5 giải thể thao do tỉnh tổ chức. Phong trào “Học tập, lao động sáng tạo”
tiếp tục được đẩy mạnh, phát động ở khắp các cơ quan, đơn vị nhà nước đến
các công ty, doanh nghiệp và vựng nụng thụn sản xuất nụng nghiệp. Công
tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong những năm qua đã
có những bước phát triển mạnh mẽ, thu hút được sự quan tâm của toàn xã
hội, đến nay toàn huyện đã thành lập được 37 trung tâm học tập cộng đồng ở
các Xã, TT, thành lập được 267 chi hội khuyến học ở cơ sở với tổng số
11.431 hội viên tham gia, có 2.469 hộ gia đình hiếu học cấp huyện, 1.780 hộ
gia đình hiếu học cấp tỉnh ,. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang, lễ hội và tín ngưỡng ở nơi thờ tự của huyện đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Ban Chỉ đạo toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá các
cấp đó chỉ đạo, hướng dẫn và vận động nhân dân tích cực hưởng ứng, thực
hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị 27/CT-TW của Bộ chính trị; Quyết định số
308/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 02/2008/QĐ-UBND
của UBND huyện về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội và tín ngưỡng nơi thờ tự; Trong việc cưới: Thực hiện quy định
pháp luật trong hôn nhân, theo số liệu thống kê, năm 2000 chỉ có 60% số đôi
nam nữ thuộc đồng bào dân tộc thiểu số khi xây dựng gia đình đến UBND
xã, thị trấn đăng ký kết hôn, đến nay đó tăng lên 98%. Đồng bào không còn
thách cưới nhiều bằng bạc trắng, rượu, thịt, trâu, bò như trước đây mà thay
vào đó là những đám cưới được tổ chức đơn giản, tiết kiệm nhưng vui vẻ,
hạnh phúc phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình. Giai đoạn 2000-2010,
nhân dân các dân tộc ở các thôn, tổ dân phố đã thực hiện chủ trương xã hội
hóa xây dựng thiết chế văn hóa thể thao cơ sở, quyên góp được trên 2 tỷ
đồng cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước xây dựng được 135 nhà văn hóa thôn;
tổ dân phố, nâng tổng số nhà văn hóa trong toàn huyện lên 235 nhà đạt 78%/
tổng số thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của
Nhà văn hóa; huyện đã đầu tư trang thiết bị cho các nhà văn hóa bằng nhiều
nguồn vốn khác nhau, nguồn vốn chương trình mục tiêu văn hóa và vốn ngân
4
sách huyện đã cấp trang thiết bị cho 131 nhà văn hóa thôn với tổng kinh phí
là 861.913.000đ, Nhà văn hoá thôn, tổ dân phố đã trở thành điểm vui chơi
sinh hoạt văn hoá văn nghệ luyện tập TDTT, là trung tâm sinh hoạt cộng
đồng, là nơi phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật, tổ chức bồi dưỡng
chuyển giao khoa học kỹ thuật và dạy nghề cho nhân dân, một số nhà văn
hoá còn là nơi học tập của các lớp mẫu giáo thôn bản. 195 nhà văn hoá đã có
đội văn nghệ. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
tác động tích cực vào việc phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các
chỉ tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, vẫn còn một số những tồn tại hạn chế đó là: phong
trào ở một số cơ sở chưa được chú trọng đúng mức; việc triển khai thực hiện
kế hoạch, chương trình của Ban chỉ đạo Trung ương, tỉnh, huyện chưa kịp
thời; chưa đề ra kế hoạch, chương trình cụ thể để triển khai thực hiện, hoặc
đề ra nhưng không được thực hiện hay thực hiện chưa tốt. Chất lượng thôn, tổ dân
phố văn hoá chưa đồng đều và chưa ổn định; số lượng gia đình văn hoá còn
thấp, tập quán, hủ tục lạc hậu trong sinh hoạt chưa được xoá bỏ triệt để; thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang ở một số cơ sở mức độ
chuyển biến chậm, nhất là ở các thôn vùng cao, vùng nông thôn tệ buôn bản
phụ nữ, bất bình đẳng giới vẫn còn, tai nạn giao thông, nghiện hút ma tuý có
giảm nhưng chưa đáng kể .
