Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do phương tiện vận tải cơ giới và người điều khiển phương tiện đó gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.46 KB, 26 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giao thông của nước ta hiện nay đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã
hội, cùng với đó là tai nạn giao thông đã và đang cướp đi tính mạng và sức
khoẻ của rất nhiều người. Khi mà tình hình giao thông chưa có dấu hiệu khả
quan hơn, tai nạn giao thông không có xu hướng giảm thiểu nhiều, thì việc
bù đắp cả về mặt vật chất lẫn tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân của
họ là một việc có giá trị nhân văn rất lớn.
Bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông cơ giới và người điều
khiển phương tiện gây ra là một chế định rất quan trọng, nó góp phần khắc
phục kịp thời những khó khăn mà người bị thiệt hại gặp phải. Bên cạnh đó,
khi có thiệt hại do các phương tiện giao thông cơ giới gây ra thì người bị ảnh
hưởng không chỉ là người đó mà còn kéo theo cả những hệ luỵ đối với người
thân của họ nữa, ngay bản thân người gây thiệt hại cũng sẽ phải đối mặt với
những khó khăn nhất định trong bồi thường thiệt hại. Do đó, việc nghiên cứu
và áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông vận
tải cơ giới và người điều khiển phương tiện đó có ý nghĩa quan trọng trong
cả lý luận và thực tiễn. Trong bài tập này em sẽ đề cập đến các điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường, các nguyên tắc trong việc bồi thường thiệt
hại, cách xác định thiệt hại, cùng với đó là những trường hợp loại trừ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do phương tiện vận tải cơ giới và người điều
khiển phương tiện đó gây ra.
Do kiến thức còn hạn chế, nhiều ý kiến đánh giá còn mang tính chủ quan
nên việc trình bày cả về hình thức lẫn nội dung không tránh khỏi những sai
sót nhất định, mong thầy cô phê bình và đóng góp để em có thể hoàn thiện
kiến thức hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Khái niệm.
Nhằm giải quyết vấn đề, em xin đưa ra một số khái niệm liên quan đến
bài tập.


1. Phương tiện giao thông vận tải cơ giới.
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật chính thức của nhà nước chưa có
một định nghĩa cụ thể nào về các phương tiện giao thông vận tải cơ giới gồm
những phương tiện nào. Luật Giao thông đường bộ quy định tại điểm 18
khoản 3: “Phương tiện giao thông cơ giới (sau đây gọi là xe cơ giới) đường
bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô,
máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe
tương tự”. Đây chỉ là các phương tiện vận tải cơ giới trong lĩnh vực giao
thông đường bộ, như vậy vẫn còn có các phương tiện vận tải cơ giới đường
sắt, đường thuỷ, đường hàng không.
Các phương tiện tiện giao thông vận tải cơ giới là các loại xe chạy bằng
động cơ, có tốc độ và khả năng vận chuyển khối lượng lớn tài con người, tài
sản được con người điều khiển. Xe cơ giới có vai trò quan trọng trong lĩnh
vực giao thông vận tải bởi tính tiện ích của nó, bên cạnh đó nó cũng tiềm ẩn
khả năng gây thiệt hại lớn cho xã hội.
2. Người điều khiển phương tiện vận tải cơ giới.
Người điều khiển phương tiện giao thông vận tải là người trực tiếp vận
hành các phương tiện vận tải như ô tô, mô tô hai bánh...Người điều khiển
phương tiện giao thông vận tải có thể là người chủ sở hữu phương tiện,
người được chủ sở hữu giao cho phương tiện thông qua các hợp đồng, người
chiếm hữu bất hợp pháp phương tiện giao thông vận tải. Việc xác định người
điều khiển phương tiện và mối quan hệ của người điều khiển phương tiện
với chủ sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
2
Khi tham gia giao thông, người điều khiển các phương tiện giao thông
vận tải cơ giới bắt buộc phải có các loại giấy phép lái xe, bằng lái xe tuỳ
theo phương tiện mà người đó điều khiển. Tuy vậy, việc chấp hành các quy
định này không được tuân thủ chặt chẽ trên thực tế dẫn tới các trường hợp
gây thiệt hại lớn cho xã hội. VD: A 17 tuổi điều khiển xe mô tô 2 bánh 110cc

