Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.26 KB, 13 trang )

Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
A. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
1. Thực trạng của vấn đề:
Ông bà ta thường nói “ nét chữ là nết người”, Chính vì vậy mà từ khi đi học việc
rèn chữ viết là một trong những hoạt động học tập quan trọng của học sinh Tiểu học. Để
thực hiện tốt những yêu cầu của việc đào tạo con người cả về đạo đức , nhân cách và tri
thức năm học 2012-2013 ngành giáo dục tiếp tục thực hiện phong trào thi đua hai tốt
theo đúng định hướng của Đảng ta " Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng
tạo của học sinh. Đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện bản thân, nâng cao chất lượng
giáo dục, tạo sự chuyển biến vững chắc đưa nước nhà vững bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ
của khoa học công nghệ”
Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện thì việc hướng dẫn học sinh lớp
2 viết chữ đẹp là cần thiết và cấp bách. Trong tất cả các môn học ở tiểu học thì môn Tiếng
Việt là môn quan trọng nhất, vì đây là môn công cụ để giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức ở
các môn học khác. Nên môn Tiếng Việt chiếm nhiều thời lượng nhất so với các môn học
khác.
Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ cơ bản là hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ
năng sử dụng Tiếng Việt như: nghe, nói, đọc, viết giúp các em học tập và giao tiếp trong
các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Xong mỗi phân môn của Tiếng Việt lại có một
nhiệm vụ riêng như phân môn tập viết: Tập viết đúng tư thế, hợp lí, đúng cỡ chữ, viết
đúng chữ hoa theo mẫu quy định. Với nhiệm vụ cơ bản như trên thì giáo viên hướng dẫn
các em viết trên bảng con, trên vở viết từ dễ đến khó, tuỳ theo đối tượng học sinh và thời
gian cho phép. Trong thực tế giảng dạy, cơ bản học sinh ngồi học đúng tư thế và viết
đúng độ cao, độ rộng của con chữ.
Hiện nay, ở trường tôi công tác cũng đã thường xuyên tổ chức những cuộc thi “
Vở sạch, chữ đẹp” nhưng kết quả chưa cao vì địa phương tôi đang công tác nằm trong
khu vực xã bãi ngang ven biển , điều kiện sinh hoạt còn hạn chế, cha mẹ các em chủ yếu
làm ngư nghiệp chưa có điều kiện quan tâm đến con em mình. Bên cạnh học sinh viết
chữ đẹp. Còn khá phổ biến học sinh viết chữ xấu, nét chữ nguệch ngoạc, không đúng


mẫu, cỡ chữ qui định. Cá biệt còn có em mắc nhiều lỗi chính tả. Vì vậy có em nhận thức
rất nhanh nhưng lại không đạt danh hiệu học sinh giỏi cũng chỉ vì chữ viết xấu. . Tỉ lệ các
em ngồi viết chưa đúng tư thế, cách cầm bút sai, viết sai lỗi chính tả còn nhiều. . Đặc
biệt là học sinh lớp 2 các em còn thực hiện sai từ tư thế ngồi, cách cầm bút, kê vở, viết
chữ chưa đúng độ cao, chưa chuẩn nét, khoảng cách giữa các chữ, sự liền mạch của các
nét chữ và chữ. Chính vì những lý do trên đây mà tôi chọn đề tài "Rèn chữ viết cho học
sinh lớp 2 ", nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt trong trường
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
1
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
Tiểu học Nhơn Hải nói chung và lớp 2 nói riêng.
Kết quả khảo sát đầu năm
Lớp Sĩ số
G ( 9- 10) K (7-8) TB ( 5-6) Yếu ( 1-4)
SL % SL % SL % SL %
2C 29 15 51,7 10 34,5 3 10,3 1 3,5
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn luyện
nhân cách, đạo đức, tính kiên trì, cẩn thận . Việc rèn chữ còn giúp cho học sinh viết đúng
, viết đẹp . Nhưng để rèn luyện được như thế thì không phải là chuyện dễ dàng. Nó đòi
hỏi sự nổ lực, cố gắng của giáo viên và tinh thần ham học của học sinh. Chính vì vậy ,
khi rèn được học sinh viết chữ đẹp cũng là cách giáo viên gây được hứng thú với học
sinh trong giờ Tập viết cũng như trong các môn học khác. Học sinh viết được chữ đẹp thì
rất ham học và siêng năng, chịu khó và gây được thiện cảm với mọi người. Ngày nay khi
công nghệ thông tin phát triển các văn bản đều được thể hiện bằng vi tính, nên việc viết
chữ đẹp là rất ít. Vì thế, việc rèn chữ đẹp trong thời kì này là hết sức quan trọng và có ý
nghĩa giáo dục thiết thực.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Lớp 2C - Trường Tiểu học Nhơn Hải - Năm học 2012 - 2013
II. Phương pháp tiến hành

