Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Cơ hội và thách thức cho sinh viên khi việt nam gia nhập wto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.17 KB, 17 trang )

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO SINH VIÊN KHI VIỆT NAM GIA
NHẬP WTO
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của
quan hệ quốc tế hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra đời và phát
triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). toàn cầu hóa hiện nay diễn ra trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó rõ nhất là trong lĩnh vực kinh tế và lĩnh
vực thông tin. Hai lĩnh vực này có sức cuốn hút lớn và tác động rất mạnh đối với tất
cả các nước, các cộng đồng và cả các cá nhân.Trải qua ba năm hội nhập với thế giới,
sự tăng lên không ngừng của dòng vốn đầu tư đổ vào Việt Nam nhiều hơn, sự mở
rộng môi trường kinh doanh , nhiều doanh nghiệp mới được thành lập đã tạo ra
nhiều khả năng lựa chọn công việc- nhất là trong thời điểm nguồn nhân lực chất
lượng cao đang thiếu như hiện nay. Và, hội nhập sẽ giúp sinh viên ra trường dễ dàng
lựa chọn những môi trường làm việc vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Việt Nam gia
nhập WTO là một thách thức mà cũng là cơ hội với chúng ta; rất có thể, trong một
ngày không xa, Việt Nam sẽ trở thành một con rồng châu Á nếu biết tận dụng những
cơ hội và vượt qua những thách thức này. Góp phần không nhỏ vào việc khẳng định
vị thế của Việt Nam đó là những Sinh viên Việt Nam.Toàn cầu hóa và hội nhập là xu
hướng phải triển chung của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy
nhiên, một thực tế có thể thấy là có rất ít sinh viên hiểu rõ được những khó khăn và
thách thức hiện nay đối với thế hệ thanh niên – những người chủ tương lai của đất
nước. Những yếu kém và thiếu sót các kĩ năng mềm bên cạnh nghiệp vụ chuyên môn
đã gây không ít trở ngại cho các bạn trẻ sau khi rời giảng đường đại học.
CHƯƠNG I : VIỆT NAM VÀ HỘI NHẬP WTO
1.Việt Nam hội nhập WTO, cơ hội đi kèm với thách thức
a. Giới thiệu chung về WTO:
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World Trade
Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế
giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15-4-1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 1-1-1995.
WTO ra đời trên cơ sở kế tục tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế quan


và Thương mại ( The General Agreement on Tariffs and Trade - GATT). Đây là tổ
chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế
giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán
và ký kết.
Ngày 7/11/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.Chúng ta đã
đàm phán 11 năm với hơn 200 cuộc, trong đó đàm phán đa phương (14 phiên), song
phương (28 đối tác); nước nhanh nhất (3 phiên), nước chậm nhất (13 phiên).
b. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam trên đường hội nhập
- Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu
Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự
do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng
nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc
thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.
- Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh
bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài,tạo niềm tin cho
các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam
- Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi
trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh
tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải
vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ
nền kinh tế
- Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông
thoáng hơn. . Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp
của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự
bình đẳng trong thương mại quốc tế.
- Những lợi ích từ việc gia nhập WTO với lĩnh vực lao động và việc làm:
- Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân

lực cho lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao. Hơn nữa,
sự phát triển nhanh chóng về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt động trao đổi
chuyên gia giữa các nước với Việt Nam sẽ làm cho trình độ chuyên môn kỹ thuật, hợp
tác quốc tế về lao động có cơ hội phát triển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng nhân
lực, để có thể làm chủ các công nghệ và thiết bị tiên tiến trên thế giới.
- Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao
động theo định hướng thị trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao. Trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt
giảm. Tạo điều kiện cho nhân lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng hơn vào
phân công và hợp tác lao động quốc tế.
Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với
nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là:
- Sức ép cạnh tranh
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch
vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn.
Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp
- Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và
bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả
có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá trình
này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội.
- Thách thức của việc hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia.
Chúng ta phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi
trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập,môi trường kinh doanh để
thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh
- Thách thức về nguồn nhân lực
Khi gia nhập WTO đòi hỏi nền kinh tế phải có một nguồn nhân lực dồi dào và
có trình độ và tay nghề cao .Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta trong những năm
tới lên khoảng 6,5-8,5%, đầu tư toàn xã hội năm 2009 ở mức khoảng 40% GDP, đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta vốn đăng ký khoảng trên 60 tỷ USD và vốn thực