3. Tính mới của sáng kiến, kinh nghiệm: Có được kết quả trên là do
có sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể có tính
quyết định, then chốt trong việc quán triệt, tuyên truyền cho đảng viên, cán
bộ và nhân dân nhận thức sâu sắc đầy đủ ý nghĩa, mục đích, nội dung của
phong trào. Xây dựng nghị quyết chuyên đề, mục tiêu kế hoạch và biện pháp
tổ chức thực hiện phải cụ thể. Trong đó đảng viên, cán bộ phải là người đầu
tầu, gương mẫu thực hiện để nhân dân làm theo; giao trách nhiệm cho từng
ngành, từng đảng viên, cán bộ theo dõi, chỉ đạo từng thôn, cụm dân cư; Ban
chỉ đạo các cấp hoạt động hiệu quả, có sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ. Có
bước đi vững chắc, vừa xây dựng phát triển phong trào, vừa đi đôi với việc
phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, chú trọng đến đầu tư cơ sở vật chất
cho các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hoá,
dựa vào sức dân để xây dựng phong trào; Lành mạnh hoá các hoạt động văn
hoá, thông tin, thể thao ở địa phương. Tích cực xây dựng gia đình văn hoá,
5
xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh công cộng cho mọi người; xây dựng
và nhân điển hình người tốt, việc tốt, gia đình văn hoá là nhân tố tích cực
trong xây dựng thôn, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị văn hoá; Thực hiện tốt Quy
chế dân chủ ở cơ sở, mọi việc phải công khai, minh bạch, “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng lợi”; trước khi quyết định triển
khai thực hiện nhiệm vụ của thôn, cần họp dân để bàn bạc, xin ý kiến dân,
đặc biệt là các khoản đóng góp và thu chi, đầu tư xây dựng các công trình
phải làm cho dân tin và tạo sự đoàn kết thống nhất từ chi bộ đảng đến các tổ
chức đoàn thể và quần chúng nhân dân; Tăng cường sự phối kết hợp đồng
bộ, chặt chẽ giữa các ban ngành, đoàn thể đặc biệt là vai tò của ngành Văn
hoá thông tin, Mặt trận Tổ quốc, các ban ngành, đoàn thể các cấp trong chỉ
đạo thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh và đưa các hoạt động văn hóa thông tin về
cơ sở, chỳ trọng tới vùng cao, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; phát
động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng
gia đình, thôn; tổ dân phố văn hóa; hoàn chỉnh hệ thống thiết chế văn hóa từ
huyện đến cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân sinh hoạt cộng đồng, đáp ứng
nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ văn hóa của nhân dân, làm cho văn hóa thấm
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người; Khuyến khích các tổ
chức, cá nhân tích cực tham gia xây dựng, phát triển văn hóa, thể thao, đầu
tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, nâng cao chất lượng các
hoạt động văn hoá thông tin cơ sở. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”,phong trào xã hội hoá để từng bước
nâng cao trình độ dân trí, cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho mỗi gia
đình, góp phần đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá.
4. Tính hữu ích và khả năng phổ biên nhân rộng của sáng kiến,
kinh nghiệm: Sáng kiến “Giải pháp đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” là sáng kiến có tính xã hội và nhân văn sâu sắc
do đó nhận được sự đồng thuận rất cao của các tầng lớp nhân dân. Đây là
sáng kiến có tính khả thi cao, nên đã được triển khai và mang lại hiệu quả rõ
rệt, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện hoàn thiện các tiêu chí xây dựng
nông thôn mới, do vậy có thể áp dụng và nhân rộng ra những địa bàn khác.
_________________________
6
PHẦN CHẤM SÁNG KIẾN, KINH NGHIỆM
1. Thành viên hội đồng sáng kiến, kinh nghiệm chấm lần 1:
2. Thành viên hội đồng sáng kiến, kinh nghiệm chấm lần 2:
3. Thành viên hội đồng sáng kiến, kinh nghiệm chấm lần 3:
7
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bảo Thắng, ngày 18 tháng 10 năm 2013
ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp huyện.
