Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của luật việc làm ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.22 KB, 69 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việc làm và thất nghiệp là vấn đề vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội
sâu sắc. Vấn đề việc làm và thất nghiệp là một trong những thước đo quan trọng cho
sự phát triển của một quốc gia, vì vậy hai vấn đề này luôn được mỗi quốc gia nói
riêng và toàn thế giới nói chung quan tâm, coi trọng. Việc làm không chỉ mang lại
cho con người cơ hội kiếm sống mà còn mang lại cho con người cơ hội để khẳng định
bản thân, tìm kiếm địa vị trong xã hội.
Việc làm và thất nghiệp trong những năm qua đã trở thành vấn đề được nhiều
ngành nhiều cấp quan tâm, nghiên cứu từ những vấn đề vĩ mô đến các vấn đề vi mô
nhất. Việt Nam là một quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào, và NLĐ cần cù, thông
minh, chăm chỉ là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện
nay, khi nước ta đang bước vào quá trình hội nhập toàn cầu hóa, khu vực hóa, dưới
sức ép của thị trường thì vấn nạn thất nghiệp luôn là mối quan tâm hàng đầu trong
cuộc sống mà trong thực tiễn giải quyết việc làm cho người dân vẫn là một khó khăn,
đòi hỏi sự hỗ trợ của toàn xã hội, Nhà nước va mỗi người.
Việc làm cũng là một chế định quan trọng của luật Lao động, tuy nhiên chưa có
một văn bản pháp lý riêng đủ lớn danh cho lĩnh vực này. Vì vậy, pháp luật về việc
làm trên thực tế còn nhiều hạn chế và tính thực thi chưa cao. Yêu cầu đặt ra là làm
sao tạo nên tính thống nhất, đồng bộ trong pháp luật về việc làm để đáp ứng tốt hơn
những đòi hỏi của xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu:
Xuất phát từ tính quan trọng của vấn đề nghiên cứu mà vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm đã được nghiên cứu khá nhiều từ cấp nhà nước đến những bài viết trên
tạp chí. Các công trình nghiên cứu tiếp cận ở những góc độ khác nhau như kinh tế -
xã hội, luật học, tuy nhiên mỗi cách nghiên cứu lại tập trung vào mỗi góc độ khác
nhau và phần lớn phục vụ cho lĩnh vực kinh tế xã hội
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra bài viết còn được nghiên cứu dưới
1


nhiều phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, chứng minh, quy nạp, so sánh,
thống kê. .v. v.
4. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Bài khóa luận góp phần xây dựng quan điểm lý luận pháp lý chuyên ngành về
việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nghiên cứu và đánh giá các thông tin về việc làm và giải quyết việc làm trong
thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Với đề tài "Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của
luật việc làm ở Việt Nam" bài viết tập trung nghiên cứu trong phạm vi đường lối,
chính sách, pháp luật, thực tiễn áp dụng và giải quyết vấn đề về việc làm ở Việt Nam.
Về lý luận bài viết tập trung vào hai vấn đề lớn là cơ sở xây dựng và nội dung của
pháp luật về việc làm hiện nay. Về phương diện thực tiễn, bài viết là rõ các vấn đề về
thực tiễn pháp luật việc làm cũng như thực tiễn áp dụng, thực tiễn giải quyết vấn đề
việc làm trong các giai đoạn lịch sử phát triển.
5. Đóng góp của đề tài:
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu, làm rõ các khác niệm về việc làm và các vấn
đề liên quan như thất nghiệp, tầm quan trọng của việc làm, giải quyết việc làm....Đề
tài cũng đóng góp thêm trong việc hệ thống các kiến thức khoa học về việc làm. Về
thực tiễn: đề tài cũng nghiên cứu và cung cấp những số liệu và các thông tin liên quan
về việc làm, lực lượng lao động...trong những năm qua.
6. Kết cấu của bài viết:
Với đề tài "Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của luật việc làm ở Việt Nam",
ngoài phần lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, bài viết kết cầu gồm 3
chương:
Lời nói đầu
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và pháp luật về việc làm.
Chương II: Thực trạng pháp luật việc làm ở Việt Nam
Chương III: Hoàn thiện pháp luật việc làm ở Việt Nam
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
2