1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
* Cơ sở lí luận
Trong những năm học gần đây chữ viết của học sinh trong các nhà trường tiểu học
là vấn đề các cấp lãnh đạo, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh học sinh hết sức quan
tâm. Các phong trào " Giữ vở sạch, viết chữ đẹp " của giáo viên và học sinh được duy trì
thường xuyên theo định kỳ hàng năm và phát triển sâu rộng trong phạm vi toàn quốc.
Song vì nhiều lý do mà chất lượng chữ viết của học sinh chưa tốt. Trẻ em đến tuổi học,
thường bắt đầu quá trình học tập bằng việc học chữ. ở giai đoạn đầu tiên ( bậc tiểu học)
trẻ tiếp tục được hoàn thiện năng lực nói tiếng mẹ đẻ. Nhà trường xuất phát từ dạng thức
nói, từ hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ để dạy trẻ học chữ. Trẻ em biết chữ mới có phương
tiện để học Tiếng Việt và học các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội khác. Trẻ
không biết chữ, không có điều kiên tiếp xúc ngôn ngữ văn hoá, không thể tiếp thu trí thức
văn hoá, khoa học một cách bình thường được. Biết chữ là biết phân biệt hình nét các ký
hiệu, biết tạo ra ký hiệu ( chữ viết ), biết dùng chữ ghi lời nói, biết đọc và hiểu được ý
nghiã chữ viết. Nói tóm lại, biết chữ là biết đọc thông viết thạo một ngôn ngữ.
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
2
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
Chữ viết tiếng việt của chúng ta hiện nay ( còn là chữ Quốc ngữ) được xây dựng
dựa theo các con chữ của hệ thống chữ cái La tinh gồm 24 chữ cái ( hay còn gọi là con
chữ) được sắp xếp theo trật tự cố định gọi là Bảng chữ cái. Các chữ cái Tiếng Việt dùng
để nghi nguyên âm và phụ âm.
Trên thực tế, các chữ cái Tiếng Việt thoả mãn tương đối các điều kiện trên. Nhưng
có những âm biểu thị bằng nhiều chữ cái do đó học sinh rất dễ nhầm lẫn, khó phân biệt.
* Cơ sở thực tiễn :
+ Nhà trường có đủ các phòng học cho học sinh học hai buổi trên ngày. Tuy nhiên
một số phòng học chưa bảo đảm về tiêu chuẩn như: ánh sáng trong phòng học, bàn ghế
của học sinh, bảng lớp
+ Ánh sáng trong phòng học chưa đảm bảo nhất là về mùa đông. Khi thời tiết lạnh
các cửa đều phải đóng để tránh gió lùa vào lên phải sử dụng nguồn ánh sáng nhân tạo.