hiện khoảng 9 tỷ USD thì nhu cầu lao động có đào tạo trong nước sẽ rất lớn
Cạnh tranh về lao động trình độ cao sẽ ngày càng gay gắt. Hội nhập, toàn cầu
hoá trở thành xu thế chung, lao động nước ngoài (đặc biệt là lao động có kỹ thuật,
trình độ quản lý…) tham gia vào thị trường lao động Việt Nam nhiều hơn, đồng thời
lao động của Việt Nam cũng di chuyển ra nước ngoài nhiều hơn. Cạnh tranh trở nên
gay gắt hơn, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, nhiều người lao động bị mất việc làm;
tốc độ đô thị hoá nhanh, người nông dân bị thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thiếu
đất canh tác…
Ngoài việc phải nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, mức độ lành nghề thì
các yêu cầu khác về chất lượng nguồn nhân lực đang được đặt ra như những thách
thức mới. Đó là yêu cầu về ngoại ngữ, tin học, tác phong và văn hoá ứng xử công
nghiệp, hiểu biết về luật pháp và thông lệ quốc tế… Điều này đòi hỏi lao động phải
nhanh chóng học tập những cái mới, cái ưu việt, nhưng cũng cần phải loại bỏ những
yếu tố không phù hợp và đi ngược lại với đạo đức và văn hoá Việt.
Yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu cấp thiết không chỉ với
nền kinh tế nói chung mà còn với sinh viên nói riêng.Sinh viên trong thời kì mới
không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn của mình còn phải nâng cao khả năng nhận
thức xã hội cũng như khả năng thích ứng trước sự biến đổi liên tục từ phía môi trường
bên ngoài, biết dám chấp nhận sự đổi mới, rủi ro, chấp nhận sự cạnh tranh và xem nó
là một cơ hội để thể hiện năng lực bản thân. Do vậy là những sinh viên trẻ - tầng lớp
tri thức mới chúng ta cần phải mạnh dạn thay đổi suy nghĩ bước đi trên những con
đường mới phù hợp với nhu cầu năng động mà xã hội đặt ra. Chúng ta cần có sự
chuẩn bị từ lúc còn trên ghế nhà trường.Để thích ứng với xu hướng “Công dân toàn
cầu”, đòi hỏi sinh viên (SV) phải có một “nội lực” đủ mạnh mới hội nhập tốt, trong đó
không thể thiếu những kỹ năng sống, kỹ năng hội nhập…
2. Bài học từ các quốc gia thành công trong phát triển nguồn nhân lực cho hội
nhập
Tri thức đang trở thành yếu tố then chốt trong việc xác định khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế. Hai con rồng của châu Á (Hàn Quốc và Singapore là những ví
dụ sinh động nhất cho việc đầu tư vào giáo dục đem lại thành công cho phát triển

kinh tế.
Các nước NICs đều đầu tư mở rộng hệ thống đại học và hướng theo nhu cầu
của chính sách công nghiệp và kiểm soát chặt chẽ về nội dung và chất lượng chương
trình học, đảm bảo thích ứng với ngành được khuyến khích (những ngành yêu cầu
hàm lượng chất xám cao )
Cụ thể như Hàn Quốc trong những năm đầu hội nhập cũng vấp phải khó khăn
về thiếu lao động chất lượng cao. Chính phủ đưa ra các chính sách kiểm soát chặt chẽ
giáo dục đại học. Số lượng SV đại học được tuyển phù hợp với nhu cầu của kinh tế.
Tại Singapore, chính phủ còn tài trợ cho sinh viên nước ngoài tiếp tục theo đuổi
chương trình học Thạc sĩ, Tiến sĩ , khuyến khích họ ở lại sau khi tốt nghiệp.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG , CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO
SINH VIÊN VIỆT NAM
1.Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam nói chung và sinh viên Việt
Nam nói riêng :
a. Nguồn nhân lực Việt Nam chưa đạt yêu cầu và còn yếu so với các nước trong khu
vực. Tỷ lệ lao động được đào tạo của nước ta tuy vẫn tăng đều qua các năm nhưng
đến nay vẫn chỉ đạt 24% tổng lao động (tỷ lệ tương ứng của các nước trong khu vực
là 50%). Tỷ lệ đào tạo lao động có bằng cấp còn thấp (tăng khoảng 7,3%/năm) và
chưa tương ứng với nhu cầu lao động có đào tạo cho phát triển kinh tế.
Cơ cấu đào tạo theo ngành nghề, theo trình độ còn nhiều bất cập. Chất lượng
thấp làm lao động Việt Nam mất thế cạnh tranh, ngay cả ở thị trường lao động nội địa.
Với chất lượng nguồn nhân lực như hiện tại, khi hội nhập với thị trường lao động
quốc tế, lao động Việt Nam sẽ mất lợi thế và phải chấp nhận nhiều thiệt thòi.
Việc làm” vẫn là một trong những vấn đề nóng bỏng của xã hội nói chung và
sinh viên khi ra trường nói riêng với thực tế xã hội “cầu lớn hơn cung”, “thừa thầy
thiếu thợ”.
b. Thực trạng sinh viên VN
Sinh viên thất nghiệp, doanh nghiệp thiếu người
Có một nghịch lý là học sinh phổ thông phải rất vất vả mới có thể chen chân
vào giảng đường đại học với tỷ lệ chọi rất cao, kèm theo đó là vô số thứ tốn kém và

hệ lụy khác. Thế nhưng khi tốt nghiệp ra trường, một bộ phận không nhỏ lại gặp rất
nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm. Một số nghiên cứu sơ bộ cho thấy, trong
vòng 3 năm kể từ khi tốt nghiệp ra trường, trên 20% cử nhân vẫn thất nghiệp hoặc
chưa có việc làm ổn định. Con số này tuy có chiều hướng giảm nhưng không ổn định
và vẫn ở mức cao, gấp đôi tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước.Nó phản ánh khá rõ
những khó khăn trong tìm kiếm việc làm của giới trẻ”.
Theo các nhà xã hội học, tình trạng thất nghiệp còn được nhìn nhận dưới nhiều
góc độ như: công việc không đúng với chuyên môn, một lúc làm nhiều việc nhưng
không chịu trách nhiệm cụ thể, làm việc đúng chuyên môn nhưng không được bàn
giao công việc cụ thể, đảm nhận những công việc chưa xứng với khả năng và chuyên
môn được đào tạo .Như theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tỷ lệ có việc làm đúng
chuyên ngành của sinh viên khối tự nhiên là khoảng 60%, còn các trường thuộc khối
xã hội thấp hơn nhiều. Một nghiên cứu gần đây cho thấy cứ 100 sinh viên khối xã hội
mới tốt nghiệp ra trường chỉ có khoảng 10 người tìm được công việc đúng chuyên
môn. Số còn lại làm những công việc khác để lo cho cuộc sống và chờ cơ hội. Bằng
cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận
Điểm mạnh của sinh viên Việt Nam nói chung:
Sinh viên VN là những người trẻ tuồi , họ ưa các hoạt động giao tiếp, có tri
thức đang được đào tạo chuyên môn.Vì thế sinh viên dễ tiếp thu cái mới, thích cái
mới, thích sự tìm tòi và sáng tạo.
-Tính thực tế của sinh viên thể hiện ở việc chọn ngành chọn nghề, ở việc hướng
đến lựa chọn những kiến thức để học sao cho đáp ứng nhu cầu thực tế, chuẩn bị kinh
nghiệm làm việc cho tương lai, định hướng công việc sau khi ra trường, thích những
công việc đem lại thu nhập cao, v. v Nói chung là tính mục đích trong hành động và
suy nghĩ rất rõ.
-Nhiều SV vừa đi học vừa đi làm (làm thêm bán thời gian, hoặc có khi là thành
viên chính thức của một cơ quan, công ty), hình thành tư duy kinh tế trong thế hệ mới
(thích kinh doanh, muốn tự mình lập công ty ngay khi đang còn là SV), thể hiện sự
tích cực chủ động (tham gia phong trào tình nguyện). Nhiều SV cùng một lúc học hai
trường.Đây là một điều cần thiết trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa.