gây tai nạn nghiêm trọng do không làm chủ được tốc độ. Lúc này việc xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ có khác biệt nhất định so với các
trường hợp người đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông cơ giới
gây ra.
3. Bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông vận tải cơ giới và người
điều khiển phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra.
Bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông vận tải cơ giới (sau đây
gọi là xe cơ giới) và người điều khiển gây ra là một phần của chế định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự 2005. Qua
đó, bồi thường thiệt hại do xe cơ giới gây ra cũng sẽ có đầy đủ những đặc
điểm, cơ chế phát sinh và việc xác định mức bồi thường thiệt sẽ tương tự
như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bên cạnh đó do tính
chất của xe cơ giới và việc gây thiệt hại trong các lĩnh vực giao thông vận tải
cơ giới nên việc bồi thường thiệt hại sẽ có những khác biệt nhât định (như
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một trường hợp
đặc biệt đó là người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại ngay cả trong
trường hợp không có lỗi thuộc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xe cơ
giới gây ra).
Việc bồi thường thiệt hại do xe cơ giới và người điều khiển gây ra trước
tiên nhằm khắc phục kịp thời những thiệt hại xảy ra đối với người bị thiệt
hại. Đối với những thiệt hại là tài sản thì người gây thiệt hại có trách nhiệm
khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản như trước khi bị thiệt hại. Tuy
nhiên, việc khôi phục lại hiện trạng có thể gặp phải những khó khăn nhất
định đối với nhiều loại tài sản. Do vậy, pháp luật đã có nhiều hình thức khác
nhau làm nhằm khắc phục tình trạng nêu trên (ví dụ như việc áp dụng các
hình thức bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới). Xe cơ giới luôn
3
tiểm ẩn khả năng gây thiệt hại nghiêm trọng đối với sức khoẻ, tính mạng của
người khác, chính vì lẽ đó nên theo quy định của điều 623 của BLDS thì xe
cơ giới được xếp vào một trong những loại nguồn nguy hiểm cao độ. Khi

gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng của người khác thì việc bồi thường
thiệt hại lúc này không thể “khôi phục lại tình trạng ban đầu” được nữa, việc
bồi thường thiệt hại lúc này chỉ có ý nghĩa trong việc khắc phục, hạn chế
những khó khăn mà người bị thiệt hại mắc phải trong thời gian điều trị mà
thôi. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn nhằm giáo dục ý
thức của người điều khiển phương tiện vận tải cơ giới có trách nhiệm hơn
trong việc tham gia giao thông nhằm đảm bảo những thiệt hại không đáng có
xảy ra.
II. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xe cơ giới và
người điều khiển phương tiện gây ra.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xe cơ giới gây ra
là những yêu tố, cơ sỏ pháp lý để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
người phải bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. Các
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xem xét trong mối
quan hệ biện chứng, thống nhất và đấỳ đủ. Xuất phát từ những điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xe cơ giới và người điều khiển phương tiện gây ra chỉ
phát sinh khi có đầy đủ những điều kiện sau đây:
1. Có thiệt hại xảy ra.
Xuất phát từ ý nghĩa của việc bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục lại
tình trạng ban đầu của tài sản, hạn chế những khó khăn của người bị thiệt hại
gặp phải, nên việc bồi thường thiệt hại chỉ có ý nghĩa khi có thiệt hại xảy ra,
hay nói cách khác, thiệt hại là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong các vụ việc gây thiệt hại do xe cơ giới gây ra là những thiệt hại thực tế
có thể tính được thành tiền do việc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài
sản và những tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự về các tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông thì thiệt hại phải đến một mức độ nào đó mới
4
phát sinh trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xe cơ