+ Bàn ghế của học sinh tuy đầy đủ về số lượng, nhưng chưa đồng đều, chưa phù
hợp với độ tuổi học sinh tiểu học . Mỗi khi viết lại phải nhoài người hoặc phải đứng lên
thì mới viết được cho nên ảnh hưởng đến chữ viết và tốc độ viết. Mặt khác, mặt bàn bằng
phẳng không có độ nghiêng, dốc về phía học sinh nên khi viết các em không thấy thoải
mái và tay khó di chuyển.
+ Bảng lớp: Các lớp được trang bị một bảng chống loá to, sơn mầu xanh thẫm và
được treo cân đối, hợp lý giúp học sinh quan sát dễ dàng. Nhưng bảng lại không có các
dòng kẻ nên khi viết mẫu cho học sinh giáo viên còn gặp nhiều khó khăn như viết chậm,
viết các nét không chuẩn. Nhiều giáo viên đã khắc phục bằng cách tự kẻ lấy các dòng kẻ
cho nên các dòng kẻ không đều nhau và cũng chỉ trong thời gian ngắn các dòng kẻ đó lại
mờ dần.
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
* Các biện pháp tiến hành
- Rèn chữ viết vào các buổi học chiều.
- Cho học sinh viết bài ở nhà.
- Rèn chữ viết trong giờ chính tả .
- Tổ chức các trò chơi về thi viết chữ đẹp.
* Thời gian tạo ra giải pháp : Học kì I - Năm học 2012 - 2013
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
3
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu :
Thực hiện đề tài “ Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2” nhằm thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ của việc đổi mới phương pháp dạy học ở cấp Tiểu học. Đồng thời cũng góp
phần vào mục tiêu đào tạo con người mới có đức , có tài trong thời kì công ngiệp hóa,
hiện đại hóa của đất nước.
II. Mô tả giải pháp của đề tài :
1. Thuyết minh tính mới :
Để có chữ viết đẹp học sinh phải trải qua quá trình tập viết. Cho nên trong quá

trình dạy học các môn học ở lớp 2B, đặc biệt là phân môn Tập viết, tôi luôn củng cố cho
các em những kiến thức và kĩ năng mà các em đã được học ở lớp một, đồng thời nâng
cao dần kĩ thuật viết cho các em.
a. Rèn tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở.
Khi ngồi viết, học sinh phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào canh
bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách mặt vở từ 23 cm đến 30 cm. Cánh tay phải cũng ở trên mặt
bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải
cũng ở trên mặt bàn. Với cách để tay như vậy, khi viết, bàn tay và cánh tay phải có thể
dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải dễ dàng.
Khi viết, học sinh cầm bút và điều khiển bút viết bằng ba ngón tay ( ngón cái,
ngón trỏ, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở bên trái của đầu bút dịch
chuyển linh hoạt. Ngoài ra động tác viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay, khöyu
tay và cánh tay.
Khi viết chữ, vở viết cần đặt so với mép bàn một góc khoảng 30 độ (nghiêng về
bên phải). sở dĩ phải đặt như vậy vì chiều thuận của vận động tay khi viết chữ Việt là
vận động từ trái sang phải.
b. Hướng dẫn học sinh viết
b.1.Củng cố các nét cơ bản tạo nên chữ viết thường.
*Các nét thẳng:
* Các nét cong.
* Các nét móc:
* Nét khuyết.
* Nét thắt
* Ngoài ra còn một số nét bổ sung: Nét chấm ( trong chữ i). Nét gãy (trong dấu
phụ của chữ ă, â ), dấu hỏi ( ?), dẫu ngã ( )
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
4
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
b.2. Luyện viết đúng kích thước và cỡ chữ ( đúng mẫu ).
Kích thước và cỡ chữ được lấy dòng kẻ trên giấy làm đơn vị đo độ cao hoặc độ dài