- SVVN còn có một lý tưởng sống cụ thể.Đang có một sự thay đổi trong lý
tưởng sống gắn liền với sự định hướng cụ thể. Một câu hỏi vẫn thường được đặt ra là:
SV hôm nay sống có lý tưởng không, lý tưởng ấy là gì, có sự phù hợp giữa lý tưởng
của cá nhân và lý tưởng của dân tộc, của nhân loại không. Có thể khẳng định lŕ có,
nhưng đang xuất hiện những đặc điểm lý tưởng có tính thế hệ, lý tưởng gắn liền với
bối cảnh đất nước và quốc tế rất cụ thể. Lý tưởng hôm nay không phải là sự lựa chọn
những mục đích xa xôi, mà hướng đến những mục tiêu cụ thể, gắn liền với lợi ích cá
nhân.
- Những người trẻ luôn có xu hướng mở rộng các mối quan hệ, đặc biệt là
những quan hệ đồng đẳng, cùng nhóm. Các nghiên cứu của hai nhà xã hội học người
Pháp về bản sắc xã hội dưới góc độ nhóm là Taspen và Turnez, đã đưa đến kết luận:
Tính nhóm phụ thuộc vào môi trường xã hội xung quanh chúng ta đang sống. Sự thay
đổi của đời sống tinh thần trong SV trước xu hướng toàn cầu hoá (cả mặt thuận lợi và
hạn chế của xu hướng này) đang hướng mạnh đến tính cộng đồng.
- Đặc biệt trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân
trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt rõ trong những người trẻ có học vấn
là SV. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Dường
như có sự đề cao lợi ích hơn nghĩa vụ cá nhân. Sự hy sinh và quan tâm đến người
khác thấp đi, và nếu có thì đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và
sự chia sẻ. Xuất hiện thái độ bàng quan với xung quanh ở một bộ phận SV.
Sự phân tách các đặc điểm trên chỉ có tính tương đối để phục vụ công tác nghiên
cứu, còn trên thực tế các đặc điểm ấy đan xen và có tác động qua lại lẫn nhau. Tính cá
nhân không tách rời tính liên kết, tính năng động gắn liền với tính thực tế. Mỗi đặc
điểm, qua những biểu hiện cụ thể của nó, luôn bộc lộ tính hai mặt: Vừa có những tác
động tích cực, vừa có những tác động tiêu cực.
Tuy nhiên bên cạnh điểm mạnh chúng ta vẫn còn có một số tồn tại cần phải
được rút kinh nghiệm để sửa chữa
1. Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng, thiếu kiến thức, không đáp ứng được nhu
cầu của nhà tuyển dụng. Các doanh nghiệp mong muốn tuyển chọn những sinh
viên có ngoại ngữ, khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp,

những hiểu biết về môi trường văn hóa doanh nghiệp và tác phong làm việc
công nghiệp.Về mặt này, ngay cả những sinh viên tốt nghiệp với tấm bằng loại
ưu cũng chưa đáp ứng được.Một phần nữa là trình độ ngoại ngữ của hầu hết
svvn còn chưa tốt hoặc nói đúng ra là rất kém.
SVVN gặp khó khăn với tư duy trừu tượng dù SVVN luôn tự hào là nước
có nhiều người tư duy rất tốt về toán.Một bằng chứng tiêu biểu cho khả năng
của người Việt Nam trong lĩnh vực này là sự kiện giáo sư Ngô Bảo Châu là một
trong 2 người châu Á đầu tiên đạt giải thưởng FIELS- được coi như giải thưởng
Nobel cho toán học.Lý do là các bạn không được tiếp cận với các vấn đề khác
nhau và còn tự giam mình trong chuyên môn và dễ dàng bằng lòng với việc tiếp
thu những kỹ năng cụ thể mà không tự trang bị kiến thức
Tại hội thảo khoa học “Định hướng nghề nghiệp việc làm cho SV” ngày
23-12-2009 các nhà khoa học đưa ra con số 60% sinh viên (SV) sau khi ra
trường phải đào tạo lại tại nơi tuyển dụng từ 6 tháng đến 1 năm. Các nội dung
đào tạo lại không chỉ là chuyên môn nghiệp vụ mà cả thái độ làm việc, đạo đức
nghề nghiệp, kỉ luật lao động cho đến các kĩ năng cơ bản trong việc ứng phó và
giải quyết các vấn đề thực tiễn của lao động sản xuất kinh doanh.
Tình trạng này dẫn đến sự giảm sức hấp dẫn của các công ty ,tổ chức nước
ngoài việc tuyển dụng lao động Việt Nam do chi phí để tuyển được nhân viên
cao hơn ở các quốc gia trong khu vực như Indonesia, Malaysia…
2. Sinh viên thiếu tự tin, kém năng động trong tìm kiếm cơ hội, thụ động trong
việc thực hành , tiếp xúc thực tế; định hướng nghề nghiệp còn thiếu và yếu. Họ
chưa chủ động trong việc tìm kiếm thông tin. Hầu hết, nguồn tài liệu chính mà
sinh viên Việt Nam tiếp cận chính là giáo trình, là bài giảng của thầy giáo,
những bài nghiên cứu, sách chuyên ngành trên thư viện mà bỏ qua những luồng
thông tin khác cũng rất quạn trọng như báo chí, như internet,……
3. Sinh viên nhất là sinh viên năm thứ nhất, thứ hai thường gặp khó khăn, lúng
túng trong việc cân đối giữa việc học với những hoạt động khác; thường bỏ phí
rất nhiều thời gian vào những việc mà không đem lại mấy hiệu quả. Họ chưa có
định hướng rèn luyện thực sự rõ ràng cho bản thân. Nói như Giáo sư Nguyễn

