Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.43 KB, 79 trang )

-1-

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Lao động là hoạt động không thể thiếu trong bất kỳ một xã hội nào bởi lao

động tạo ra những giá trị và của cải cho cuộc sống. Ngày nay, vấn đề lao động và
quan hệ lao động đang càng trở lên phức tạp và được mở rộng trên phạm vi toàn
thế giới. Theo đó, người lao động có thể di chuyển tự do đến những quốc gia mà
họ mong muốn để thoả mãn nhu cầu làm việc nếu được luật pháp cho phép. Việc
người lao động di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác là hiện tượng bình
thường và tương đối phổ biến trong bối cảnh toàn cầu hố hiện nay.
Việt Nam là mợt q́c gia đang phát triển, với lực lượng lao động đông đảo,
hàng năm có hàng triệu lao đợng cần việc làm. Bên cạnh đó, do sự thay đổi của
cơ cấu kinh tế, đất nông nghiệp bị thu hẹp, lao động nông thôn dư thừa ngày
càng nhiều, bổ sung thêm vào nguồn cung lao động. Còn tại khu vực công
nghiệp, dịch vụ, do sức ép cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp không đứng vững
buộc phải thu hẹp qui mô sản xuất hoặc thay đổi công nghệ,… dẫn đến hậu quả
là một bộ phận lớn người lao động bị dôi dư không có việc làm, gây ảnh hưởng
tiêu cực đến đời sống của chính bản thân và gia đình họ cũng như toàn xã hội.
Trong khi đó, nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới lại đang rơi
vào tình trạng thiếu lao đợng hoặc giá nhân công tại chỗ quá cao. Họ cần tuyển
lao động là người từ các quốc gia khác sang làm việc. Từ đó phát sinh nhu cầu
cung ứng sức lao động và di chuyển lao động từ quốc gia này sang quốc gia
khác. Đây là một nhu cầu tất yếu xuất phát từ sự vận động khách quan của thị
trường lao động quốc tế. Xu thế này đã thu hút sự tham gia cung ứng lao động
của nhiều quốc gia đơng dân và dư thừa lao động, trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh tình hình chung của thế giới và xuất phát từ nhu cầu khách
quan của Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề lao


động và giải quyết việc làm. Để giải quyết việc làm cho người lao động trong
nước và cải thiện đời sống của người lao động cũng như gia đình họ, Nhà nước
đã có nhiều chính sách giải quyết việc làm, trong đó có hoạt động đưa người lao


-2-

động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Trước đây, hoạt động đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được qui định trong mục 5ª
chương XI Bợ ḷt lao đợng và các văn bản dưới luật khác. Nhưng nhìn chung
các quy định này còn rất sơ sài, chưa cụ thể và còn nhiều điểm không phù hợp.
Điều này đã gây nhiều bất cập trong việc áp dụng pháp luật, gây thiệt hại cho
người lao động và tạo ra nhiều tranh chấp phức tạp trong q trình đưa người lao
đợng đi làm việc ở nước ngoài. Trước tình hình đó, tháng 11 năm 2006 tại kỳ
họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2007). Sau
đó, hàng loạt các Nghị định và Thông tư hướng dẫn các quy định của Luật này
đã được ban hành.
Cho đến nay, sau hơn hai năm thực hiện, Luật người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng vẫn bộc lộ nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới
lợi ích của người lao động, gây khó khăn cho các doanh nghiệp đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài, cũng như chưa thực sự thúc đẩy sự hợp tác giữa
Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước trong lĩnh vực này.
Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, việc nghiên cứu tổng quan hoạt động đưa
người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc, cũng như thực trạng ban hành
và thực thi pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động này để tìm ra những giải
pháp hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới là vấn đề cần thiết trong bối cảnh
hiện nay. Đó chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở

nước ngoài theo hợp đồng” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước yêu cầu giải quyết việc làm trong nước và đáp ứng nhu cầu tuyển

dụng lao động Việt Nam của phía đối tác nước ngoài, đã có nhiều tổ chức, cơ
quan nghiên cứu và cá nhân tìm hiểu về pháp luật đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài. Cho đến nay, đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều công


-3-

trình, bài viết về vấn đề đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó
có một số công trình đáng lưu ý như: các bài tham luận trong Hội thảo quốc tế về
việc gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) đối với thị trường lao động
Việt Nam do trường ĐHKHXH và Nhân văn tổ chức ngày 30 tháng 11 năm 2007
tại Hà Nội; Luận văn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoa Tâm năm 2004 về “Xuất
khẩu lao động theo qui định của của pháp luật Việt Nam – Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện”; Bài “Xuất khẩu lao động Việt Nam trước yêu cầu
hội nhập” của TS. Nguyễn Quốc Luật đăng trên báo Người lao động ngày 25
tháng 1 năm 2008; Bài “Để nâng cao chất lượng lao động đi làm việc ở nước
ngoài” trên trang ngày 14 tháng 2 năm 2008 Nguồn từ Molisa – Bộ lao động; Bài “Lại xuất khẩu lao động kiểu “đem con bỏ
chợ”” đăng trên trang ; Bài “Quan hệ lao động trong thời
đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường” của TS. Lưu Bình
Nhưỡng trong Tạp chí Luật học số tháng 2 năm 2008; Bài “Pháp ḷt lao đợng
trong quá trình tồn cầu hóa” của Th.S Phạm Trọng Nghĩa trong tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp số 18 tháng 11 năm 2008...
Ở mức độ nhất định, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá và đưa ra
những kiến nghị liên quan đến việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đưa

người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Nhưng hầu như các bài viết
nói trên chưa đánh giá được một cách toàn diện những bất cập của pháp luật Việt
Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do còn thiếu các thơng tin đầy đủ về
tình hình người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi, cuộc sống, những
khó khăn và thuận lợi trong công việc của họ tại quốc gia đến làm việc.
Do đó, đề tài luận văn “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”
sẽ là một công trình nghiên cứu tương đối hệ thống về thực trạng của hoạt động
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng kể từ khi
Luật về vấn đề này có hiệu lực (01/7/2007) cho đến nay. Trên cơ sở đó đánh giá


-4-

những tác động, ảnh hưởng của pháp luật Việt Nam với thực tiễn điều chỉnh
quan hệ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
nhằm đề xuất những giải pháp, kiến nghị khả thi hướng tới việc hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng, phù hợp với xu thế vận động của thị trường lao động quốc tế.
3.

Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của tác giả khi nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp hoàn

thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng” là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng và thực thi pháp luật Việt Nam khi điều chỉnh hoạt động đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trên cơ sở đó
đánh giá những kết quả và hạn chế của pháp luật Việt Nam về đưa người lao

động đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian qua. Từ đó đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam, cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật Việt Nam trong điều kiện thực tiễn hiện nay.
Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn được xác định cụ thể như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến việc đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài và việc điều chỉnh bằng pháp luật Việt Nam đối
với vấn đề này;
- Phân tích, đánh giá thực trạng ban hành và thực hiện pháp luật Việt Nam
hiện hành về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng;
- Nhận xét về những bất cập của pháp luật Việt Nam về đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng .
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam
về đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu


-5-

Nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu đã được xác định ở phần trên, đối
tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là:
- Nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành về đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Nghiên cứu thực trạng quan hệ giữa các bên trong hoạt động đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó chủ yếu nghiên
cứu những khía cạnh chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật Việt Nam như:
quan hệ giữa chủ thể thực hiện dịch vụ đưa người lao động Việt Nam ra nước

ngoài theo hợp đồng và người lao động với mục đích tìm kiếm, giới thiệu và môi
giới lao động; quan hệ giữa chủ thể đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài và chủ
sử dụng lao động nước ngồi với mục đích cung ứng lao động, quan hệ giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với chủ thể đưa người lao động
Việt Nam ra nước ngoài nhằm thanh tra và xử lý vi phạm theo quy định của pháp
luật hiện hành...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian và quy mơ cịn nhiều hạn chế, đồng thời để phù
hợp với đối tượng nghiên cứu đã được xác định, tác giả chủ yếu tập trung vào
việc nghiên cứu trong phạm vi các qui định của pháp luật Việt Nam về đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng dưới góc độ
của pháp luật lao động. Theo đó, những vấn đề khác của hoạt động đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi nếu khơng trực tiếp được điều
chỉnh dưới góc độ của pháp luật lao động tạm thời sẽ chưa được đề cập trong
phạm vi của luận văn. Ví dụ như, vấn đề xác định các điều kiện và tiến hành các
thủ tục xuất cảnh cho lao động Việt Nam ra nước ngoài; hoặc nhập cảnh cho lao
động Việt Nam khi về nước; vấn đề xác định trách nhiệm dân sự hoặc trách
nhiệm hình sự của lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi trong những
trường hợp có liên quan đến nghĩa vụ tài sản, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự...


-6-

Đồng thời, những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài nhưng do pháp luật của quốc gia tiếp nhận lao
động điều chỉnh, hoặc được sự điều chỉnh của các hiệp định quốc tế về lao động,
của các Công ước quốc tế về lao động di trú sẽ không được nghiên cứu trong
phạm vi của đề tài này. Một trong những nguyên nhân đó là do pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực này quá đa dạng nên tác giả chưa thể đầu tư nghiên cứu toàn diện

trong phạm vi luận văn thạc sỹ. Một nguyên nhân khác là việc thu hẹp phạm vi
nghiên cứu như trên sẽ giúp tác giả có điều kiện tập trung sâu hơn vào một số
vấn đề rất phức tạp của lĩnh vực này, mặc dù đã được pháp luật lao động Việt
Nam điều chỉnh nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Cụ thể là vấn đề xác định các hình
thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, quyền và nghĩa vụ
của chủ thể đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, quyền và nghĩa vụ của người
lao động, vấn đề xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp xoay quanh hai chủ thể
này theo pháp luật Việt Nam...
Với việc thu hẹp đối tượng và phạm vi nghiên cứu như đã nêu, tác giả mong
muốn sẽ giải quyết được tương đối toàn diện những vấn đề được đưa vào nghiên
cứu trong luận văn dưới các góc độ lý luận, thực trạng ban hành và thực hiện
pháp luật, cũng như đề xuất được những kiến nghị khả thi góp phần hồn thiện
pháp luật lao động Việt Nam khi điều chỉnh một số vấn đề trong tổng thể quy
trình đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác – Lênin với phương pháp duy vật biện chứng để giải quyết các vấn đề
về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đồng thời, sử dụng kết hợp và
linh hoạt các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, thống kê, khảo sát thực
tiễn ...
6.

Ý nghĩa khoa học và tính ứng dụng của đề tài
Nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam

về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” có ý



-7-

nghĩa trên hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi nghiên cứu đã
đuợc xác định, tác giả đi sâu vào việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các cơ quan lập pháp có thêm tư
liệu tham khảo phục vụ cho công tác hoàn thiện pháp luật. Đồng thời, đề tài cũng
phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu của những sinh viên luật học quan tâm đến
vấn đề này trong quá trình được đào tạo tại trường Đại học Luật Hà Nội và các
trường đại học thuộc chuyên ngành luật học cũng như những chuyên ngành khác
nếu liên quan.
7.

Kết cấu của luận văn
Ngồi mục lục, lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết

cấu thành 3 chương :
Chương 1: Tổng quan về hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng và sự điều chỉnh của pháp luật lao động Việt
Nam.
Chương 2: Pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.


-8-


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT
NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG VÀ SỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng
1.1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của hoạt động đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Trong q trình tồn cầu hóa hiện nay, việc người lao động di chuyển từ
quốc gia này sang quốc gia khác để tìm kiếm việc làm đã trở thành một hiện
tượng phổ biến. Để nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của chế độ pháp lý
về vấn đề này, cần làm rõ một số khái niệm có liên quan, đó là khái niệm “ hợp
tác quốc tế về lao động” và “xuất khẩu lao động”. Đây là những thuật ngữ đã
từng được sử dụng trong từng giai đoạn nhất định của hoạt động đưa lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, làm rõ nội hàm của khái
niệm “đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài”.
Việt Nam đã chính thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài từ
năm 1980 và sử dụng thuật ngữ “hợp tác quốc tế về lao động” trong các văn bản
điều chỉnh hoạt động này. Tại thời điểm này và tương ứng với xu thế thực tiễn
của Việt Nam trong bối cảnh đó, “hợp tác quốc tế về lao động” được hiểu là sự
liên kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong việc giải quyết việc làm. Hoạt
động này khơng chỉ mang tính chất kinh tế mà cịn có ý nghĩa chính trị và chỉ
diễn ra giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhằm thắt chặt tình đoàn kết,
hữu nghị giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong các tài
liệu quốc tế nói chung về lao động ra nước ngồi làm việc (được quan niệm là
một hình thức cơ bản của lao động di trú) hầu như không sử dụng thuật ngữ này.
Hoặc nếu được nhắc đến thì lại được hiểu theo một nghĩa hoàn toàn khác, được
hiểu giống như hoạt động hợp tác và phân công lao động quôc tế. Như vậy, thuật
ngữ “hợp tác quốc tế về lao động” chỉ được sử dụng với nghĩa hẹp và trong



