Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thách thức về luật pháp khi Việt Nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.61 KB, 13 trang )

Thách thức về luật pháp khi Việt Nam gia nhập WTO
I. Thực trạng - thách thức của pháp luật Việt Nam trước yêu cầu gia nhập WTO:
1. Về việc “văn hoá nước ta lấy cảm tình làm bản vị” và tinh thần "thượng tôn
pháp luật" của nhân dân Việt Nam:
Đáp ứng đòi hỏi của quá trình đàm phán gia nhập WTO, Quốc hội ta đã phải ban
hành 65 luật và pháp lệnh. Chỉ riêng năm 2005 đã có 25 luật và pháp lệnh, những văn bản
pháp lý mới nhất có liên quan trực tiếp đến các nghĩa vụ thành viên của Việt Nam được
gửi đến Ban thư ký WTO.
Trong kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập
WTO của Chính phủ có các Phụ lục đính kèm đề cập đến các nội dung áp dụng trực tiếp
cam kết của Việt nam liên quan đến 6 văn bản Luật và danh mục các văn bản quy phạm
pháp luật cần sửa đổi, bổ sung theo lội trình mà ta đã đàm phán được, liên quan đến 6 văn
bản luật và 1 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Rõ ràng là một trong những thách thức lớn nhất khi gia nhập WTO là sự thử thách
về chất lượng pháp luật và năng lực thể chế. Giờ đây, thực hiện những cam kết không
những là nghĩa vụ mà còn là danh dự quốc gia. Thực chất những "cam kết" với quốc tế
không là gì khác ngoài những ràng buộc về pháp luật, luật của đất nước và luật của quốc
tế.
Thế mà đúng vào lúc cần phải phát huy chức năng và thế mạnh của pháp luật thì cơ
quan thực thi pháp luật, nơi thể hiện tập trung nhất và nghiêm minh nhất sức mạnh của
pháp luật là Tòa án nhân dân tối cao lại cho thấy sự yếu kém của "cán cân công lý". Một
quy định mà công an hiểu thế này, viện kiểm sát hiểu thế kia, toà án hiểu thế khác, hội
đồng sơ thẩm hiểu một kiểu, cuối cùng phải biểu quyết (theo báo Pháp luật Tp. Hồ Chí
Minh). Quả thật đây là một thực trạng đáng suy nghĩ và kịp thời có những quyết sách.
Điều này có nguyên nhân xã hội của nó. Dễ thấy nhất là cái quán tính trọng tình
hơn lý vốn có sức trì kéo triền miên trong suốt chiều dài lịch sử. Thậm chí ngay tại công
đường mà quan tòa còn quen lối ứng xử "đã đưa đến trước cửa công, ngoài thì là lý nhưng
trong là tình". Lối ứng xử ấy đối lập hoàn toàn với tinh thần "thượng tôn pháp luật", một
thuộc tính của xã hội hiện đại.
Nhưng ngay khi đất nước bước vào thời kỳ thực hành công nghiệp hoá và hiện đại
hoá thì biến tướng của lối ứng xử ấy lại vẫn in đậm trong thói quen vận hành guồng máy


xã hội bằng chỉ thị, nghị quyết hơn là bằng sự công khai, minh bạch của pháp luật. Sự
GV: TS. Phạm Văn Chắt 1 HV: Trần Thị Trúc Giang
Thách thức về luật pháp khi Việt Nam gia nhập WTO
thiếu hụt trầm trọng thẩm phán trong tòa án các cấp là hệ quả của cả quá trình chứ không
là đột xuất.
Mặc dầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho nhà nước pháp quyền từ
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, nhưng mãi đến Đại hội VIII mới
chính thức được đưa vào Văn kiện của Đảng. Đại hội X đòi hỏi phải "xây dựng và hoàn
thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết
định của các cơ quan công quyền".
Chính vì vậy, tinh thần thượng tôn pháp luật cần được xem là nền tảng của sự vận
hành guồng máy kinh tế, xã hội. Và giờ đây điều đó lại là điều kiện ràng buộc của sự thành
bại về kinh tế và chính trị khi chúng ta đã có những cam kết quốc tế. Vì thế, "hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật" mà Đại
hội X chỉ ra vừa là đòi hỏi bức xúc của cuộc sống vừa là sự đáp ứng yêu cầu gay gắt của
hội nhập.
Nếu như "văn hoá nước ta lấy cảm tình làm bản vị" như nhận định của học giả Đào
Duy Anh (trong cuốn "Việt Nam văn hoá sử cương") thì giờ đây, nét văn hoá đó đang là
một thách đố gay gắt khi đất nước đang tiến sâu vào tiến trình hội nhập quốc tế mà tinh
thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện những cam kết quốc tế mà
nước ta là một thành viên.
2. Sự cần thiết thay đổi hệ thống pháp luật:
Kết quả rà soát sơ bộ của Bộ Tư pháp cho thấy tổng số các văn bản quy phạm pháp
luật ban hành ở cấp Trung ương được rà soát, đối chiếu và nhận thấy có liên quan trực tiếp
đến các hiệp định của WTO là 325 văn bản (43 luật; 31 pháp lệnh; 102 nghị định; 8 quyết
định của Thủ tướng; 1 chỉ thị của Thủ tướng; 66 thông tư; 71 quyết định của bộ trưởng; 1
công văn của các bộ, ngành; 2 văn bản của Tòa án Tối cao).
Tổng số các văn bản quy phạm pháp luật ban hành ở cấp Trung ương được kiến
nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết WTO là 44 (16 luật, 1 pháp lệnh, 18
nghị định, 1 quyết định của Thủ tướng; 8 văn bản cấp bộ); được kiến nghị ban hành là 42