Lân Dũng, sinh viên phải xác định học là cho mình chứ không phải cho người
khác, cho thầy giáo.
2.Nguyên nhân
a. Sinh viên không thật sự có khả năng
- Lỗi từ hệ thống giáo dục.
• Đào tạo nhiều hơn nhu cầu . Hiện nay có rất nhiều nghành nghề trong các
trường Cao đẳng- Đaị học được tuyển sinh và đào tạo ồ ạt, chỉ tiêu đào tạo
vượt quá chỉ tiêu tuyển dụng. Giáo dục đại học Việt Nam đang ở trong giai
đoạn mở rộng và tăng trưởng nóng. Theo số liệu được đưa ra trong kỳ họp
Quốc hội vào tháng 6/2010 vừa qua, số trường đại học được thành lập tại Việt
Nam trong giai đoạn 1998 đến 2009 là hơn 300 trường, tức cứ trung bình
chưa đến hai tuần lại có một trường đại học mới - một con số quá sức ấn
tượng, đến mức làm cho một số người có cái nhìn thận trọng không khỏi nghi
ngại.
Tất nhiên, mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục đại học là điều rất
quan trọng đối với bất kỳ đất nước nào để đào tạo ra nguồn nhân lực cho sự
phát triển kinh tế. Nhưng câu hỏi đặt ra là, liệu có nên mở trường đại học bằng
mọi giá, đặc biệt khi chưa có những nghiên cứu kỹ lưỡng về giá trị của việc
học đại học đối với chính người học và sự phát triển nền kinh tế của đất nước?
• Chất lượng đào tạo còn yếu kém . Khoảng cách về chất lượng của GD-ĐT Việt
Nam vẫn còn khá xa so với khu vực và thế giới.Chương trình, nội dung và
phương pháp đào tạo, bồi dưỡng tài năng còn lạc hậu, chưa tiếp cận được với
trình độ tiên tiến và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Việt Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công
nhận. Không đại học nào của Việt Nam được xếp vào danh sách 200 trường đại
học hàng đầu của khu vực châu Á.Về phương diện này thì Việt Nam khác xa với
cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có thể kiêu hãnh về
ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. .Các trường đại học Việt Nam phần lớn bị cô
lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế.

Các trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có trình độ
như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều tra do các hiệp hội
thuộc Chính phủ thực hiện cho thấy khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp đại học ở
Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, một bằng chứng cho thấy
sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng dạy và nhu cầu của thị trường. Với hơn
25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc quá nặng về tuyên
truyền chính trị, không phải băn khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được
trang bị rất kém cho cả việc đi làm lẫn việc đi du học.
Quốc gia Số bằng sáng chế được cấp năm 2006
Hàn Quốc 102.633
Trung Quốc 26.292
Singapore 995
Thailand 158
Malaysia 147
Philippines 76
Việt Nam 0
Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review
Có thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở
thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một cuộc kiểm tra
đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt Nam, chỉ có 90 ứng cử
viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và trong nhóm này, chỉ có 40 người có
đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ
nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư.
* Tìm hiểu nguyên nhân khủng hoảng giáo dục đại học ở Việt Nam
Nguyên nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất bại ngiêm
trọng trong quản lý. Các trường đại học có chất lượng, từ Boston đến Bắc Kinh, đều
có những nhân tố chủ chốt nhất định mà Việt Nam hiện đang rất thiếu.
 Tự trị : Theo đánh giá của đại học Harvard về giáo dục đại học ở Việt Nam, các
cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý tập trung hoá cao
độ. Chính quyền trung ương quyết định số lượng sinh viên các trường được