-9-

phạm vi một số nước xã hội chủ nghĩa cũ. Trên thực tế, hợp tác lao động quốc tế
không chỉ bao gồm việc đưa người lao động trong nước đi làm việc ở nước
ngồi, mà cịn gồm cả hình thức xuất khẩu lao động tại chỗ cũng như việc đưa
lao động nước ngồi vào làm việc tại nước mình. Do việc sử dụng thuật ngữ
“hợp tác quốc tế về lao động” khơng phản ánh được tồn diện và đầy đủ nội
dung của vấn đề này nên khi ký kết Hiệp định với các nước, Việt Nam đã có
những điều khoản chưa rõ ràng dẫn đến những phức tạp trong quan hệ giữa
chúng ta với những nước tiếp nhận lao động. Ví dụ như, những rắc rối về
phương thức thanh tốn tiền th lao động giữa các Chính phủ, khó khăn trong
chuyển tiền của người lao động từ nước ngoài vào Việt Nam.
Sau đó, trong một số văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đưa lao động
Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài đã sử dụng thuật ngữ thay thế là “xuất khẩu
lao động”. Thông thường, thuật ngữ “xuất khẩu” dùng để chỉ hoạt động kinh tế
của chủ thể kinh doanh nhằm đưa hàng hoá, tư bản ra nước ngồi hoặc của chủ
thể nào đó nhằm phổ biến tư tưởng ra nước ngoài. Việc sử dụng thuật ngữ kép
“xuất khẩu lao động” do đó rất dễ làm nảy sinh quan điểm coi sức lao động là
hàng hố có thể xuất khẩu được và nhiều trường hợp bị hiểu nhầm là người lao
động cũng có thể trở thành hàng hố xuất khẩu được. Điều này trái với bản chất
của quá trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bởi những chủ thể
đưa người lao động ra nước ngồi được hưởng lợi (lệ phí) từ hoạt động dịch vụ
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chứ không phải là hưởng tiền bán
người lao động hoặc bán sức lao động của những người lao động. Ngoài ra, theo
quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thể hiện trong Hiến chương của
Tổ chức này thì: lao động khơng phải là loại hàng hố thơng thường mà các chủ
thể có thể đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường như những hàng hố khác.
Nói như vậy khơng có nghĩa là khơng thừa nhận tính hàng hoá của sức lao động.
Về mặt bản chất, sức lao động chỉ có thể được xem như một loại hàng hố đặc

biệt, nó là tài sản vơ hình, tồn tại bên trong người lao động như là những tài sản
đặc định gắn với nhân thân của từng người. Sức lao động của ai sẽ do người đó


- 10 -

tự định đoạt và họ là chủ sở hữu hoàn toàn tự do trước các chủ thể khác có nhu
cầu trong xã hội. Ngay cả Nhà nước cũng chỉ có thể ra mệnh lệnh buộc cơng dân
của mình phải thực hiện nghĩa vụ lao động chứ không thể trưng thu hoặc quốc
hữu hố sức lao động của cơng dân được. Từ sự phân tích trên, các nhà khoa học
pháp lý đã đưa ra đề xuất là không nên sử dụng cụm từ “xuất khẩu lao động” mà
thay vào đó nên sử dụng cụm từ “đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài”. Điều này vừa đảm bảo được tính khoa học của thuật ngữ tiếng
Việt, vừa phù hợp với bản chất và vai trò của hoạt động đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Thuật ngữ “đưa người lao động đi làm việc ở nước ngồi” được sử dụng
chính thức lần đầu tiên trong Nghị định số 270/HĐBT ngày 09/11/1991, ban
hành quy chế về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước
ngồi. Đây cũng là văn bản pháp luật quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi cơ chế
điều chỉnh bằng pháp luật trong lĩnh vực này. Sau đó, Bộ luật lao động năm 1994
được ban hành đã sử dụng thuật ngữ “đưa người lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngồi” và được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật của
nhà nước ta từ những năm 1990 đến nay. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường,
sức lao động được coi là một thứ hàng hóa đặc biệt, khơng chỉ được tự do th
mướn ở trong nước mà cịn có thể chuyển dịch ra nước ngồi với mục đích kinh
tế, nhằm thu ngoại tệ về cho Việt Nam.
Hiện nay, trong Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, cụm từ “xuất khẩu lao động” đã chính thức được thay thế bằng
cụm từ “đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.
Trong đạo luật này và các văn bản hướng dẫn, hoạt động đưa người lao động

Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được hiểu là hoạt động được
tiến hành bởi các cơ quan, tổ chức nhằm đưa người lao động Việt Nam ra nước
ngoài làm việc trên cơ sở sự thỏa thuận bằng văn bản giữa người lao động và các
doanh nghiệp, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam. Kết quả của hoạt động này
là các quan hệ lao động được hình thành giữa người lao động Việt Nam và