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ
PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM
1.1. Khái quát chung về việc làm:
1.1.1. Khái niệm việc làm:
Lao động và việc làm là những phạm trù dù nhìn ở góc độ nào: kinh tế, xã hội,
khoa học... cũng là một vấn đề lớn cần quan tâm và nghiên cứu. Dưới những góc độ
khác nhau thì vấn đề lao động nói chung và việc làm nói riêng được tiếp cận ở những
mức độ và khía cạnh khác nhau.
1.1.1.1. Dưới góc độ kinh tế-xã hội học:
Dưới góc độ kinh tế học, lao động là hình thức mà qua đó con người tác động
lên tự nhiên và thế giới xung quanh nhằm duy trì sự tồn tại cho bản thân. Hiện nay,
quá trình lao động của con người - được thể hiện cụ thể thông qua các hình thức việc
làm của từng người - chính là phương thức, công cụ để con người không chỉ đáp ứng
nhu cầu bản thân mà còn là cơ hội để khẳng định chính mình, góp phần phát triển
kinh tế-xã hội. Về quan niệm việc làm có rất nhiều học giả cố gắng đưa ra khái niệm
dưới những góc độ khác nhau như:
Theo H.A.Gô-rê-lốp thì: “Việc làm là một quan hệ sản xuất nảy sinh do có sự
kết hợp giữa cá nhân người lao động với các phương tiện sản xuất”. Cách nhìn này
dựa trên sự xem xét mối quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất
Đánh giá tích cực, có ích của con người vào hoạt động xã hội, không phân biết
loại hình hoạt động, Giáo sư Sô-nin và Phó tiến sĩ E.Jit-nôp (Liên Xô cũ) cho rằng:
“Việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội
có ích trong khu vực xã hội hóa sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong
kinh tế phụ của nông trang viên.”
Theo Guy Hân-tơ, Viện phát triển hải ngoại Luân-Đôn (Anh): “Việc làm theo
nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì
quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu
chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế”. Cách nhìn này dựa vào
mục đích mưu sinh trong các hoạt động của con người để xác dịnh một việc làm.
Theo Phó cố vấn kinh tế Giăng Mu-tê, Văn phòng lao động quốc tế: “Việc làm

có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc
3
hiện vật, trong đó có sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp sản xuất”.
Theo cách định nghĩa này, Giăng Mu-tê đã lấy biểu hiện trả công trong quan hệ làm
việc để xác định một việc làm
Nhìn chung, với những cách nhìn khác nhau, người ta sẽ có quan điểm khác
nhau về việc làm. Song về cơ bản các khái niệm trên đã đưa ra được bản chất của
việc làm, đó là: việc làm là những dạng thức hoạt động nhằm kiếm sống của con
người mà qua những dạng thức hoạt động đó con người bỏ sức lao động để đem lại
thu nhập, thỏa mãn nhu cầu bản thân. Việc làm luôn gắn liền với khái niệm "thu
nhập". Có thể nói, thu nhập là mục đích chính của việc làm hướng đến cho dù trong
những hoàn cảnh cụ con người không thể hình dung ra đucọ thực tế sự trả công đang,
đã, hoặc sẽ diễn ra.
Việc làm với tư cách là dạng thức lao động, luôn gắn liền với con người mà
không gắn liền với bất cứ loài động vật nào khác. Bởi lẽ, để tiến hành được việc làm
một thì cần được thực hiện bởi ý chí, lý trí và tình cảm, mà lý trí, ý chí, tìnhnh cảm
lại chỉ có ở con người, một đối tượng có nguồn gốc xã hội, mang dấu ấn xã hội sâu
sắc. Để việc làm có thể biểu hiện ra thế giới xung quanh thì cần phải thông qua dưới
"sự làm việc" của con người. Nếu nhìn nhận rộng hơn về phương diện xã hội, việc
làm chính là những dạng hoạt động xã hội có sự liên quan, liên kết của các cá nhân
trong xã hội. Việc thực hiện một việc làm của người này thường liên quan đến người
kia, và ngược lại. Hơn nữa, có thể việc thực hiện việc làm này sẽ là điều kiện của việc
làm khác, mà cũng có thể là hệ quả tiếp theo của việc làm trước đó.
Như vậy, xét về phương diện kinh tê-xã hội, có thể hiểu việc làm là các dạng hoạt
động đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động và với tư cách là các hoạt động của
mỗi cá nhân nhưng lại luôn gắn liền với xã hội và được xã hội thừa nhận.
1.1.1.2. Dưới góc độ Luật học:
Trong BLLĐ Việt Nam, khái niệm việc làm được ghi nhận là: “Mọi hoạt động
lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm ...”. Định nghĩa này vừa kế thừa vừa phát triển những quan điểm trước đây về