giới gây ra thì không căn cứ vào việc gây thiệt hại lớn hay nhỏ, chỉ cần có
thiệt hại xảy ra là sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì thiệt hại
là điều kiện bắt buộc trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên ta cần hiểu
thiệt hại có nghĩa là như thế nào.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe có thể là việc một người bị phương tiện
giao thông vận tải cơ giới và người điều khiển phương tiện gây thiệt hại
(đâm, va, quệt) dẫn tới việc người đó thiệt mạng hoặc giảm sút về sức khỏe.
Việc gây tai nạn giao thông làm phát sinh những thiệt hại về vật chất bao
gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng
bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ.
- Thiệt hại về tài sản biểu hiện cụ thể là việc tài sản bị giảm sút, mấy tính
năng ban đầu do có sự tác động từ các phương tiện giao thông vận tải cơ
giới. Cùng với đó, thiệt hại về tài sản còn bao gồm những chi phí để ngăn
chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc khai thác
công dụng của tài sản. VD: A là lái xe ô tô trong một lần say rượu đã đâm
vào chiếc taxi của B đang để trong bến đậu xe dẫn đến chiếc xe của B bị hư
hỏng nặng, B phải ngừng khai thác công dụng (lái taxi) của chiếc xe để tiến
hành sửa chữa. Như vậy, thiệt hại vật chất ở đây bao gồm chi phí để chữa xe
và lợi ích bị mất do việc không khai thác được chiếc xe trong thời gian sửa
chữa, đương nhiên, A sẽ phải bồi thường hai chi phí nêu trên.
- Tổn thất về tinh thần. Trong các vụ tai nạn giao thông, thiệt hại có thể là
tính mạng của một người, điều đó dẫn đến việc người con mất cha, người vợ
mất chồng… dẫn đến tình trạng tang thương góa bụa của những người thân
thích của người chết. Những thiệt hại này thì không thể lượng hoá thành tiền
theo nguyên tắc đền bù ngang giá được. Nhưng với mục đích an ủi, động
viên đối với thân nhân của người bị thiệt hại, luật dân sự quy định người có
hành vi gây thiệt hại phải: “Bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn
thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của người
đó phải gánh chịu”.

5
2. Hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật.
Mọi công dân đều có quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức
khỏe, tài sản một cách tuyệt đối. Tất cả những người khác đều có nghĩa vụ
phải tôn trọng các quyền đó, không được xâm phạm các quyền đó. Do đó
việc xâm phạm đến các quyền tuyệt đối nêu trên đều là hành vi vi phạm
páhp luật. Tuỳ theo mức độ, tính chất của vi phạm mà sẽ phát sinh trách
nhiệm hình sự, hành chính hoặc dân sự.
Khi vận hành các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại có thể là các hành vi vi phạm những quy định của các
luật về giao thông vận tải như Luật Giao thông đương bộ, Luật Hàng
không… Ngoài ra hành vi gây thiệt hại có thể là việc người điều khiển
phương tiện không tuân thủ các quy định về bảo quản phương tiện vận tải
dẫn đến việc phương tiện bị chiếm hữu một cách bất hợp pháp thì chủ sở
hữu vẫn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đôi khi, chủ sở hữu phương
tiện, người điều khiển phương tiện không có hành vi trái pháp luật nhưng
vẫn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nguyên nhân của việc này là các
phương tiện giao thông vận tải cơ giới tự thân nó là nguồn nguy hiểm cao độ
nên khi chủ sở hữu quyết định đăng ký quyền sở hữu nghĩa là họ đã chấp
nhận rủi ro có thể xảy đến với phương tiện của mình. Tất nhiên, khi họ đã
chấp nhận điều đó đồng nghĩa với việc họ phải bồi thường thiệt hại ngay cả
khi họ không có hành vi gây thiệt hại.
3. Có lỗi của người gây thiệt hại.
Nguyên tắc trong việc áp dụng luật dân sự cũng như luật hình sự là một
người chỉ bị áp dụng chế tài khi họ có lỗi đối với việc gây ra thiệt hại, và lỗi
của họ đến đâu thì áp dụng chế tài đến đó. Do vậy, người điều khiển phương
tiện chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp họ có
lỗi trong việc gây ra thiệt hại (trừ trường hợp thiệt hại xảy ra được xác định
là do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra). Theo quy định của điều 604 thì lỗi
của người điều khiển phương tiện nói riêng, người gây thiệt hại nói riêng có

thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
6
Cố ý gây thiệt hại là một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn, hoặc không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc có thể thấy
trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Xung quanh việc xác định hình thức lỗi cố ý của người điều khiển phương
tiện giao thông vận tải cơ giới còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho
rằng việc gây thiệt hại với lỗi cố ý của người điều khiển phương tiện thì sẽ
không áp dụng trách nhiệm bồi thiệt hại do nguời điểu khiển phương tiện
giao thông vận tải gây ra, việc áp dụng trách nhiệm dân sự nêu trên chỉ áp
dụng khi người điều khiển phương tiện có lỗi vô ý, còn khi đã có lỗi cố ý thì
phải áp dụng trường hợp bồi thường do hành vi của con người gây ra. Em
không đồng ý với quan điểm nêu trên, em cho rằng người điều khiển phương
tiện giao thông vận tải cơ giới vẫn có thể có lỗi cố ý được. Thứ nhất, người
điều khiển phương tiện biết việc thực hiện hành vi của mình là có khả năng
gây thiệt hại nhưng vẫn thực hiện, khi thiệt hại xảy ra thì được coi là người
này đã có lỗi cố ý với hành vi và vô ý đối với hậu quả. VD: Một người vượt
đèn đỏ biết được hành vi của mình có thể gây thiệt hại nhưng không mong
muốn và tin rằng hậu quả sẽ không xảy ra, tuy nhiên hành vi đó đã gây thiệt
hại cho người đi đường khi họ đi đúng tín hiệu giao thông. Thứ hai, người
điều khiển phương tiện cố ý với cả hành vi và hậu quả thiệt hại khi họ cho
rằng họ được phép gây thiệt hại trong trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. VD: A đang lái xe ô tô thì bị một đám thanh niên đuổi đánh,
A đã nhằm thẳng một người đang dùng vũ khí đập xe mình và đâm thẳng vào
người đó. Nếu như hành vi của A chỉ dừng lại ở đó thì được coi là phòng vệ
chính đáng và không phải bồi thường, nhưng A lo ngại người này sẽ đứng

dậy được và tiếp tục đập xe lên A đã lùi xe lại cán gẫy chân người này.
Trường hợp này A đã gây thiệt hại so vượt quá giới hạn của phòng vệ chính
đáng và phải bồi thường thiệt hại.
7
Tuy vậy, ta cần đặc biệt chú ý tới trường hợp gây thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, lúc này chủ sở hữu, người chiếm hữu phải bồi
thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp họ không có lỗi. BLDS coi đây là
một loại “trách nhiệm dân sự nâng cao” đối với chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải là thiệt hại
do tự thân của phương tiện khi vận hành gây ra. Đây là điểm khác biệt của
hai trường hợp bồi thương thiệt hại do phương tiện và bồi thường thiệt hại
do người điều khiển phương tiện gây ra. VD: Chị Hoa gửi xe vào trong bãi
đậu xe của anh Hoàng. Khoảng 15 phút sau, chiếc xe bất chợt phát nổ gây
thiệt hại cho những chiếc xe xung quanh. Trong trường hợp này, người chủ
sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chứ không phải người
đang chiếm hữu phương tiện.
4. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra trong các vụ tai nạn giao thông là kết quả của hành vi trái
pháp luật, hay nói cách khác, hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt
hại xảy ra. Điều này được quy định tại điều 604: “Người nào… xâm phạm
…mà gây thiệt hại” thì phải bồi thường. Ở đây ta thấy hành vi gây thiệt hại
đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản… là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả
của hành vi đó.
Mối quan hệ nhân quả thể hiện trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
tương tự như mối quan hệ của cặp phạm trù nhân quả. Nghĩa là hành vi gây
ra thiệt hại do người điều khiển phương tiện phải diễn ra trước về mặt thời
gian so với thiệt hại thực tế xảy ra. VD: A lái xe đâm vào một xác chết (xác
của một người bị một nhóm nguời giết rổi vứt ra đường) dẫn tới nát phần đùi
bên trái của xác chết, thì việc đâm phải xác chết này không được coi là xâm
phậm đến tính mạng, sức khoẻ của người chết được. Bên cạnh đó, hành vi