của một chữ ( mỗi đơn vị đo độ cao tương ứng với khoảng cách giữa hai dòng kẻ).
Kích thước của chữ viết thường được chia thành năm nhóm.
+ Nhóm 1: chữ có độ cao 1 đơn vị: a, ă, â, c, e, ê, i, m, n, o, ô, ơ, ư, v, x.
+ Nhóm 2: chữ có độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
+ Nhóm 3: chữ có độ cao 1,5 đơn vị: t.
+ Nhóm 4: chữ có độ cao 2 đơn vị: d, đ, p, q.
+ Nhóm 5: chữ có độ cao 2,5 đơn vị: g, h, l, k, b, y.
+ Các chữ viết hoa có độ cao giống nhau cao 2,5 đơn vị, trừ chữ G, Y cao 4 đơn
vị.
b.3. Chữ cái viết thường.
+ Nhóm chữ cái có cấu tạo từ nét cong là cơ bản. c, o, ô, ơ, e, ê, x.
+ Nhóm chữ cái có cấu tạo nét cong phối hợp với nét móc: a, ă, â, d, đ, q.
+ Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, u, ư, n, m, p.
+ Nhóm các chữ cái có chữ cơ bản lã nét khuyết: b, h, l, k, g, y.
+ Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong : r, v, s,.
b.4. Chữ cái viết hoa:
+ Nhóm chữ A: A, Ă, Â, N, M.
+ Nhóm chư U: U, Ư, Y, V, X, N, M.
+ Nhóm chữ V: V, Y, K, H.
+ Nhóm chữ L: L, S, C, G, E, Ê, C, T.
+ Nhóm chữ P: P, B, R, D, Đ.
+ NHóm chữ O: O, Ô, Ơ, Q.
b.5. Luyện viết liền mạch.
Khi viết một chữ cái gồm từ hai chữ cái trở nên nối lại với nhau, để đảm bảo tốc
độ viết, học sinh không thể viết rời từng chữ cái mà phải di chuyển dụng cụ viết đưa nét
liên tục theo kỹ thuật viết liền mạch. Viết xong chữ cái đứng trước, viết tiếp chữ cái đứng
sau ( không nhấc bút khi viết)
Ví dụ: Phong cảnh hấp dẫn.
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
5

Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
b.6. Hướng dẫn dấu thanh.
Vị trí của dấu thanh có tác dụng khác biệt các chữ nghi tiếng. Dấu thanh chỉ đặt
vào chữ cái. Các dấu thanh: huyền ( ), sắc ( / ), hỏi ( ? ), ngã ( ~) đặt phía trên các
chữ cái. Dấu nặng ( .) đặt phía dưới của chữ
Ví dụ: Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
+ Ở các chữ nghi tiếng không có âm đệm và không có âm cuối vần, dấu thanh đặt
trên hoặc dưới âm chính.
Ví dụ: bố, mẹ,
+ Ở các chữ nghi tiếng có âm chính là nguyên âm đơn và âm cuối vần cũng là bán
nguyên âm, dấu thanh đặt trên chữ nghi âm đơn làm âm chính.
Ví dụ: Bão, mồi.
+ Ở các chữ nghi tiếng có âm đệm đầu vần, dấu thanh đặt trên hoặc dưới
âm chính.
Ví dụ: tuỳ, quyển, loá.
+ Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các tiếng có nguyên âm đôi ở vần.
- Trong trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối
vần thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi.
Ví dụ: mùa, lứa, mía.
- Trong trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi nhưng lại có âm cuối vần
thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ hai của nguyên âm đôi.
Ví dụ: rượu, muối,
+ Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các tiếng mà nguyên âm ở phần đầu có
dấu phụ thì dấu thanh viết như sau:
- Ở các nguyên âm có dấu mũ ( A) : â, ê, ô dấu sắc ( / ) dấu huyền ( \ ), dấu hỏi ( ?
) được viết hơi cao hơn và hơi lệch về phía phải của mũ.
Ví dụ: ốm, biển, chồng,
- Ở các nguyên âm có dấu thanh ở vị trí phía trên của dấu ( V )
Ví dụ: cằm, nhắm,