việc làm. Theo pháp luật, việc làm được thừa nhận với hai điều kiện sau: một là, đó là
hoạt động có ích của con người tạo ra nguồn thu nhập, hai là, không bị pháp luật cấm.
Hoạt động lao động được pháp luật thừa nhận là: các công việc đem lại lợi nhuận cho
4
bản thân; các công việc nhằm nhận tiền công, thù lao bằng tiền hoặc hiện vật; các
hoạt động cho bản thân và gia đình mà không đem lại những lợi nhuận bằng tiền hay
hiện vật trực tiếp. Quan điểm về việc làm hiện nay đã đáp ứng nhu cầu của bản thân
người lao động và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế, xã hội. Trước đây, trong nền kinh
tế tập trung, bao cấp thì việc làm chỉ được thừa nhận khi việc làm đó do nhà nước tạo
ra và người lao động phải nằm trong biên chế nhà nước. Quan niệm này không có tác
dụng khuyến khích người lao động chủ động, sáng tạo trong công việc của mình, tự
tìm việc làm, kích thích nền kinh tế nhiều thành phần phát triển. Hiện nay, thị trường
việc làm đươc mở rộng trên rất nhiều thành phần kinh tế với duới nhiều quy mô khác
nhau.
Mặc dù được quy định cụ thể hay không, việc lam, về mặt pháp lý, chính là
những dạng hoạt động có mục đích tích cực, được pháp luật của nhà nước thừa nhận
như là một bộ phận của quan hệ lao động trong xã hội. Nó có thể hợp thành một chế
định pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc làm.
1.1.1.3. Việc làm theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO):
Theo quan niệm của ILO: “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó
được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người
tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập
gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật”. Có thể ghi nhận rằng, Tổ chức
Lao động quốc tế luôn chú trọng đến vấn đề việc làm và tình trạng thất nghiệp trên
toàn thế giới cũng như với từng quốc gia nói riêng. ILO luôn khuyến khích tạo việc
làm là mục tiêu quan trọng trong tôn chỉ hoạt động của mình. Điều đó được thể hiện
trong Điều lệ của cương lĩnh “chống nạn thất nghiệp, bảo đảm tiền công đủ sống”
1919 và Tuyên ngôn Philadenphia 1944 “toàn dụng lao động và nâng cao mức sống”.
Kế thừa và phát huy tinh thần của Cương lĩnh năm 1919, những năm sau này, ILO đã
đề ra hàng loạt các trương trình, các chính sách, tổ chức thực hiện trên các quốc gia

nhằm đem lại hiệu quả việc làm cho người lao động như: Chương trình việc làm thế
giới năm 1969 với mục tiêu tạo việc làm hiệu quả cho một số lượng lớn người lao
động, năm 1976, ILO tổ chức Hội nghị việc làm thế giới và trong hội nghị đã thông
qua Tuyên bố về các nguyên tắc và các chương trình hành động loại trừ nghèo khổ,
phát triển việc làm đầy đủ, có hiệu quả, thỏa mãn những yêu cầu cơ bản của người
5
lao động...Ngoài ra, ILO còn ban hành nhiều công ước quan trọng về vấn đề việc làm
và chống thất nghiệp như: Công ước số 88 năm 1948 về tổ chức dịch vụ việc làm,
Công ước số 122 năm 1964 về chính sách việc làm: Công ước số 159 năm 1983 về tái
thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người thất nghiệp... Có thể nói rằng, những
chính sách của ILO đã tạo tiền đề pháp lý cho việc đảm bảo quyền tự do việc làm.
Trong những năm qua, chính sách việc làm của ILO có những bước phát triển tích
cực và hiện nay, mục tiêu của chính sách việc làm của tổ chức này là tạo cơ hội cho
phụ nữ tìm được việc làm phù hợp và đảm bảo bình đẳng với nam giới. Với xu
hướng phát triển của nền kinh tế thị trường và sự phát triển của xã hội loài người
ngày càng tiến bộ văn minh hơn đã hình thành nên một khái niệm rất mới đó là “việc
làm nhân văn” (Deccent Work). Khái niệm này ra đời là chính là mục tiêu lớn của
các quốc gia trên thế giới và của ILO. Đây là một khái niệm đánh dấu bước phát triển
vượt bậc của nhận thức con người về việc làm. Việc làm nhân văn là việc làm đáp
ứng các điều kiện sau: chắc chắn hữu ích; tôn trọng các quyền lao động; với mức thù
lao hợp lý tương xứng; bảo vệ các quyền xã hội; bảo đảm sự tham gia và thương
lượng tập thể, quyền tự do công đoàn và đối thoại xã hội; Gần đây, ILO đã khuyến
cáo về việc làm xanh (Green Jobs) nhằm định hướng các quốc gia về việc làm gắn
liền không chỉ với chất lượng sống như việc làm nhân văn, mà còn phải đảm bảo tính
an toàn về mặt môi trường cho người lao động cũng như với xung quanh.
1.1.2. Việc làm và thất nghiệp:
Việc làm là phương thức để con người tồn tại, nếu không làm việc con người tồn
tại. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng được tự động hóa, kết hợp với sự gia tăng
quá nhanh về dân số đã khiến cho một bộ phận không nhỏ người lao động thiếu việc
làm. Hiện tượng thiếu việc làm bao gồm thiếu việc là toàn bộ và thiếu việc làm một