phép tuyển, và (trong trường hợp các trường đại học công lập) lương trả cho
các giảng viên đại học. Ngay cả những quyết định mang tính thiết yếu đối với
việc vận hành một trường đại học như việc lập khoa cũng do hệ thống quản lý
tập trung hoá này kiểm soát. Hệ thống này hoàn toàn không khuyến khích các
trường và học viện cạnh tranh hay đổi mới. Thù lao được trả căn cứ vào thâm
niên, và lương cứng thấp đến nỗi các giảng viên đại học phải “đi đêm” rất nhiều
để có thể đảm bảo cuộc sống. Khác hẳn với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa
thực sự khuyến khích người Việt Nam học ở nước ngoài.
 Lựa chọn dựa trên thành tích: Tham nhũng lan tràn và việc mua bán bằng cấp,
học hàm, học vị là rất phổ biến. Các hệ thống nhân sự đại học đều mù mờ và
việc bổ nhiệm thường dựa trên những tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên,
lý lịch gia đình và chính trị, và các mối quan hệ cá nhân
 Trách nhiệm giải trình: Các trường đại học Việt Nam không chịu trách nhiệm
trước các cổ đông bên ngoài, và đáng trách là trong đó có cả những người tuyển
dụng. Trong nội bộ hệ thống công lập, việc rót vốn không liên quan đến công
việc hay chất lượng theo bất cứ hình thức đáng kể nào. Tương tự, kinh phí
nghiên cứu của Chính phủ cũng không được cấp một cách có cạnh tranh mà
chủ yếu được coi là một hình thức bổ sung lương. Vì có quá nhiều người thèm
muốn những cánh cửa hẹp vào các trường đại học - chỉ 1/10 người Việt Nam ở
độ tuổi học đại học được tuyển sinh vào các trường sau phổ thông – nên các
trường đại học Việt Nam không phải chịu áp lực đổi mới nào. Họ có một thị
trường bị giam cầm, vì du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ.
 Chưa có quy chế phối hợp trong quản lý các trường ĐH,CĐ giữa Bộ Giáo dục
và các bộ, ngành khác, trong khi số trường ĐH, CĐ trực thuộc các bộ, ngành
khác chiếm tới 1/2 tổng số trường, dẫn đến tình trạng không có khả năng đánh
giá chất lượng giáo dục đại học của toàn bộ hệ thống. Cũng theo Phó Thủ
tướng, do chưa phân cấp quản lý giáo dục đại học nên với tổng số 375 trường
ĐH, CĐ trong cả nước, Bộ cần hơn 2 năm mới đi kiểm tra hết 1 lượt;…Nếu
không phân cấp, Bộ sẽ không làm xuể, thực chất là buông lỏng việc quản lý các
cơ sở đào tạo ĐH, CĐ.

Đầu tư vào du học vẫn chưa đủ để cải thiện hệ thống. Nếu môi trường chuyên
môn không được đại tu, sẽ không có nhiều người Việt Nam được đào tạo ở
nước ngoài muốn quay về làm công tác giảng dạy.Vấn đề “chảy máu chất xám”
vẫn luôn là vấn đề nhức nhối trong suốt thời gian qua.
- Lỗi từ bản thân sinh viên : Có những sinh viên có khả năng nhưng đã lười
biếng, thụ động trong học tập, rèn luyện kĩ năng, học hỏi kinh nghiệm nên khi
ra trường không tránh khỏi việc lúng túng khi tiếp cận với công việc. Trong khi
xã hội ngày càng đòi hỏi người thực sự có khả năng làm việc hiệu quả, có chất
lượng thì tự đào thải những người không có khả năng là tất yếu.
b. Sinh viên định hướng không rõ ràng
Nhiều người quản lý nhân sự ở các công ty nước ngoài nhận định: “Lao động
trẻ thiếu và yếu về ngoại ngữ cũng như sự tự tin trong giao tiếp. Trong môi trường
làm việc mà xu thế cạnh tranh đang ngày càng phát triển, nếu không có định hướng
nghề nghiệp rõ ràng, làm sao có thể bảo đảm yếu tố gắn bó ở người lao động. Các
doanh nghiệp sẽ không tuyển bạn nếu không nhìn thấy ở bạn niềm say mê và tâm
huyết nghề nghiệp.
Nhiều sinh viên thi vào một trường Đại học hay cao đẳng nào đó không phải
vì ham mê, yêu thích hay có năng khiếu mà do xu thế chọn trường theo đầu ra các
ngành hot, hay theo mong muốn của gia đình, không chọn theo sở trường hay năng
khiếu.
Đồng thời do hệ thống thông tin thị trường lao động; hoạt động tư vấn giới
thiệu việc làm chưa cập nhật kịp thời để gắn kết sinh viên và doanh nghiệp đạt hiệu
quả cao.
c. Sinh viên thiếu kĩ năng mềm, khả năng ngoại ngữ yếu kém khi đi xin việc.
Phong cách sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, quản lý thời gian,
thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới đó là những “kỹ năng” thuộc
về tính cách, không mang tính chuyên môn- Kĩ năng mềm, nhưng lại là cực kỳ cần
thiết cho con người trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi. Thế nhưng số
đông sinh viên - tương lai của đất nước - vẫn chưa hề ý thức được việc phải tự trang
bị cho mình những kỹ năng này ngoài bằng cấp chuyên môn.