Do ở tư thế nằm ngang nên khi xuất hiện trong các chữ mà phần vần có nguyên
âm mang dấu phụ, dấu ngã được viết trên các dấu phụ.
Ví dụ: chẵn, mẫn,
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
6
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
c. Kết hợp với phân môn Chính tả , Tập đọc.
c.1. Phân môn Chính tả.
Trong quá trình dạy Chính tả ( chấm điểm) tôi thường xuyên thống kê các lỗi mà
học sinh hay mắc phải để tìm cách sửa. Các lỗi học sinh hay mắc phải như lối do không
nắm được các đặc điểm về nguyên tắc kết hợp các chữ cái, qui tắc viết hoa trong Tiếng
Việt, lỗi do viết sai với phát âm chuẩn, lỗi do trình bày chưa khoa học, chưa đúng qui
định
- Cho học sinh học lại qui tắc đánh dấu thanh và thường xuyên kiểm tra lại như
trong lúc kiểm tra bài cũ, luyện viết chữ khó, chữa lỗi.
Ví dụ: Trong chữ ''lúa'' dấu sắc đặt ở vị trí nào? hay trong chữ "cười " dấu huyền
đặt ở vị trí nào?
- Nhắc lại qui tắc viết hoa.
* Tên người, địa danh viết hoa tất cả những con chữ đầu của tiếng.
Ví dụ: Nguyễn Văn An, Kinh Môn,
- Viết hoa khi mở đầu câu, đoạn (chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của chữ cái thứ
nhất)
- Lập bảng để học sinh ghi nhớ qui tắc phân bổ các ký hiệu cùng biểu thị một âm
rôi cho học sinh học thuộc.
Phụ âm.
- c, g, ng.
- k, gh, ngh.
- q.
Kết hợp với các nguyên âm
- a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.

- i, e, ê.
- u ( làm âm đệm)
- Luyện viết các tiếng, từ khó trước khi viết vào vở (các chữ có phụ âm đầu dễ
lẫn: s/x; l/ n; tr/ ch; r/gi.)
- Tìm từ so sánh giải nghĩa những từ dễ lẫn.
Ví dụ: Lồi/ nồi; suất/ xuất.
- Hướng dẫn học sinh cách trình bày bài khoa học, sạch sẽ đúng mẫu cỡ chữ. Ở
mỗi kiểu bài, nhất là những bài đầu tiên của năm học, tôi hướng dẫn các em rất cẩn thận.
Ví dụ: Tên bài viết ở giữa dòng, cách đều hai bên cụ thể: Đếm bốn ô vuông rồi
viết.
Đối với những bài chính tả là văn xuôi thì mỗi lần xuống dòng đều phải viết lùi
vào một ô vuông so với dòng kẻ lề.
Ví dụ: Như bài ''Sơn Tinh Thuỷ Tinh"
- Đối với bài chính tả ở thể loại thơ lục bát, câu sáu chữ viết lùi vào so với câu tám
chữ một ô vuông.
Ví dụ: Bài "Mẹ"
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
7
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
- Ở những bài thơ có chia thành khổ thơ thì giữa các khổ thơ để một dòng trống
ngăn cách.
c.2. Phân môn tập đọc.
Trong khi dạy Tập đọc, tôi thường luyện cho học sinh phát âm đúng các từ ngữ dễ
lẫn.
Ví dụ: Luyện phát âm đúng các tiếng, từ có phụ âm đầu l/n.
+ Giáo viên nêu: "l" là phụ âm xát vang bên, đầu lưỡi, răng. Khi phát âm đầu lưỡi
chạm hàm trên, lưỡi cong, hơi phát ra ngoài.
''n'' là phụ âm tắc, vang mũi, đầu lưỡi, răng. Khi phát âm lưỡi không cong lên mà
đầu lưỡi hơi đưa vào đẩy hơi qua hai hàm răng.
+ Cho học sinh luyện phát âm l/n bằng cách: Lấy hai ngón tay ( ngón cái và ngón