- 11 -

doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài là người sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động được ký trực tiếp giữa các bên. Tuy nhiên, do hoạt động dịch vụ cung ứng
lao động giữa nhà trung gian cung ứng lao động Việt Nam và đối tác nước ngồi
có nhu cầu tuyển dụng lao động chịu sự điều chỉnh chủ yếu của các điều ước
quốc tế và pháp luật quốc gia đó nên tạm thời chưa được đề cập trong phạm vi
của đề tài này.
Như vậy, có thể hiểu hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng là hoạt động bao gồm quy trình khép kín bắt đầu khi
chủ thể làm dịch vụ đưa lao động đi nước ngoài (trong luận văn này chúng tôi
gọi tắt là bên A) bắt đầu tiến hành các hoạt động tìm kiếm các ứng viên phù hợp
(trong luận văn này chúng tôi gọi tắt là bên B) để giới thiệu cho các đối tác nước
ngoài đang có nhu cầu tuyển lao động (trong luận văn này chúng tơi gọi tắt là
bên C). Sau đó bên A sẽ tiến hành các hoạt động đào tạo định hướng hoặc dạy
nghề cho bên B để cung cấp cho bên B những kiến thức và kỹ năng cần thiết
(được gọi tắt là quá trình giáo dục định hướng). Đồng thời, bên A cũng tiến hành
các thủ tục cần thiết để giúp bên B xuất cảnh khỏi Việt Nam, nhập cảnh vào
nước tiếp nhận lao động. Cuối cùng, sau khi bên B đã chấm dứt việc thực hiện
hợp đồng lao động với bên C tại nước ngoài, bên B sẽ trở về Việt Nam.
Có thể thấy hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài là một quy trình khép kín bao gồm nhiều giai đoạn, với nhiều chủ thể khác
nhau tham gia và chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.

Các chủ thể tham gia quá trình này bao gồm: i) Doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (bên A); ii) Người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài (bên B), iii) Bên nước ngồi có nhu cầu tiếp nhận
lao động (bên C).
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài được chủ yếu thoả thuận trong ba loại hợp đồng
cơ bản sau đây: Hợp đồng cung ứng lao động ký giữa bên A và bên C, Hợp
đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ký giữa bên A và bên B và
Hợp đồng lao động ký giữa bên B và bên C. Hợp đồng cung ứng lao động mà
doanh nghiệp Việt Nam (bên A) ký kết với bên nước ngoài (bên C) là một loại


- 12 -

hợp đồng dịch vụ có bản chất pháp lý gần giống các loại hợp đồng trong kinh
doanh, thương mại mà theo đó, bên cung ứng lao động (bên A) sẽ được nhận
khoản thù lao chính là khoản phí môi giới mà người lao động phải trả theo quy
định của nhà nước, được xác định căn cứ vào mức lương tháng của người lao
động. Còn Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được ký kết
giữa các chủ thể của Việt Nam, đó là doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài và người lao động. Đây thực chất là hợp đồng dịch vụ
việc làm và phải tuân thủ hoàn toàn các quy định của pháp luật Việt Nam. Đối
tượng của hợp đồng này là công việc được pháp luật cho phép thực hiện: đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nội dung của hợp đồng này phải phù
hợp với nội dung của Hợp đồng cung ứng lao động đã ký với bên nước ngoài
(bên C). Hợp đồng lao động giữa bên B và bên C có thể được ký kết ở Việt Nam
hoặc ở nước ngoài nhưng được thực hiện ở nước ngoài và hoàn toàn chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước tiếp nhận lao động. Tuy nhiên, việc ký kết hợp đồng
này phải dựa trên sơ sở của Hợp đồng cung ứng lao động và phải có nội dung
phù hợp với Hợp đồng cung ứng lao động đã ký giữa bên A và bên C.

Hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi là hoạt
động mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân người lao động, doanh nghiệp đưa đi
và nhà nước. Đối với người lao động, việc ra nước ngồi làm việc góp phần làm
tăng thu nhập của bản thân người lao động và gia đình họ. Khi ra nước ngồi làm
việc, người lao động thường có có thu nhập cao hơn so với làm việc trong nước
thông. Nhờ có nguồn thu nhập đó, người lao động gửi khoản tiền đó về cho gia
đình để tiết kiệm. Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, năm 2007, chỉ riêng lao động Việt Nam ở nước ngoài
chuyển về nước khoảng 2 tỷ USD. Khoản tiền người lao động gửi về nhà được
chia làm hai phần: một phần gia đình chi tiêu vào việc nâng cao mức sống, chăm
sóc sức khỏe của gia đình, đặc biệt là chi tiêu cho việc học tập của con cái góp
phần nâng cao dân trí, một phần lớn dành để tiết kiệm nhằm mục đích đầu tư
trong tương lai. Đối với đa số doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở


- 13 -

nước ngoài, đây là một hoạt động kinh doanh thuần tuý, do đó, mục tiêu của họ
là hướng tới các khoản lợi nhuận thu được thông qua hoạt động này. Đối với nhà
nước, việc cho phép đưa người lao động ra nước ngoài làm việc tạo điều kiện để
chúng ta tận dụng nguồn nhân lực làm tăng thu nhập quốc gia. Việt Nam có
nguồn lao động dồi dào và trẻ. Việc thực hiện chính sách đưa người lao động ra
nước ngoài làm việc sẽ tạo cơ hội để sử dụng số lao động thất nghiệp vào việc
sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ tại nước khác, mang lại thu nhập cho người lao
động; đồng thời góp phần làm tăng thu nhập quốc gia. Theo thống kê của Ngân
hàng thế giới, năm 2006, người Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về nước bằng
con đường chính thức là 4,8 tỉ USD, tương đương với 7,9% GDP năm 2006.
Bên cạnh đó, việc đưa người lao động ra nước ngồi làm việc cịn góp
phần thúc đẩy chi tiêu của Chính phủ cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Người lao động ra nước ngoài làm việc muốn được doanh nghiệp nước sở

tại tiếp nhận thì họ phải có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ ngoại ngữ nhất định
theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động. Do vậy, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở
vật chất, đội ngũ giảng viên và các điều kiện khác để đảm bảo cho việc đào tạo
người lao động. Điều này sẽ làm tăng chi tiêu của Chính phủ. Khi chi tiêu cho
đầu tư của Chính phủ tăng sẽ góp phần làm tăng GDP cả trong ngắn hạn và dài
hạn. Việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc cũng tạo điều kiện cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu ngành nghề cho phù hợp với sự
thay đổi của thực tiễn kinh tế - xã hội.
Việc đưa người lao động ra nước ngồi làm việc cịn góp phần trực tiếp
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khi đi làm việc ở nước ngoài, người lao
động được trang bị một khối lượng kiến thức học vấn và ngoại ngữ cơ bản. Khi
được làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và cơng nghệ tiên
tiến, trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của họ ngày càng được nâng cao.
Sau một thời gian làm việc ở nước ngồi, trình độ tay nghề, ý thức kỷ luật,
phong cách làm việc, trình độ ngoại ngữ và vốn hiểu biết của người lao động
được nâng cao vượt bậc.