Họ và tên tác giả: Lê Quang Minh
Ngày tháng năm sinh: 28/10/1965
Chức vụ: Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện.
Đơn vị công tác: UBND huyện Bảo Thắng.
Trình độ chuyên môn: Cử nhân tài chính, học viện hành chính.
Tỷ lệ % đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến: 100%
Đề nghị công nhận sáng kiến, kinh nghiệm: Giải pháp đẩy mạnh
phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” trên địa bàn
huyện Bảo Thắng.
1. Mô tả giải pháp: Bảo Thắng là 1 huyện vùng thấp của tỉnh Lào cai,
có tổng diện tích đất tự nhiên là 67.298 ha, có 22.694 hộ với 103.517 khẩu,
có 17 dân tộc anh em sinh sống ở 264 thôn, tổ dân phố ở 15 xã, thị trấn, có
đa sắc màu văn hóa của các dân tộc. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII), với mục đích xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, với giải pháp lớn là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đới sống văn hóa”, gắn với các phong trào thi đua trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội như: Phong trào xây dựng và nêu gương“Người tốt,
việc tốt”, phong trào “thi đua chuyển dịch cơ cấu kinh tế xóa đói giảm
nghèo”, phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng
gia đình văn hoá”; phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” , và
nhiều phong trào thi đua sôi nổi khác, trong đó phong trào “xây dựng gia
đình văn hoá” được xác định là nòng cốt của phong trào“Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá”. Được triển khai, một cách đồng bộ, tất cả đều
hướng về xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, lấy
nhân tố văn hóa và xây dựng nếp sống văn hoá làm nền tảng để thúc đẩy
phát triển kinh tế- xã hội. Kết quả, năm 2000 toàn huyện chỉ có 10.150 hộ
8
gia đình văn hóa (đạt 34,5%), so với tổng số hộ gia đình trong toàn huyện.
Thì đến năm 2009 toàn huyện có 16.208 hộ gia đình văn hóa ( đạt 63%).
Riêng năm 2010 có 18.367 hộ gia đình đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu văn
hóa ( Đạt 72%). Năm 2000 toàn huyện có 43/255 thôn, tổ dân phố đạt danh
hiệu văn hóa, đến năm 2009 toàn huyện có 141/264 thôn; tổ dân phố đạt
danh hiệu văn hóa ( đạt 53%), tăng 30,49% so với năm 2000, năm 2012 có
185/264 thôn, tổ dân phố đăng ký danh hiệu văn hóa ( đạt 70%). Duy trì hoạt
động của 20 đội văn nghệ và phối hợp tổ chức trên 320 đêm biểu diễn văn
nghệ tại cơ sở, tổ chức 120 cuộc thi đấu và giao hữu thể thao các môn bóng
chuyền, bóng bàn, bóng đá, cầu lông, kéo co, đẩy gậy, bắn nỏ, với nhiều
hoạt động đa dạng, nội dung phong phú; số lượng cơ quan, đơn vị văn hóa
ngày càng tăng. Năm 2000 toàn huyện có 41/150 cơ quan đơn vị đạt danh
hiệu văn hóa (Đạt 27,3%), đến năm 2009 có 160/175 cơ quan đơn vị đạt
danh hiệu văn hóa (đạt 91%), tăng 63,70% so với năm 2000. Năm 2012 có
186/186 cơ quan, đơn vị đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu văn hóa ( Đạt
100%), Toàn huyện có 19.909 người thường xuyên rèn luyện thể thao (đạt
20,5 % dân số trong toàn huyện) 85/85 trường học thực hiện TDTT ngoại
khoá tốt; có 47 đội, câu lạc bộ thể thao thường xuyên hoạt động; 1.258 gia
đình thể thao (đạt 5%/tổng số hộ toàn huyện), bình quân hàng năm tổ chức từ
15 cuộc thi đấu thể thao tại thôn; cụm dân cư và các xã, thị trấn; tổ chức 04
giải thể thao tại huyện và tham gia 4-5 giải thể thao do tỉnh tổ chức. Phong
trào “Học tập, lao động sáng tạo” tiếp tục được đẩy mạnh, phát động ở khắp
các cơ quan, đơn vị nhà nước đến các công ty, doanh nghiệp và vựng nụng