trỏ) bịt mũi và phát âm l/n. Học sinh dễ nhận thấy khi phát âm "l'' hơi không đi qua mũi,
còn khi phát âm ''n'' hơi sẽ đẩy ra lỗ mũi.
+ Cho học sinh luyện đọc, viết: La, lo, lô, lu, li.
Na, no, nô, nu, ni.
Đi Hà Nội mua cái nồi về nấu cơm nếp.
Lúa lổ lung linh.
Cô nàng ăn nói nết na.
d. Chữ viết của giáo viên.
Để học sinh có chữ viết đẹp thì người giáo viên phải có kỹ năng viết chữ thành
thạo, phải có khả năng viết chữ mẫu cho học sinh noi theo trong mỗi tiết học. Chữ viết
của thầy cô sẽ để lại một ấn tượng và kết quả lâu dài đối với nhiều thế hệ học sinh rèn
chữ mà mỗi giáo viên phải có ý thức rèn chữ viết để có chữ viết chuẩn mực, là tấm gương
để học sinh nôi theo. Ở bậc Tiểu học, chữ viết của thầy cô chính là nội dung giảng dạy và
đồ dùng trực quan để học sinh học tập. Viết trình bày bảng cần thể hiện tính khoa học,
tính sư phạm cho nên khi trình bày trên bảng cũng giống như trình bày trên trang giấy
cần phải để lề, viết thẳng hàng, nét phấn thanh mảnh, đều nét, từ các vị trí trong lớp học
sinh nhìn thấy rõ, không bị loá,
2. Khả năng áp dụng
- Thời gian áp dụng có hiệu quả từ học kì I năm học 2012- 2013 cho đến nay
- Đề tài này có khả năng thay thế giải pháp hiện có
- Khả năng áp dụng trong phạm vi lớp 2C và khối 2 của trường Tiểu học Nhơn
Hải
3. Lợi ích kinh tế :
- Rèn được chữ viết cho học sinh lớp 2 góp phần không nhỏ vào việc nâng cao
chất lượng học tập của học sinh tiểu học , đồng thời giảm được áp lực về rèn chữ viết cho
học sinh ở các lớp trên.
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
8
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
- Rèn được chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2, còn giúp học sinh nói hay, viết đúng,

viết đẹp làm cho giáo viên nhẹ nhàng hơn trong giờ Tập viết cũng như giờ chính tả . Bên
cạnh đó còn giúp cho học sinh giữ gìn sách vở sạch đẹp, nâng niu, trân trọng chữ viết của
mình, gây hứng thú trong học tập góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong hoạt
động giáo dục trong nhà trường.
- Sau khi áp dụng biện pháp rèn chữ viết. Tôi cũng tiến hành kiểm tra chữ viết
của học sinh qua bài Tập viết '' Chữ hoa R” Tiếng Việt 2/ tập 2 (tuần 21) đối tượng học
sinh tham gia cũng là học sinh lớp 2C kết quả sau khi chấm bài như sau:
Lớp Sĩ số
G ( 9- 10) K (7-8) TB ( 5-6) Yếu ( 1-4)
SL % SL % SL % SL %
2C 29 20 69,0 8 27,5 1 3,5 0 0
Từ kết quả trên tôi thấy chữ viết của các em học sinh lớp 2C có nhiều tiến bộ. Hiện
tượng viết sai kỹ thuật, viết sai chính tả đã giảm rõ rệt. Các em đã viết đẹp và chuẩn hơn
đặc biệt là các em đã viết đúng tốc độ.
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
9
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
C. KẾT LUẬN
Rèn chữ viết cho học sinh là vấn đề cấp bách trong các nhà trường Tiểu học hiện
nay. Để đạt được kết quả mong muốn ta không chỉ tiến hành ở môn Tiếng Việt mà kết hợp
rèn chữ cho các em ở tất cả các môn, môn nọ rèn bổ trợ cho môn kia và tiến hành thường
xuyên liên tục ở tất cả các lớp, sự quan tâm của nhà trường, gia đình, đoàn thể, các cấp, các
ngành chắc chắn rằng chất lượng chữ viết của học sinh ngày sẽ càng tiến bộ.
*Sau đây là những điều kiện để chúng tôi áp dụng sáng kiến tốt:
1- Đối với nhà trường thường xuyên tổ chức thi '' vở sạch, chữ đẹp'' theo định kì,
hàng tháng có phần thưởng xứng đáng động viên giáo viên và học sinh đạt giải.
- Tổ chuyên môn cùng nhà trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới
phương pháp dạy môn Tiếng Việt trong đó có phân môn tập viết, học vần, tập chép, chính
tả lớp 2 đồng thời thảo luận về đề tài tôi viết, có dự giờ, góp ý cho tiết dạy có áp dụng sáng
kiến.