- 14 -

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc
Thứ nhất, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là hoạt
động mang tính xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là một dạng hàng hóa
đặc biệt. Mà sức lao động lại luôn gắn với người lao động, không thể tách rời
người lao động, do vậy hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc
ln gắn với chính cuộc sống của người lao động. Do đó, mọi chính sách, pháp
luật trong lĩnh vực này phải kết hợp với các chính sách xã hội để bảo đảm các
chế độ cho người lao động một cách cao nhất (ví dụ như quyền được hưởng bảo
hiểm xã hội, quyền được tôn trọng danh dự và nhân phẩm, tham gia tổ chức cơng

đồn…). Hơn nữa, do người lao động Việt Nam chỉ đi làm việc ở nước ngoài có
thời hạn nên cần có chính sách tiếp nhận và sử dụng người lao động một cách
hợp lý sau khi họ về Việt Nam. Điều đó sẽ giúp người lao động yên tâm làm việc
ở nước ngoài và làm việc có hiệu quả hơn.
Thứ hai, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là một
hoạt động mang tính kinh tế.
Ở nhiều nước trên thế giới, đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài
là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lực lượng
lao động đang gia tăng ở nước họ, thu ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về
nước của người lao động và các lợi ích khác. Những lợi ích này buộc các nước
có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải chiếm lĩnh thị phần ở thị
trường lao động ngoài nước. Việc chiếm lĩnh được hay không phụ thuộc vào khả
năng xúc tiến quan hệ với nước ngoài, nguồn nhân lực trong nước và chịu sự
điều tiết của các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật
giá cả, quy luật cung – cầu. Bên cung cấp lao động phải tính tốn mọi hoạt động
của mình làm sao để bù đắp được chi phí và có lãi, vì vậy cần phải có cơ chế
thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung lao động. Bên có nhu cầu lao động
cũng phải tính tốn kỹ lưỡng hiệu quả của việc tiếp nhận lao động. Như vậy, việc
quản lý nhà nước, sự điều chỉnh của pháp luật luôn luôn phải bám sát đặc điểm


- 15 -

này để mục tiêu kinh tế luôn là mục tiêu trọng tâm của các chính sách pháp luật
về hoạt động này.
Thứ ba, hoạt động đưa người lao động ra nước ngồi làm việc là sự kết
hợp hài hịa giữa tầm vĩ mô và tầm vi mô.
Ở tầm vĩ mô, nhà nước ký kết các Hiệp định song phương và đa phương,
những thỏa thuận với các quốc gia dựa trên những nguyên tắc chung của thị
trường lao động quốc tế. Đồng thời, nhà nước ban hành các văn bản pháp lý quy

định cụ thể về hoạt động đưa người lao động ra nước ngồi làm việc. Cịn ở tầm
vi mô, các doanh nghiệp trực tiếp tham gia quan hệ pháp luật này căn cứ vào các
quy định của pháp luật để tiến hành hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngồi một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, trong q trình thực hiện pháp
luật, các doanh nghiệp còn phát hiện những điểm bất cập của pháp luật và kiến
nghị để nhà nước có biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Trong giai đoạn 1980 – 1990, Việt Nam đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài chủ yếu dựa trên các Hiệp định song phương trong đó quy định khá
chi tiết về điều kiện tiền lương, ăn ở, đi lại và bảo vệ quyền lợi của người lao
động. Về cơ bản, nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hợp tác
lao động, vừa trực tiếp quản lý lao động làm việc ở nước ngoài.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế thì hầu như tồn bộ
hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc đều do các tổ chức, doanh
nghiệp có chức năng thực hiện theo quy định của pháp luật. Các tổ chức, doanh
nghiệp hoàn tồn tự chịu trách nhiệm trong tồn bộ q trình từ khâu tuyển chọn,
đưa đi, quản lý người lao động cũng như hiệu quả kinh tế trong hoạt động của
mình.
Thứ tư, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngồi phải đảm
bảo được lợi ích của cả 3 bên: Nhà nước - Người lao động - Doanh nghiệp đưa
đi.
Trong hoạt động này, lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ mà
người lao động ở nước ngoài gửi về, là khoản thu từ thuế thu nhập của họ. Lợi


- 16 -

ích của tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là các khoản thu từ
các loại phí dịch vụ. Cịn lợi ích của người lao động là có cơng ăn việc làm, thu
nhập chắc chắn sẽ cao hơn nhiều so với ở trong nước. Xuất phát từ lợi ích, các
doanh nghiệp rất dễ vi phạm quy định của Nhà nước trong việc thu các loại phí

dịch vụ, đóng thêm các khoản tiền ngồi quy định của pháp luật. Ngược lại, vì
chạy theo lợi ích, mong muốn nhanh chóng thu hồi những khoản chi phí đã bỏ ra
để được đi làm việc ở nước ngoài, nhiều người lao động đã vi phạm hợp đồng
(như bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, vi phạm pháp luật nước sở tại…).
Do đó, các chế độ, chính sách pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài khi ban hành phải được xem xét trên mọi khía cạnh, phải được tính
tốn sao cho đảm bảo sự hài hồ lợi ích của các bên, đặc biệt quan tâm tới lợi ích
của người lao động.
Thứ năm, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc chịu sự
điều chỉnh của nhiều loại quy phạm pháp luật.
Đây cũng là một loại quan hệ phát sinh trong lĩnh vực lao động, vì vậy nó
được pháp luật lao động điều chỉnh một cách thống nhất. Bên cạnh đó, hoạt động
này còn chịu sự điều chỉnh của luật dân sự (về hợp đồng, bảo lãnh, tiền ký
quỹ,...), luật hành chính (về vấn đề xuất, nhập cảnh, xử lý vi phạm hành chính),
luật hình sự (đối với các vi phạm hình sự), luật tố tụng dân sự (đối với vấn đề
giải quyết tranh chấp),...
Quan hệ này còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật quốc tế như
các Hiệp định ký kết giữa Chính phủ với các nước, các quy phạm pháp luật quốc
gia mà người lao động đến làm việc. Đơi khi, khơng tránh khỏi tình trạng xung
đột pháp luật. Vì vậy, trong q trình xây dựng các chính sách, pháp luật điều
chỉnh hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi cần có
sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong nước với nhau và giữa pháp luật
trong nước với pháp luật và thơng lệ quốc tế.
1.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của việc đưa người lao động Việt Nam ra
nước ngoài làm việc trong bối cảnh hiện nay