thụn sản xuất nụng nghiệp. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã
hội học tập trong những năm qua đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thu
hút được sự quan tâm của toàn xã hội, đến nay toàn huyện đã thành lập được
37 trung tâm học tập cộng đồng ở các Xã, TT, thành lập được 267 chi hội
khuyến học ở cơ sở với tổng số 11.431 hội viên tham gia, có 2.469 hộ gia
đình hiếu học cấp huyện, 1.780 hộ gia đình hiếu học cấp tỉnh ,. Thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và tín ngưỡng ở nơi thờ
tự của huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực. Ban Chỉ đạo toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá các cấp đó chỉ đạo, hướng dẫn và vận động
nhân dân tích cực hưởng ứng, thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị 27/CT-TW của
Bộ chính trị; Quyết định số 308/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Quyết
định số 02/2008/QĐ-UBND của UBND huyện về việc thực hiện nếp sống
9
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và tín ngưỡng nơi thờ tự; Trong
việc cưới: Thực hiện quy định pháp luật trong hôn nhân, theo số liệu thống
kê, năm 2000 chỉ có 60% số đôi nam nữ thuộc đồng bào dân tộc thiểu số khi
xây dựng gia đình đến UBND xã, thị trấn đăng ký kết hôn, đến nay đó tăng
lên 98%. Đồng bào không còn thách cưới nhiều bằng bạc trắng, rượu, thịt,
trâu, bò như trước đây mà thay vào đó là những đám cưới được tổ chức
đơn giản, tiết kiệm nhưng vui vẻ, hạnh phúc phù hợp với điều kiện kinh tế
của gia đình. Giai đoạn 2000-2010, nhân dân các dân tộc ở các thôn, tổ dân
phố đã thực hiện chủ trương xã hội hóa xây dựng thiết chế văn hóa thể thao
cơ sở, quyên góp được trên 2 tỷ đồng cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước xây
dựng được 135 nhà văn hóa thôn; tổ dân phố, nâng tổng số nhà văn hóa trong
toàn huyện lên 235 nhà đạt 78%/ tổng số thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà văn hóa; huyện đã đầu tư trang
thiết bị cho các nhà văn hóa bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, nguồn vốn
chương trình mục tiêu văn hóa và vốn ngân sách huyện đã cấp trang thiết bị
cho 131 nhà văn hóa thôn với tổng kinh phí là 861.913.000đ, Nhà văn hoá
thôn, tổ dân phố đã trở thành điểm vui chơi sinh hoạt văn hoá văn nghệ luyện
tập TDTT, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng, là nơi phổ biến, tuyên truyền
giáo dục pháp luật, tổ chức bồi dưỡng chuyển giao khoa học kỹ thuật và dạy
nghề cho nhân dân, một số nhà văn hoá còn là nơi học tập của các lớp mẫu
giáo thôn bản. 195 nhà văn hoá đã có đội văn nghệ. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tác động tích cực vào việc phấn đấu
hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một
số những tồn tại hạn chế đó là: phong trào ở một số cơ sở chưa được chú
trọng đúng mức; việc triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình của Ban
chỉ đạo Trung ương, tỉnh, huyện chưa kịp thời; chưa đề ra kế hoạch, chương
trình cụ thể để triển khai thực hiện, hoặc đề ra nhưng không được thực hiện hay
thực hiện chưa tốt. Chất lượng thôn, tổ dân phố văn hoá chưa đồng đều và chưa
ổn định; số lượng gia đình văn hoá còn thấp, tập quán, hủ tục lạc hậu trong
sinh hoạt chưa được xoá bỏ triệt để; thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang ở một số cơ sở mức độ chuyển biến chậm, nhất là ở các thôn
vùng cao, vùng nông thôn tệ buôn bản phụ nữ, bất bình đẳng giới vẫn còn,
tai nạn giao thông, nghiện hút ma tuý có giảm nhưng chưa đáng kể .