(8 luật, 3 pháp lệnh, 14 nghị định, 17 văn bản ở cấp bộ). Đó là chưa kể các văn bản cần
được ban hành để thực thi quyền lợi của thành viên trong quan hệ thương mại quốc tế với
các nước.
GV: TS. Phạm Văn Chắt HV: Trần Thị Trúc Giang
2
Thách thức về luật pháp khi Việt Nam gia nhập WTO
Từ năm 2001 đến 2005, chúng ta đã ký kết gần 700 điều ước quốc tế song phương
và 130 điều ước quốc tế đa phương, tăng gần gấp rưỡi so với số điều ước quốc tế được ký
kết trong giai đoạn 10 năm trước đó.
Tuy thừa nhận hiệu lực áp dụng trực tiếp của các cam kết quốc tế, nhưng Luật Điều
ước quốc tế 2005 chưa giải quyết được mối quan hệ của điều ước quốc tế với các văn bản
quy phạm pháp luật trong nước.
Trong khi chờ đợi để có sự giải thích rõ ràng hơn về địa vị pháp lý của điều ước
quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia, cần áp dụng cả khả năng mà Luật điều ước quốc
tế đã tính đến là sửa đổi, bổ sung, ban hành mới luật để chuyển hóa các quy định của Nghị
định thư gia nhập WTO vào pháp luật Việt Nam, để đem lại sự rõ ràng cho các cá nhân, tổ
chức có liên quan, cũng như để chứng tỏ sự minh bạch trong việc thực thi các cam kết của
Việt Nam.
Môi trường pháp lý chưa thật đồng bộ và có điểm chưa đầy đủ theo thông lệ quốc
tế. Ðể gia nhập WTO, Việt Nam phải phê chuẩn một Công ước quốc tế và xây dựng mới,
sửa đổi, bổ sung hơn 20 luật, pháp lệnh cho phù hợp 16 Hiệp định chính của WTO. Hệ
thống pháp luật Việt Nam tuy đã được khẩn trương xây dựng để đáp ứng yêu cầu mới,
nhưng trong các thông tư hướng dẫn của các ngành còn một số bất cập, thiếu đồng bộ. Ðây
là thách thức không chỉ ảnh hưởng việc thực hiện đầy đủ các cam kết khi gia nhập WTO,
mà còn là vướng mắc đối với các doanh nghiệp nước ta. Nhiều rào cản thủ tục hành chính
chưa thông thoáng. Ðiều đó các doanh nghiệp không thể tự tháo gỡ. Việc xây dựng hệ
thống pháp luật phù hợp môi trường pháp lý WTO không chỉ đơn thuần vì hội nhập kinh tế
quốc tế, vì gia nhập WTO, mà thực chất là vì sự phát triển của chính nền kinh tế Việt Nam
nói chung, của các doanh nghiệp trong nước nói riêng.
Chúng ta đã chủ động đổi mới thể chế kinh tế quốc tế và quá trình này diễn ra theo

hai phương thức, thứ nhất, tiệm tiến, bước đi trước tạo điều kiện cho bước sau, đảm bảo
cho chúng ta giữ được sự ổn định cần thiết. Vì thế mà chúng ta chủ động. Những định chế
của WTO rất phức tạp, nó gắn với quá trình cải cách pháp luật và thể chế trong nước.
Gia nhập vào năm 2006 là đúng thời điểm vì thể chế pháp luật trong nước đã
tương đối hoàn chỉnh và được điều chỉnh, nó cho phép chúng ta được chủ động bước vào
sân chơi. Tất nhiên trong quá trình đàm phán bao giờ cũng có rượt đuổi nhưng bao giờ
cũng phải chủ động.
GV: TS. Phạm Văn Chắt HV: Trần Thị Trúc Giang
3
Thách thức về luật pháp khi Việt Nam gia nhập WTO
Để môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện, thì việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO là cần thiết.
II. Những việc cần làm để hội nhập:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật:
Xây dựng một nền tư pháp có chất lượng, trong sạch và hiệu quả cũng như cải cách
nền hành chính quốc gia. Khi mà đất nước đã là thành viên của những tổ chức quốc tế đều
phải tuân theo những tiêu chuẩn của tổ chức đó chứ không thể như trước đây, khi chưa
phải là thành viên. Vả chăng, hoàn thiện về pháp luật cũng như cải cách về hành chính là
điều kiện thiết yếu để chúng ta tối đa hoá các lợi ích của quá trình hội nhập và cũng là
công cụ để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của
nước ta. Một chi tiết nhỏ chưa hoàn thiện của hệ thống luật pháp cũng có thể ảnh hưởng
không nhỏ đến quyền lợi của hàng trăm doanh nghiệp và đất nước trong cuộc chơi WTO.
Chẳng hạn như, khi là thành viên của WTO thì trợ giúp tài chính của Nhà nước cho
các doanh nghiệp bị xem là bất hợp pháp vì người ta gọi điều đó là hành vi bóp méo
thương mại. Bởi lẽ, sự trợ giúp đó chỉ dành cho một số ít doanh nghiệp nhà nước, tạo đặc
lợi cho thiểu số nhưng lại gây hại cho cả nền kinh tế. Điều đó là bất công vì đặc lợi ấy có
được không từ sản xuất và sự cạnh tranh lành mạnh, công khai.
Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp là không thể không có, chỉ có
điều, đó là sự trợ giúp pháp lý thay vì trợ giúp tài chính trực tiếp. Điều này khó hơn vì sự