Vấn đề của số đông sinh viên hiện nay là vẫn xem thuật ngữ “kỹ năng mềm”
(soft skills - KNM) là thứ gì đó cao siêu, ngại tiếp cận. Thực tế, đó chỉ là những phản
xạ hết sức cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. KNM có vai trò đặc biệt quan trọng để
quyết định khả năng bạn có thể làm việc hiệu quả lâu dài hoặc làm lãnh đạo hay
không? Đó là những thứ bạn không được học trong nhà trường, không liên quan đến
kiến thức chuyên môn”.
Phần đông những người Việt trẻ chỉ chăm chăm gây ấn tượng với nhà tuyển
dụng bằng những kỹ năng “cứng” (hard skills), nghĩa là những thứ thường xuất hiện
trên hồ sơ lý lịch: bằng cấp, khả năng chuyên môn, kinh nghiệm làm việc , thế
nhưng trên thực tế, World Bank (Ngân hàng Thế giới) đã gọi thế kỷ 21 là kỷ nguyên
của kinh tế dựa vào kỹ năng (Skills Based Economy). Năng lực của con người được
đánh giá trên cả 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái độ; các nghiên cứu của nhiều
tổ chức xã hội đã cho thấy để thành đạt trong sự nghiệp thì KNM (trí tuệ cảm xúc)
chiếm đến 85%, kỹ năng cứng (trí tuệ logic) chỉ chiếm 15%. Tuy quan trọng là thế,
những KNM chưa thực sự được ngành giáo dục nước ta chú trọng, do đó sinh viên
chúng ta phải tự tích lũy là chính.
Song hơi tiếc là ở VN, đa số học sinh chưa được trang bị KNM nên mất
điểm khi thi tuyển rất nhiều”. Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu
Giáo dục VN, có đến 83% sinh viên tốt nghiệp ra trường bị đánh giá là thiếu KNM,
37% sinh viên ra trường không tìm được việc làm do không đáp ứng đươc nhu cầu về
KNM. Điều đó lý giải tại sao rất nhiều sinh viên sớm bươn chải, đi làm thêm khi còn
đi học đã thành công hơn những “mọt sách”. Ngoài vấn đề về bằng cấp và trình độ thì
một trong những nguyên nhân của việc sinh viên không xin được việc làm là do thiếu
tự tin và ứng xử vụng nên mất điểm trước nhà tuyển dụng. Không tự lượng sức mình,
tham vọng quá cao cũng là những sai lầm mà ứng viên trẻ thường mắc phải.
Nhiều người đứng đầu trong các công ti tuyển dụng việc làm vẫn tâm sự với
báo chí rằng phần nhiều các sinh viên khi đi phỏng vấn xin việc đều chưa biết cách
ứng xử, thiếu tự tin. Nhiều bạn trẻ chưa có kinh nghiệm nhưng khi ứng tuyển lại hay
đòi ở những vị trí cao so với khả năng hoặc đưa ra một mức lương mà công ty khó có
thể chấp nhận được. Điều này khiến ứng viên mất khá nhiều điểm.

Nguyên nhân thứ hai là bộ hồ sơ không ấn tượng, không tạo cho nhà tuyển
dụng cảm giác muốn thử sức các bạn trẻ, xem khả năng làm thế nào? Có thật sự có
khả năng như trong bảng giới thiệu hay không? Về phần mình, nhiều ứng viên tự
nhận thấy sai lầm của họ là chưa quan tâm đúng mức đến bộ hồ sơ. Sinh viên có thể
tạo ấn tượng qua đơn xin việc, lý lịch hay ngay trong buổi phỏng vấn bằng sự thông
minh, năng động của mình.
Nguyên nhân cuối cùng là sinh viên không biết cách nói về mình. Một lợi thế
của sinh viên là họ ham học hỏi, có tinh thần cầu tiến và lĩnh hội nhanh công việc
được giao. Sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm cũng là những yếu tố mà
doanh nghiệp hiện nay đang rất cần trong quá trình cạnh tranh và hội nhập. Ngoài ra,
yếu tố sức khỏe, chấp nhận đi xa cũng như dễ hòa nhập đã trở thành điểm mạnh nổi
trội ở những người trẻ tuổi. Vì vậy, sinh viên nên tận dụng và phát huy tối đa những
thế mạnh của mình để nâng cao vị thế cạnh tranh trong tìm việc.
3.Cơ hội cho sinh viên Việt Nam:
• Làn sóng đầu tư vào VN là rất lớn đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc
làm theo hướng công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao, cơ hội học hỏi
kinh nghiệm ở các tập đoàn lớn, chuyên nghiệp cũng tăng. Các rào cản pháp lý
về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại,
lao động… được thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài.Nhận thức của SV sẽ sâu sắc hơn, bởi họ là chủ nhân của thời kỳ hội
nhập, thời kỳ hậu WTO.
Các công ty nước ngoài với số lượng ngày càng tăng mở ra một cánh
cửa tiềm năng cho sinh viên Việt Nam. Hàng năm, các doanh nghiệp nước
ngoài trực tiếp tìm ứng viên thông qua các chương trình như Ngày hội việc làm
quốc tế. Lương, thưởng, đãi ngộ cho vị trí này do vậy cũng hấp dẫn hơn. Song,
điều kiện tuyển dụng khá khắt khe, đòi hỏi người lao động phải giỏi: ngoại ngữ,
chuyên môn, kinh nghiệm (có khi hàng chục năm)
Việt Nam đã gia nhập WTO, tạo cơ hội cho sinh viên gặp gỡ giao lưu với
các doanh nhân giúp họ kịp thời nắm bắt nhu cầu của nhà tuyển dụng, đồng thời
khơi dậy khát vọng làm giàu chính đáng cho bản thân và đất nước trong mỗi