2. Đối với gia đình: Tạo mọi điều kiện cho chúng tôi nghiên cứu, áp dụng sáng kiến
vào giảng dạy.
3. Đối với học sinh: Có dầy đủ sách vở, đồ dùng phục vụ học tập như: sách, vở, bút,
phấn bảng, đúng mẫu theo qui định. Các em có ý thức học tập tốt, kiên trì, cẩn thận, sáng
tạo khi luyện chữ. Các bậc phụ huynh quan tâm, tạo điều kiện về mọi mặt, cả vật chất lẫn
tinh thần.
4. Đối với đoàn thể: Đoàn thanh niên, công đoàn cùng nhà trường luôn góp ý, động
viên, kích lệ kịp thời những thành quả mà thầy trò lớp chúng tôi đạt được.
5. Đối với thời gian: Sau nhiều năm giảng dạy, nghiên cứu tôi đã áp dụng sáng kiến
ở lớp 2C, chúng tôi sẽ tiếp tục áp dụng vào giảng dạy và rút kinh nghiệm ở những năm
học tiếp theo, nhằm nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh hơn nữa.
6. Đối với bản thân: Không ngừng học tập, nghiên cứu rèn chữ viết, luyện phát âm
chuẩn, tận tâm, tận lực, kiên trì, tỉ mỉ trong quá trình truyền thụ trí thức và rèn chữ viết cho
học sinh.
7. Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ việc dạy học.
- Có đủ sách giáo khoa, tài liệu tham khảo khác, đồ dùng, thiết bị phục vụ
dạy - học.
- Có đủ phòng học 10 buổi/ tuần. Phòng học đủ ánh sáng, bảng lớp đẹp, rõ dòng kẻ (
bảng chống loá) Bàn ghế đúng qui cách, phù hợp chiều cao học sinh lớp 2.
Việc rèn chữ đẹp cho học sinh là một công việc hết sức tỉ mỉ đòi hỏi giáo viên và
học sinh phải kiên trì, diễn ra thường xuyên, liên tục. Rèn chữ viết cho học sinh là trách
nhiệm của mỗi thầy cô giáo. Học sinh viết chữ đẹp là niềm vui của thầy cô giáo, hạnh phúc
của trẻ là niềm vui , tự hào của cha mẹ các em. Trong các biện pháp rèn chữ viết nêu trên,
muốn đạt được kết quả như mong muốn thì cần phải kết hợp hài hoà giữa các biện pháp.
Cần tạo điều kiện để các em tự tìm ra, chiếm lĩnh kiến thức bằng khả năng của mình.
Người thầy chỉ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn các em học tập. Các em học sinh
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
10
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
tiểu học rất thích khen, những lời khen, động viên kịp thời giúp các em tiến bộ hơn. Viết