10
2. Tính mới và hữu ích của giải pháp: Có được kết quả trên là do có
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể có tính quyết
định, then chốt trong việc quán triệt, tuyên truyền cho đảng viên, cán bộ và
nhân dân nhận thức sâu sắc đầy đủ ý nghĩa, mục đích, nội dung của phong
trào. Xây dựng nghị quyết chuyên đề, mục tiêu kế hoạch và biện pháp tổ
chức thực hiện phải cụ thể. Trong đó đảng viên, cán bộ phải là người đầu
tầu, gương mẫu thực hiện để nhân dân làm theo; giao trách nhiệm cho từng
ngành, từng đảng viên, cán bộ theo dõi, chỉ đạo từng thôn, cụm dân cư; Ban
chỉ đạo các cấp hoạt động hiệu quả, có sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ. Có
bước đi vững chắc, vừa xây dựng phát triển phong trào, vừa đi đôi với việc
phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, chú trọng đến đầu tư cơ sở vật chất
cho các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hoá,
dựa vào sức dân để xây dựng phong trào; Lành mạnh hoá các hoạt động văn
hoá, thông tin, thể thao ở địa phương. Tích cực xây dựng gia đình văn hoá,
xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh công cộng cho mọi người; xây dựng
và nhân điển hình người tốt, việc tốt, gia đình văn hoá là nhân tố tích cực
trong xây dựng thôn, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị văn hoá; Thực hiện tốt Quy
chế dân chủ ở cơ sở, mọi việc phải công khai, minh bạch, “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng lợi”; trước khi quyết định triển
khai thực hiện nhiệm vụ của thôn, cần họp dân để bàn bạc, xin ý kiến dân,
đặc biệt là các khoản đóng góp và thu chi, đầu tư xây dựng các công trình
phải làm cho dân tin và tạo sự đoàn kết thống nhất từ chi bộ đảng đến các tổ
chức đoàn thể và quần chúng nhân dân; Tăng cường sự phối kết hợp đồng
bộ, chặt chẽ giữa các ban ngành, đoàn thể đặc biệt là vai tò của ngành Văn
hoá thông tin, Mặt trận Tổ quốc, các ban ngành, đoàn thể các cấp trong chỉ
đạo thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh và đưa các hoạt động văn hóa thông tin về
cơ sở, chỳ trọng tới vùng cao, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; phát
động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng
gia đình, thôn; tổ dân phố văn hóa; hoàn chỉnh hệ thống thiết chế văn hóa từ
huyện đến cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân sinh hoạt cộng đồng, đáp ứng
nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ văn hóa của nhân dân, làm cho văn hóa thấm
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người; Khuyến khích các tổ
chức, cá nhân tích cực tham gia xây dựng, phát triển văn hóa, thể thao, đầu
tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, nâng cao chất lượng các
hoạt động văn hoá thông tin cơ sở. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào “Toàn dân
11
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”,phong trào xã hội hoá để từng bước
nâng cao trình độ dân trí, cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho mỗi gia
đình, góp phần đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá.
3. Khả năng phổ biến và nhân rộng: Sáng kiến “Giải pháp đẩy mạnh
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là sáng kiến có
tính xã hội và nhân văn sâu sắc do đó nhận được sự đồng thuận rất cao của
các tầng lớp nhân dân. Đây là sáng kiến có tính khả thi cao, nên đã được
triển khai và mang lại hiệu quả rõ rệt, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện
hoàn thiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, do vậy có thể áp dụng và
nhân rộng ra những địa bàn khác./.
PHẦN CHẤM SÁNG KIẾN, KINH NGHIỆM
1.Thành viên hội đồng sáng kiến, kinh nghiệm chấm lần 1:
2.Thành viên hội đồng sáng kiến, kinh nghiệm chấm lần 2:
3.Thành viên hội đồng sáng kiến, kinh nghiệm chấm lần 3:
12