sinh viên thời kỳ hội nhập.
• Sinh viên Việt Nam có cơ hội làm việc cho các tổ chức, dự án quốc tế, trong
môi trường năng động, chuyên nghiệp. Thực tập ở nước ngoài là một trong
những trải nghiệm quan trọng nhất và đáng nhớ của giáo dục đại học. Đó là
một cách tuyệt vời để làm nổi bật sơ yếu lý lịch và giúp SV có cơ hội phát
triển mạng lưới mối giao tiếp vô giá có thể chuyển thành cơ hội có việc làm
khi tốt nghiệp. Sau các chương trình trao đổi học sinh với các quốc gia có nền
kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore…sinh viên
Việt Nam có được những trải nghiệm thực tế để phát triển kĩ năng sống cho
bản thân, thêm tự tin và khả năng tự lập
• Với phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, sinh viên ngày nay có thể
tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tri thức khổng lồ của nhân loại. Học hỏi nhanh
và nắm bắt thông tin phong phú và biến đổi của thời đại.Nhìn vào thế hệ trẻ
8x, 9x ngày nay, chúng ta không thể không thán phục, tự hào vì một số người
rất thành công trên con đường học tập và sự nghiệp.Theo báo Tuổi Trẻ “Con
số người trẻ Việt Nam thành công trong các lãnh vực giáo dục, y tế, khoa học,
doanh nghiệp… ngày càng tăng cao”
• Sự hợp tác mở rộng trên lĩnh vực giáo dục thể hiện ở số lượng ngày càng tăng
các trường đại học nước ngoài liên kết đào tạo với các trường đại học Việt
Nam với các chuyên ngành đa dạng và . SVVN hoàn toàn có thể được hưởng
nền giáo dục đẳng cấp quốc tế, nhận bằng cấp của các trường đại học quốc tế
ngay tại việt nam với chi phí thấp hơn nhiều lần du học nước ngoài. Phương
tiện, điều kiện vật chất cho việc học cũng nâng cao hơn.
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP CHO PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG HỘI NHẬP CẦN
THIẾT CHO SINH VIÊN
Xuất phát từ việc phân tích thực trạng điểm mạng yếu của sinh viên Việt Nam, từ
nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp dẫn đến sự yếu kém của sinh viên trong thời kì hội
nhập, nhóm thảo luận xin đưa ra một vài giải pháp khắc phục những hạn chế này.
1. Quản trị, nâng cao chất lượng giáo dục Đại học:
Đổi mới quản lý GD-ĐT, trong đó có đổi mới cách đánh giá chất lượng GD-ĐT.

Thông thường những lĩnh vực sau đây được xem là có vai trò nâng cao chất lượng
của một cơ sở giáo dục: Tổ chức và quản lý; Đội ngũ cán bộ (giảng viên và phục vụ);
Sinh viên, học sinh; Quá trình giảng dạy, học tập; Nghiên cứu khoa học (nếu là
trường đại học, cao đẳng); Cơ sở vật chất; Tài chính; Các lĩnh vực khác (hợp tác quốc
tế, dịch vụ sinh viên). Đây được xem là tám lĩnh vực quan trọng nhất, tác động trực
tiếp tới chất lượng giáo dục. Những lĩnh vực này có thể tác động với mức độ khác
nhau. Và nếu có những biện pháp tác động tới tám lĩnh vực này, hoàn thiện nó theo
những chuẩn mực phù hợp thực tiễn chắc chắn sẽ có một nền giáo dục có chất lượng
cao.
Nâng cao năng lực, đội ngũ quản lý và giảng viên đại học
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo, giải pháp ưu tiên mang tính đột phá là
phải quan tâm đội ngũ cán bộ quản lý làm công tác đào tạo, quan tâm sinh viên. Đây
là vấn đề vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng GDĐH. Không ít tham luận
thẳng thắn chỉ ra: Đội ngũ này ở các đại học còn thiếu và yếu. Việc "đôn" các cao
đẳng lên đại học và mở nhiều đại học dân lập trong khi chưa chuẩn bị đủ điều kiện
cần thiết, cùng với việc kỷ cương ở đại học còn bị buông lỏng, càng làm cho đội
ngũ đại học Việt Nam yếu hơn. Do đó phải có sự đổi mới chất lượng đội ngũ giáo
viên cả về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học và kỹ năng sư phạm;
đồng thời phải thường xuyên giáo dục tư tưởng, ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và
sự tâm huyết nghề nghiệp trong mỗi cán bộ, giáo viên.
Cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cần quan tâm số lượng
và đồng bộ giữa các chuyên ngành để đáp ứng với quy mô đào tạo ngày càng tăng,
nếu thiếu giáo viên sẽ góp phần làm chất lượng đào tạo giảm sút bởi giáo viên phải
dạy quá nhiều, giảng trong tình trạng ghép lớp, tăng ca thì người thầy làm sao còn
thời gian để cập nhật kiến thức, áp dụng phương pháp dạy học tích cực và nghiên
cứu khoa học có chất lượng? Bên cạnh việc thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên, phải quyết liệt sàng lọc những người không đủ tiêu chuẩn làm thầy ra
khỏi cơ sở đào tạo để giữ niềm tin với học sinh, sinh viên và xã hội. Muốn học sinh,
sinh viên có chất lượng phải quan tâm đầu vào, có nghĩa là nâng cao chất lượng
công tác tuyển sinh, tuyển sinh đầu vào cần phải có sàn chung tối thiểu, tránh vì

chạy theo số lượng mà quên chất lượng".
Thay đổi căn bản chương trình, nội dung và phương pháp dạy - học ở đại học
Chương trình đào tạo là điều kiện cơ bản, điều kiện tiên quyết bảo đảm chất lượng
GD-ĐT của một trường đại học. Một chương trình tốt, phù hợp sẽ tạo ra được sản
phẩm tốt. Ngược lại, một chương trình đào tạo lạc hậu, chậm đổi mới sẽ tạo ra sản
phẩm lao động không phù hợp. Bộ GD-ĐT cần xem xét một cách khoa học đối với
các môn bắt buộc theo hướng đạt chuẩn khu vực và quốc tế về chương trình đào tạo;
các trường đại học cần quyết tâm đổi mới trong xây dựng chương trình, kể cả việc
loại bỏ những môn học đã trở nên không cần thiết và dứt điểm giải quyết tình trạng
trùng lặp giữa các môn học. Duy trì và phát triển ngành đào tạo truyền thống có tính
chuyên sâu được xã hội chấp nhận.
Về phương pháp đào tạo : Giáo dục đại học ngày nay không chỉ coi trọng tri thức
mà phải chú ý rèn luyện trí tưởng tượng, làm cơ sở cho tư duy sáng tạo. Do vậy, ngay
từ năm đầu tiên, sinh viên phải được làm quen với tư duy độc lập, rèn luyện khả năng
nghiên cứu, sáng tạo, tập phát hiện và giải quyết vấn đề hơn là chỉ học thuộc lòng. Vì
vậy, phương pháp đào tạo cần hướng đến việc giảm tối đa việc nghe giảng một cách
thụ động, tăng các hình thức trao đổi, tham luận, dự án, tiểu luận… và đặc biệt, cần
coi trọng rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học cho sinh viên.
Để lựa chọn các phương pháp dạy học ở bậc đại học cho từng trường hợp cụ thể,
cần dựa vào các tiêu chí đảm bảo dạy được cách học; phát huy mạnh mẽ tính chủ
động của người học; khai thác triệt để các tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền
thông. Đồng thời, cần vận dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau, các phương
pháp dạy học tích cực, phương tiện dạy học hiện đại và cải tiến phương pháp kiểm tra
- đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
Ngoài ra cần phải có liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp
Thử nhìn vào cơ cấu tổ chức của các trường đại học hiện nay sẽ thấy chỉ có các
phòng ban như: đào tạo, tổ chức – hành chánh, quản lý sinh viên, hội đồng khoa học,
nghiên cứu khoa học, quan hệ quốc tế, các khoa. Rất hiếm khi thấy có bộ phận Quan
hệ Doanh Nghiệp hay đại loại như vậy. Trong khi đó, sự liên kết giữa nhà trường và
doanh nghiệp tạo ra rất nhiều thuận lợi cho nhà trường, cho doanh nghiệp, và ngay cả