trợ giúp pháp lý đòi hỏi Nhà nước phải tự thay đổi mình. Phải hoàn thiện hệ thống luật
pháp, phải đưa ra được chủ trương, chính sách tốt và kịp thời, đồng thời, phải nâng cao
năng lực thể chế, xây dựng bộ máy đủ sức mạnh thực thi các chủ trương, chính sách ấy có
hiệu quả. Cải cách hành chính, xóa bỏ tiêu cực, trước hết là tập quán xin - cho, làm trong
sạch bộ máy các cấp... đó là sự trợ giúp "đúng luật" để hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao
năng lực cạnh tranh.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành nhanh và đồng
bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết.
Trước hết tập trung vào soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới ban hành,
bảo đảm cụ thể, công khai, minh bạch phù hợp với nội dung của luật; Xoá bỏ mọi hình
thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi loại hàng hoá
GV: TS. Phạm Văn Chắt HV: Trần Thị Trúc Giang
4
Thách thức về luật pháp khi Việt Nam gia nhập WTO
và dịch vụ. Đối với những mặt hàng hiện còn áp dụng cơ chế nhà nước định giá, phải xác
định lộ trình thực hiện nhanh giá thị trường để các doanh nghiệp tính toán lại phương án
sản xuất kinh doanh;
Công bố công khai quy trình tác nghiệp, thời gian giải quyết công việc, người chịu
trách nhiệm ở tất cả các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước và các đơn vị cung ứng dịch vụ
công để mọi công dân, mọi doanh nghiệp biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Công
khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý là một trong những tiêu chí của xã hội
"công bằng, dân chủ, văn minh" và là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán thu
hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán WTO chúng ta có hai loại:
đa phương và song phương. Với đa phương yêu cầu đầu tiên là phải minh bạch hóa chính
sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000 câu hỏi liên quan chính sách kinh tế, đầu tư, tài chính,
ngân hàng. Chính vì vậy mà trong đoàn đàm phán chính phủ của chúng ta đã phải bao gồm
tất cả các bộ, ngành tham gia để đảm đương được khối lượng công việc lớn, trả lời nhiều
vấn đề liên quan kinh tế, thương mại. Chúng ta phải có chương trình xây dựng pháp
luật. Gia nhập WTO chúng ta phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định, các

quy định của WTO. Vì vậy, chúng ta đã có một kế hoạch sửa và xây mới 25 luật và pháp
lệnh. Theo nhận xét chung, Việt Nam là nước đầu tiên có hệ thống pháp luật tương đối
hoàn chỉnh để gia nhập WTO. Ðể đổi mới kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây
mới và sửa đổi 100 luật. Như vậy, số văn bản phục vụ đàm phán, gia nhập WTO chỉ bằng
1/4 số văn bản luật pháp phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh tế. Ðiều đó thể hiện
quyết tâm cao của Chính phủ, Quốc hội Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Ông Chủ tịch Ban công tác, các thành viên Ban công tác, kể cả đoàn Hoa Kỳ cũng
đánh giá rất cao quyết tâm của Việt Nam trong việc sửa đổi hệ thống pháp luật trong thời
gian vừa qua. Các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến tiến trình gia nhập WTO của
Việt Nam. Vì họ cho rằng, nếu Việt Nam gia nhập WTO thì hệ thống pháp luật sẽ phù hợp
sân chơi của thế giới và nó sẽ ổn định.
Việc gia nhập WTO của Việt Nam là sự đảm bảo thống nhất hệ thống luật pháp và
các quy định cũng như thủ tục hành chính trong phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam với các
hiệp định WTO, và Nghị định thư gia nhập của Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là, chính
quyền Trung ương Việt Nam phải thực thi các quy định của WTO mà việc thực thi này có
thể bao gồm việc hủy bỏ các quy định pháp luật do chính quyền địa phương ban hành mà
GV: TS. Phạm Văn Chắt HV: Trần Thị Trúc Giang
5

×