- 17 -

* Những thuận lợi cơ bản của Việt Nam khi tiến hành hoạt động đưa

người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc là:
Thứ nhất, Việt Nam có nguồn cung ứng lao động dồi dào.
Việt Nam là nước có dân số đơng. Kết quả của cuộc Tổng điều tra dân số
và nhà ở năm 2009 cho thấy, Việt Nam hiện đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số
vàng” - thời kỳ mà nhóm dân số trong độ tuổi lao động cao gần gấp đơi nhóm
dân số phụ thuộc. Đến thời điểm 0 giờ ngày 1/4/2009, cả nước có 43,8 triệu
người trong độ tuổi lao động đang làm việc (chiếm 51,1% dân số). Mỗi năm,
nước ta lại có khoảng 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Điều này tạo ra
cho chúng ta thuận lợi là có nguồn lao động lớn để sẵn sàng cung ứng cho thị
trường trong nước và quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các quốc gia và tham gia thị
trường lao động quốc tế.
Trước đây, hoạt động lao động chủ yếu bó hẹp trong phạm vi của một
quốc gia, một vùng lãnh thổ. Nhưng hiện nay, cùng với xụ thế hội nhập kinh tế
toàn cầu, việc người lao động thường xuyên di chuyển từ quốc gia này sang quốc
gia khác đã trở nên khá phổ biến. Người lao động có thể di chuyển tự do từ các
quốc gia dư thừa lao động đến các quốc gia có nhu cầu tiếp nhận lao động cao,
với các công việc phù hợp và mức thu nhập cao hơn so với công việc trong
nước. Nhìn chung, các quốc gia cần nhập khẩu lao động vì nhiều lý do khác
nhau: một số nước (như ở Trung Đơng) có dân số ít mà giàu tài nguyên, cần
nhiều lao động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia;
những nước đã phát triển và các nước công nghiệp mới (như Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore, Malaixia), mặc dù cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch sang những
ngành dùng nhiều tư bản, cơng nghệ và lao động trí thức và chuyển sang nước
ngồi những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao nhưng khơng thể
chuyển hết ra nước ngồi, vì vậy vẫn có nhu cầu tiếp nhận lao động giản đơn ở
các quốc gia khác; một số nước phát triển (như Nhật Bản) có các chương trình
chuyển giao cơng nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho



- 18 -

các nước đang phát triển nên sẵn sàng tiếp nhận và đào tạo lao động cho các
quốc gia khác,...
Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới, thiết lập các cơ quan ngoại giao tại nhiều quốc gia nên có nhiều cơ hội tìm
hiểu khả năng đưa lao động đi làm việc ở nước ngồi. Trong q trình hội nhập,
nhiều cơ hội việc làm ở ngoài nước sẽ mở ra đối với lao động Việt Nam.
Thứ ba, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài là hoạt động được
Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm.
Điều này được thể hiện rõ trong được lối, chính sách của Đảng và nhà nước
ta. Từ những năm 80 của thế kỷ 20, chúng ta đã có chính sách hợp tác để đưa lao
động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định “mở rộng việc đưa
lao động ra nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp, coi đó là một bộ phận
hữu cơ của chương trình lao động nói chung”.
Ngày 22/9/1998, Bộ Chính trị có Chỉ thị 41/CT-TW khẳng định “đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài là một hoạt động kinh tế xã hội góp phần phát
triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay
nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường
quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước…”
Tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, Đảng ta tiếp tục khẳng
định quan điểm của mình trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Có
chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực
nông thôn. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua
đào tạo nghề, lao động nông nghiệp”.
Thứ tư, pháp luật điều chỉnh hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài tương đối đầy đủ.
Trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng về hoạt động xuất khẩu lao

động, hàng loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động đưa người lao


- 19 -

động đi làm việc ở nước ngoài đã được Nhà nước ban hành, tạo cơ sở pháp lý
tương đối đầy đủ thúc đẩy hoạt động này phát triển. Sự ra đời của Luật đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng, có hiệu lực từ
ngày 01/7/1007 và hàng loạt các văn bản hướng dẫn thực hiện đã tạo ra cơ sở
pháp lý vững chắc cho hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
được tiến hành thống nhất và hiệu quả.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Lao động thế
giới (ILO) vào ngày 26/1/1980, đã tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế song
phương và đa phương về lao động với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo nền tảng
pháp lý cho sự hợp tác lao động giữa Việt Nam với các quốc gia khác.
* Những khó khăn cơ bản của Việt Nam khi tiến hành các hoạt động
đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc là:
Thứ nhất, chất lượng lao động Việt Nam chưa cao.
Mặc dù có số lượng lao động lớn song nhìn chung chất lượng nguồn lao
động nước ta chưa cao và không đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động trong nước và quốc tế. Lao động Việt Nam chủ yếu là lao động
phổ thông, yếu ngoại ngữ, thiếu hiểu biết về pháp luật, kiến thức công nghệ
thông tin, yếu về sức khỏe, lại khơng có tác phong làm việc cơng nghiệp. Điều
này đồng nghĩa với việc người lao động không thể tìm được cơng việc với mức
lương cao, khơng đáp ứng được yêu cầu của xu thế đổi mới, sử dụng công nghệ
ngày càng cao vào sản xuất và quản lý của các doanh nghiệp. So với các nước
cùng tham gia đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như Philippin, Thái
Lan, Indonesia thì sức cạnh tranh của lao động Việt Nam kém hơn hẳn, dẫn tới
việc chúng ta chỉ chiếm lĩnh được những thị trường cần nhiều lao động giản đơn,
thu nhập thấp, người lao động dễ bị bóc lột và nhiều hậu quả tiêu cực khác trong

quá trình làm việc ở nước ngồi.
Thứ hai, nhu cầu sử dụng lao động của thị trường lao động quốc tế đang
giảm mạnh do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế.