sinh viên đang học tập
Các doanh nghiệp khi liên kết với nhà trường sẽ được hưởng lợi là nguồn nhân
lực . Quan trọng nhất là họ được tiếp cận với các giáo sư giảng dạy trong trường để từ
đó có thể tìm kiếm, phát hiện nhân lực. Như vậy, có sự hỗ trợ hai chiều giữa trường
và các doanh nghiệp.
2. Phát triển kĩ năng mềm, khả năng ngoại ngữ và giao tiếp cho sinh viên:
Kĩ năng mềm là một lĩnh vực mới, sinh viên không những cần phải học, hiểu
mà đồng thời còn phải tập luyện thường xuyên và áp dụng vào thực tế ngay khi có cơ
hôi. Sử dụng một cách hiệu quả các kĩ năng này trong quá trình hội nhập thị trường
lao động là chìa khóa đảm bảo sự thành công trong công việc và cuộc sống cho sinh
viên sau khi ra trường.
Đối với công tác đào tạo và huấn luyện kĩ năng mềm cho sinh viên, nhà trường
có thể tổ chức các lớp, khóa đào tạo các kĩ năng này cho sinh viên từng khoa, từng
khóa một cách phù hợp. Bên cạnh đó giảng viên cũng có thể lồng ghép các bài học,
thực hành và luyện tập các kĩ năng này thông qua các tiết học chuyên ngành.
Để giải quyết vấn đề này thì ta có ba giải pháp:
Giải pháp 1: Nhà trường thay đổi nội dung đào tạo: Sự thay đổi này đòi hỏi thay đổi
cả hệ thống giảng viên và hệ thống chính sách giáo dục nên chưa thể làm ngay.
Giải pháp 2: Doanh nghiệp, cơ quan tuyển người có kiến thức vững chắc để đào tạo
thêm các kỹ năng làm việc: Chi phí cao và mất nhiều thời gian nên ít doanh nghiệp
làm như vậy.
Giải pháp 3: Thành lập một tổ chức đào tạo các kỹ năng lập nghiệp làm cầu nối, rút
ngắn khoảng cách giữa kiến thức nhà trường đào tạo cho sinh viên và yêu cầu thực tế
công việc.
Thực tế hiện nay, rất nhiều trung tâm ra đời với các khóa học ngắn hạn nhưng rất bổ
ích giúp học sinh, sinh viên phát triển các kỹ năng sống và thay đổi cách tư duy.
3.Tự ý thức của sinh viên :
Trước tiên mỗi sinh viên chúng ta cần đề ra định hướng đúng đắn cho bản thân
mình. Học tập một cách tích cực, sáng tạo, chủ động tiếp cận với nguồn thông tin
rộng mở. Cần tập thói quen làm việc nghiêm túc, đạt hiệu quả cuối cùng, có tinh thần

trách nhiệm. Sự hoài nghi là cần thiết cho sự phát triển tư duy đa chiều.Sinh viên Việt
Nam vẫn còn tâm lý sợ sai, thiếu quyết đoán khi đưa ra chính kiến của mình.Thiết
nghĩ, dám suy nghĩ và mạnh dạn chấp nhận thực tế mình có thể nghĩ sai cũng là một
trong những bản lĩnh cần thiết để hội nhập.
Năng lực nhận thức của sinh viên cũng có điều kiện phát triển hơn so với trước
do được giao tiếp qua nhiều kênh và với một phạm vi rộng rãi (toàn cầu). Sinh viên
nên tích cực tham gia nghiên cứu khoa học ,phát huy được tính thực tiễn và sáng tạo.
Trong quá trình đó, sinh viên được coi là người sản sinh ra tri thức hơn là người tiêu
thụ tri thức, hay nói cách khác, tính chất nghiên cứu bắt buộc là nét đặc thù của quá
trình học tập ở bậc đại học. Tham gia nghiên cứu khoa học vừa giúp sinh viên kiểm
chứng những gì mình đã học vừa so sánh sự khác biệt giữ lý thuyết và thực hành.
Hiện nay, với việc áp dụng học chế tín chỉ tại các trường đại học của Việt Nam,
sinh viên đang tiếp cận với phương pháp tự học, tự nghiên cứu.Nếu biết tận dụng thời
gian hợp lý, sinh viên đạt kết quả rất cao trong học tập và ngược lại.

×