trái pháp luật phải là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu dẫn đến hậu quả thiệt
hại. VD: An là xe ôm, An chở một lúc 2 người đến trường Đại học Luật Hà
Nội. Đang ngồi trên xe thì B nhảy xuống xe để trốn tiền xe ôm khi xe đang
chạy dẫn đến tử vong do va đầu vào gạch ven đường. Ở đây ta không thể cho
8
rằng việc An chở quá số người quy định là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái
chết của B được.
III. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp
gây thiệt hại.
Người điều khiển phương tiện giao thông vận tải gây thiệt hại có thể là
chủ sở hữu phương tiện, người chiếm hữu phương tiện hợp pháp hoặc bất
hợp pháp. Thông qua mối quan hệ giữa các chủ thể ta có thể xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về một chủ thể, hoặc các chủ thể liên đới
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, do các phương tiện giao
thông vận tải cơ giới phải mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc nên
xuất hiện một chủ thể nữa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ quan bảo
hiểm.
1. Chủ sở hữu phương tiện.
Chủ sở hữu phương tiện cơ giới có thể là cá nhân hay tổ chức. Chủ sở
hữu phương tiện đuợc pháp luật công nhận quyền sở hữu của mình đối với
phương tiện vận tải cơ giới, bởi vậy họ có quyền sử dụng phương tiện vào
các mục đích hợp pháp theo ý muốn của mình. Xuất phát từ việc khai thác
công dụng của phương tiện, chủ sở hữu cũng đồng thời phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại khi sử dụng phương tiện dẫn tới việc gây thiệt hại
đến xã hội.
Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại trong những trường hợp sau:
- Trong trường hợp chủ sở hữu là người đang vận hành phương tiện,
thiệt hại xảy ra do tự thân phương tiện gây ra, đây trường hợp chủ sở hữu
phương tiện phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ do mình
đang chiếm hữu, sử dụng gây ra.

- Chủ sở hữu là người trực tiếp điều khiển phương tiện có hành vi gây
thiệt hại cho xã hội. Các hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà người điều
khiển phương tiện giao thông vận tải có thể gây ra cho xã hội: Gây thiệt hại
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; gây thiệt hại trong trường hợp
vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; điều khiển phương tiện sau khi dùng
9
chất kích thích; gây thiệt hại trong trường hợp người điều khiển phương tiện
và người bị thiệt hại cùng có lỗi.
- Chủ sở hữu có lỗi trong việc trông coi, bảo quản phương tiện để người
khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp gây tai nạn mà không xác định được
người chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp hoặc trong trường hợp chủ sở hữu
có lỗi trong việc bảo quản dẫn đến việc để người không có năng lực hành vi
chiếm hữu, sử dụng phương tiện gây tai nạn.
- Chủ sở hữu giao cho người khác sử dụng theo quan hệ của hợp đồng lao
động, theo chế độ công vụ. Về nguyên tắc, người điều khiển phương tiện
theo hợp đồng lao động, theo chế độ công vụ thì chủ sở hữu phải bồi thường
thiệt hại trong mọi trường hợp phương tiện thuộc quyền sở hữu của mình
gây thiệt hại.
Chủ sở hữu phương tiện phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại đối với các trường hợp sau:
- Người được chủ sở hữu giao phương tiện trong hợp đồng khoán việc
gây thiệt hại. Trong trường hợp này chủ sở hữu có trách nhiệm bồi thường
liên đới với người điều khiển phương tiện.
- Trường hợp gây thiệt hại do rủi ro trong quá trình vận hành phương
tiện. Rủi ro trong chế định này là một trong những đặc điểm của nguồn nguy
hiểm cao độ. Trong quá trình sử dụng phương tiện, chủ sở hữu phương tiện,
người được giao chiếm hữu sử dụng phương tiện có thể ý thức được sự rủi
ro nhưng không thể ngăn ngừa được.
- Giao quyền chiếm hữu, quyền sử dụng trong trường hợp cho thuê
phương tiện. Trong quan hệ thuê phương tiện thì mục đích của chủ sở hữu

phương tiện là nhằm thu lợi từ việc cho thuê tài sản của mình, còn người
thuê phương tiện có thể nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hay nhằm mục đích
thu lợi thông qua việc sử dụng phương tiện.
2. Người chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải cơ giới.
Người chiếm hữu, sử dụng phương tiện không phải là chủ sở hữu phương
tiện. Họ có thể là người được chủ sở hữu giao phương tiện thông qua một
10

×