- 20 -

Thực tế hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phụ thuộc
rất nhiều vào nhu cầu, chính sách và tình hình kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận
lao động trong từng thời kỳ nhất định. Hiện nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2009, nhiều nước có sử dụng nhiều lao động nước
ngoài đã tạm ngừng tiếp nhận lao động, trong đó có cả lao động Việt Nam, để
đảm bảo việc làm cho lao động trong nước, như Malaixia, Hàn Quốc, Cộng hòa
Séc,... Riêng năm 2009, đã có khoảng 9.000 lao động Việt Nam ở nước ngồi
phải về nước trước thời hạn vì bị mất việc làm. Tuy vậy, các quốc gia vẫn có nhu
cầu tiếp nhận lao động nước ngồi nhưng địi hỏi lao động có tay nghề và trình
độ cao, điều mà phía Việt Nam khó đáp ứng.
Thứ ba, hoạt động đưa người lao động ra nước ngồi làm việc diễn ra
trong mơi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Điều này xuất phát từ hai lý do
chủ yếu sau đây: Một là, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngồi mang lợi
ích kinh tế lớn cho các nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm cho người
lao động. Điều đó buộc các nước này phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị
trường lao động ngoài nước. Nghĩa là họ phải đầu tư nhiều cho chương trình xúc
tiến tìm kiếm thị trường, tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Hai là, việc đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngồi đang diễn ra trong một mơi trường mà các nền kinh tế - xã hội có
nhiều biến động cả ở trong khu vực và trên thế giới. Nhiều nước trước đây nhận
nhiều lao động ngoài nước như Hàn Quốc, Nhật Bản… đang phải đối đầu với
nạn thất nghiệp đang ngày càng gia tăng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến nhu
cầu tiếp nhận lao động nước ngoài trong thời gian vừa qua cũng như thời gian

sắp tới. Khi cung lớn, cầu ít đi thì chắc chắn rằng sự cạnh tranh là gay gắt hơn.
Vì vậy, khi xây dựng chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này, nhà nước cần
phải chú ý tới đặc điểm nói trên để có chương trình dài hạn cho hoạt động tìm
kiếm thị trường, đào tạo người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Thứ tư, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngồi có nhiều
biến động và rủi ro cao.


- 21 -

Hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phụ thuộc nhiều
vào nhu cầu và chính sách của nước tiếp nhận lao động, đồng thời phụ thuộc vào
tình hình kinh tế - chính trị của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn nhất định. Do
vậy, để có thể giữ vững thị trường, chủ động thích ứng với những biến đổi trong
từng hoàn cảnh nhất định, hạn chế những rủi ro xảy ra đối với người lao động và
cả doanh nghiệp đưa đi, việc xây dựng chính sách đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngồi cần có sự phân tích, đánh giá, dự đốn tình hình; đồng thời
cần chuẩn bị đội ngũ lao động có tay nghề cao, giỏi ngoại ngữ, được đào tạo, bồi
dưỡng những kiến thức cần thiết trước khi đưa ra nước ngoài làm việc.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật Việt Nam đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
1.2.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối
với hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngồi
Xuất phát từ tính chất phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngồi có thể thấy rõ sự cần thiết phải có pháp
luật điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do pháp luật
quốc tế và pháp luật của quốc gia tiếp nhận lao động đã có sự điều chỉnh đối với
những vấn đề về quyền và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam ở nước ngoài
nên cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam đối với những vấn đề phát sinh từ hoạt động đưa lao động Việt Nam ra

nước ngoài làm việc.
Cụ thể là, nếu Việt Nam và quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam đã có
những hiệp định tương trợ tư pháp quy định chi tiết, cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của 3 bên (người lao động, tổ chức dịch vụ lao động và người sử dụng lao động)
trong quá trình tìm kiếm - đưa lao động đi làm việc - tiếp nhận lao động - thanh
lý hợp đồng thì luật Việt Nam chỉ đưa ra những vấn đề chung về nguyên tắc áp
dụng pháp luật quốc tế và việc thanh tra, xử lý vi phạm đối với những trường
hợp vi phạm các cam kết giữa hai Chính phủ.
Trong trường hợp chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp giữa hai quốc gia,
hoặc nếu đã có Hiệp định tương trợ tư pháp những Hiệp định đó quy định chưa


- 22 -

cụ thể thì cần có sự xác định rõ ràng phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chính
của pháp luật lao động Việt Nam và pháp luật lao động nước tiếp nhận lao động.
Trên cơ sở đó xây dựng các quy phạm pháp luật tương ứng, cũng như hạn chế
tình trạng xung đột pháp luật khi điều chỉnh một vấn đề cụ thể phát sinh từ hoạt
động này. Thông thường, những vấn đề phát sinh trong giai đoạn tìm kiếm lao
động - giáo dục định hướng và chuẩn bị đưa người lao động xuất cảnh khỏi Việt
Nam (gọi chung là giai đoạn trước khi xuất cảnh khỏi Việt Nam) và giai đoạn
thanh lý hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài sau khi về Việt Nam
(tạm gọi là giai đoạn nhập cảnh vào Việt Nam) sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật Việt Nam, với đối tượng điều chỉnh là quan hệ giữa tổ chức, doanh
nghiệp đưa lao động đi nước ngoài (bên A) với người lao động (bên B) và quan
hệ giữa bên A với doanh nghiệp tiếp nhận lao động ở nước ngoài (bên C).
Như vậy, quan hệ giữa bên B và bên C sau khi bên B đã sang đến nước
ngồi sẽ khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam. Tuy
nhiên, do hợp đồng lao động (hợp đồng 3) ký giữa bên B và bên C ngoài việc
phải phù hợp với pháp luật lao động của nước tiếp nhận lao động, phù hợp với

quy định nội bộ về lao động của doanh nghiệp tiếp nhận lao động (nếu quy định
đó là hợp pháp) thì những vấn đề cơ bản của hợp đồng lao động này cũng phải
phù hợp với những thoả thuận đã đạt được trong hai hợp đồng trước đó là hợp
đồng cung ứng lao động (ký giữa bên A và bên C - hợp đồng 1) và hợp đồng đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài (ký giữa bên A và bên B - hợp đồng 2).
Do đó, ở một mức độ nhất định, tuy không trực tiếp điều chỉnh quan hệ lao động
giữa bên B và bên C, cũng như không được sử dụng là cơ sở pháp lý nếu phát
sinh tranh chấp giữa bên B và bên C, nhưng những quy định có tính chất định
khung của pháp luật lao động Việt Nam về vấn đề đưa lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngồi cũng có những tác động nhất định thông qua việc ký hai hợp
đồng (1 và 2) có trước hợp đồng lao động (3).
Ngồi ra, cũng cần lưu ý thêm là khi xác định đối tượng điều chỉnh và
phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động đưa lao động đi
làm việc ở nước ngồi, chúng tơi chỉ muốn nhắc đến khía cạnh điều chỉnh dưới
góc độ của luật lao động. Những khía cạnh điều chỉnh khác, liên quan đến luật
hành chính, luật tài chính, luật dân sự hay luật hình sự khi xác định nhân thân, lý