chữ đẹp sẽ giúp các em học tập tiến bộ hơn, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, đạt được
mục tiêu đã đề ra.
Nếu mỗi thầy cô cùng nêu cao ý thức trách nhiệm, tâm huyết với nghề đặc biệt coi
trọng " nét chữ, nết người" tôi tin chắc rằng chữ viết của học sinh ngày càng được nâng
cao, chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường được nâng lên.
* Bài học kinh nghiệm .
Muốn nói gì thì nói trong nghề dạy học thì chất lượng thực của học sinh cũng phải
đặt lên hàng đầu. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội ngày nay.
Theo tôi muốn nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh đặc biệt là học sinh lớp 2
thì mỗi thầy cô giáo phải thực hiện tốt những vấn đề sau:
- Phải hết lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với con đường mà mình đã chọn, coi
học sinh là niềm vui, niềm hy vọng lớn trong đời.
- Không ngừng học tập, bồi dưỡng, áp dụng các chuyên đề đổi mới phương pháp
giảng dạy ở Tiểu học, tìm tòi sáng tạo, thay đổi linh hoạt các biện pháp giáo dục, các hình
thức tổ chức học tập, nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Biết phân loại đối
tượng học sinh, sắp xếp chỗ ngồi hợp lý phù hợp chiều cao, nhận thức từng em, có kế
hoạch kèm cặp học sinh yếu, viết chữ xấu, bồi dưỡng rèn kỹ năng viết đẹp cho những em
có năng khiếu vào những buổi học ( 6, 7, 8, 9, 10) trong tuần.
-Phải chấm, chữa bài thường xuyên, kịp thời thông tin đến các bậc phụ huynh, bàn
biện pháp hướng dẫn các em luyện viết tốt ở lớp cũng như ở nhà. Kết hợp chặt chẽ giữa 3
môi trường, gia đình nhà trường, đoàn thể cùng giáo dục rèn luyện các em trở thành con
ngoan, trò giỏi.
*Các điểm còn hạn chế:
- Do tình hình phát âm của địa phương chưa chuẩn, bản thân giáo viên và học sinh
phát âm cũng chưa chuẩn do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến chữ viết của trò.
- Trong thực tế dù cố gắng đến đâu song không phải chữ viết của thầy cô nào cũng
đẹp chữ viết mẫu của thầy cô chưa chuẩn cũng ảnh hưởng đến chữ viết của trò.
- Ý thức học tập của các em còn chưa cao, ít suy nghĩ, ít rèn luyện đẫn đến chữ viết
xấu.
- Gia đình một số em còn khó khăn, chưa thực sự quan tâm đến chất lượng học tập

của các em, có em còn thiếu sách, đồ dùng học tập, vở viết dân tới việc luyện chữ viết ở
trường cũng như ở nhà còn khó khăn.
* Đề xuất , kiến nghị
Qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu tôi đã rút ra kinh nghiệm '' Rèn chữ viết cho
học sinh lớp 2 '' áp dụng vào lớp 2C do tôi thực dạy. Kết quả cho thấy chất lượng chữ viết
của học sinh được nâng lên rõ rệt so với những năm chưa áp dụng sáng kiến. Các em đều
nắm kĩ thuật viết. Có nhiều em viết đúng, viết đẹp và viết tương đối nhanh, giảm đáng kể
những em viết sai, viết xấu. Song vì trình độ có hạn, sáng kiến của tôi còn nhiều thiếu sót
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
11
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
so với các đồng nghiệp dầy dạn kinh nghiệm. Rất mong ý kiến đóng góp của các bạn đồng
nghiệp, sự chỉ đạo giúp đỡ của các cấp lãnh đạo
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHUYÊN MÔN
TRƯỜNG TIỂU HỌC NHƠN HẢI
































GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
12
Đề tài “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU Trang 1
I.ĐẶT VẤN ĐỀ Trang 1
1. Thực trạng Trang 1
2. Ý nghĩa và tác dụng Trang 2

3. Phạm vi nghiên cứu Trang 2
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH Trang 2
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn Trang 2

2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp Trang 3
B. NỘI DUNG Trang 4
I. MỤC TIÊU Trang 4
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI Trang 4
1. Tính mới của đề tài Trang 4,5,6,7,8
2. Khả năng áp dụng Trang 8
3. Lợi ích kinh tế xã hội Trang 8,9
C. KẾT LUẬN Trang 10
 
GV thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Nhung
13

×