- 23 -

lịch tư pháp của người lao động, hoặc về thủ tục hồ sơ xuất nhập cảnh của người
lao động do không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật lao động nên sẽ không
được đề cập đến trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài (mặc dù nếu gọi một cách đầy đủ và chính xác
thì đây phải gọi là: “pháp luật lao động Việt Nam về đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng”).
Tóm lại, pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài chỉ điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (bên A) và người lao động Việt
Nam (bên B) đối với các vấn đề về lao động và giải quyết tranh chấp (nếu có)

trước khi người lao động ra nước ngoài làm việc và sau khi người lao động về
nước. Những vấn đề này bao gồm điều kiện gia nhập thị trường, hoạt động tìm
kiếm thị trường, tuyển dụng lao động của bên A, trách nhiệm của bên A và bên
B trong việc giáo dục định hướng cho bên B để đáp ứng yêu cầu của bên nước
ngoài tiếp nhận lao động (bên C), quyền và nghĩa vụ của hai bên trong việc ký
kết, thực hiện và thanh lý hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài, việc xử lý vi phạm và việc giải quyết tranh chấp giữa hai bên (nếu có).
Ngồi ra, có thể điều chỉnh một phần quan hệ Hợp đồng cung ứng lao động giữa
bên A và bên C sao cho phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật Việt Nam
trong trường hợp khơng có Điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa hai bên.
Còn mối quan hệ giữa người lao động Việt Nam với bên nước ngoài tiếp nhận
lao động diễn ra ở nước ngoài và hoàn toàn chịu sự điều chỉnh của pháp luật
nước ngoài hoặc các Điều ước quốc tế ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với các
quốc gia tiếp nhận lao động. Những vấn đề khác liên quan đến lĩnh vực này
như: việc thành lập của các doanh nghiệp đưa lao động đi nước ngoài, tiến hành
các thủ tục để người lao động xuất cảnh, nhập cảnh, việc xử lý vi phạm hình sự
đối với các chủ thể vi phạm pháp luật trong quá trình đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngồi... sẽ khơng được pháp luật Việt Nam (pháp luật lao động) về
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trực tiếp điều chỉnh.


- 24 -

1.2.2. Những nội dung cơ bản cần được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam
trong quá trình đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp
đồng
Trên cơ sở việc xác định và phân biệt tương đối rõ nét về phạm vi và đối
tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động như đã nêu ở trên, có thể thấy
trong lĩnh vực này, pháp luật lao động Việt Nam cần điều chỉnh những vấn đề

sau: i) Các hình thức đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; ii) Quyền
và nghĩa vụ của tổ chức, doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài
(bên A); iii) Quyền và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài (bên B); iv) Vấn đề thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật Việt Nam về đưa
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; v) Vấn đề giải quyết tranh chấp
trong hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài khi liên quan
đến các vấn đề (i); (ii); (iii). Những vấn đề cụ thể nổi lên trong thời gian qua và
được đưa tin khá nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng như: bảo vệ
quyền lợi của người lao động Việt Nam ở nước ngoài, trách nhiệm của các
doanh nghiệp dịch vụ khi đem con bỏ trợ; xử lý các doanh nghiệp dịch vụ chạy
theo lợi nhuận, không bảo vệ người lao động... thực chất là những trường hợp cụ
thể phát sinh từ năm vấn đề trên. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu khách quan đối với
việc điều chỉnh bằng pháp luật lao động Việt Nam, pháp luật lao động Việt Nam
về đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng cần có
những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng và thủ tục tiến hành các hình thức đó.
Để xác định giới hạn điều chỉnh của pháp luật về đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và bao quát được các hình thức
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng mà pháp
luật lao động cần điều chỉnh, phải xác định rõ các hình thức đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong mỗi hình thức phải xác


- 25 -

định chủ thể tham gia và địa vị pháp lý các chủ thể này (bao gồm các tổ chức,
doanh nghiệp nào được đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, người
lao động đi làm việc ở nước ngoài), điều kiện tiến hành đưa lao động đi làm việc
ở nước ngoài, các loại hợp đồng làm căn cứ pháp lý phát sinh quan hệ giữa các

bên và trình tự, thủ tục tiến hành để đưa người lao động đi theo từng hình thức
đó.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của chủ thể đưa lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài (trong luận văn này gọi là bên A)
Trong các quan hệ pháp luật lao động nói chung và quan hệ đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngồi nói riêng, mặc dù pháp luật đã quy định quyền
bình đẳng của các chủ thể, song trên thực tế, người lao động vẫn luôn ở vị thế
yếu hơn, bất lợi hơn khi tham gia quan hệ. Do vậy việc quy định các quyền và
nghĩa vụ của tổ chức, doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài, nhất là xác định các nghĩa vụ đối với người lao động, sẽ tạo cơ sở
pháp lý để bên A tiến hành hoạt động đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm
việc, bảo vệ quyền lợi của bên A đồng thời ràng buộc trách nhiệm của bên A với
người lao động trong toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng, kể cả các nghĩa vụ
đối với người lao động trong quá trình người lao động làm việc ở nước ngồi.
Tuy nhiên, mỗi hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mang
tính chất và đặc điểm khác nhau nên phải quy định các quyền và nghĩa vụ tương
ứng của bên A cho phù hợp.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng (trong luận văn này gọi là bên B).
Người lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài phải hoàn toàn tuân
theo các quy định của pháp luật nước sở tại. Mối quan hệ giữa người lao động
Việt Nam với bên sử dụng lao động nước ngoài cũng do pháp luật nước ngoài
điều chỉnh. Bởi vậy, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ
của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chủ yếu
điều chỉnh quan hệ giữa người lao động với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp,


×