phần. Thiếu việc làm có thể dẫn đến thất nghiệp.
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội phản ánh một trạng thái tồn tại khi
người trong độ tuổi lao động mong muốn và có khả năng làm việc, rất tích cực tìm
kiếm nhưng không tìm được việc làm vì lý do không có chỗ làm việc trống hoặc trình
độ chuyên môn không phù hợp. Còn “người thất nghiệp” là người trong độ tuổi lao
động, có nhu cầu và khả năng lao động, đang không có việc làm, đang tìm việc làm,
6
sẵn sàng đi làm việc ngay nếu có cơ hội, nhưng chưa được giải quyết việc làm tại một
thời điểm nhất định.
Thất nghiệp là một hiện tượng khách quan tồn tại dưới ba hình thức chính: thất
nghiệp tạm thời, thất nghiệp theo chu kỳ và thất nghiệp theo cơ cấu. Thất nghiệp tạm
thời xuất hiện do sự di chuyển của người lao động giữa các vùng, các khu kinh tế, các
công việc, các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Thất nghiệp có tính cơ cấu xảy ra
khi mất cân đối giữa cung và cầu đối với người lao động. Hiện tượng này có thể xảy
ra trong cơ cấu phân bố nguồn lao động của cả một quốc gia và cũng có thể Xảy ra
với từng ngành nghề nhất định. Thất nghiệp theo chu kỳ thể hiện qua việc người lao
động không tìm được một công việc trong một khoảng thời gian nhất định. Hiện
tượng này rất phổ biến và lặp lại có tinh chất “theo mùa”.
Đối với người thất nghiệp, theo ILO thì những người sau đây nếu trong một
khoảng thời gian nhất định mà không có việc làm thì được coi là người thất nghiệp:
Thứ nhất, là người không có việc làm: là những người không đi tìm việc làm,
không có việc làm phù hợp, không có khả năng lao động, không có nghề
Thứ hai, người không có việc làm nhưng có khả năng làm việc, tích cực tìm
kiếm việc làm nhưng trong một khoảng thời gian nhất định không tìm được việc hoặc
đăng ký làm việc nhưng chưa có kết quả.
Như vậy, việc làm và thất nghiệp là hai vấn đề của một chỉnh thể. Không thể có
thất nghiệp khi con người đang chiếm hưu một việc làm, cho dù chỉ là chiếm hữu mà
không vận động. Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói, việc làm là điều kiện quan trọng
quyết định tình trạng thất nghiệp trong xã hội.
1.1.3. Phân loại việc làm:

Có nhiều cách phân loại việc làm khác nhau tùy theo những góc độ nghiên cứu
khác nhau.
Nếu căn cứ vào tính chất nguy hiểm, độc hại của việc làm thì có thể chia việc làm
thành việc làm bình thường và việc làm khó khăn, độc hại, nguy hiểm. Việc làm bình
thường là việc làm mà không có hoặc có nhưng chứa đựng rất ít những yếu tố khó
khăn, độc hại , nguy hiểm được thể hiện qua quá trình làm việc và hậu quả lâu dài
của công việc đó. Chính vì vậy mà người lao động có thể trực tiếp làm hoặc tuy có sự
bảo hộ nhưng không đáng kể để giải quyết công việc đó một cách an toàn và không
7
để lại những hậu quả xấu cho tương lai. Công việc khó khăn, nặng nhọc, độc hại là
các công việc chứa đựng những yếu tố như hóa học, vật lý, sinh học có hại với người
lao động. Người lao động khi phải trực tiếp làm công việc đó hoặc làm việc trong
môi trường độc hại thì có thể ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, tinh thần, làm ảnh
hưởng đến khả năng lao động và để lại những di chứng cho tương lai. Vì vậy khi
muốn làm nhưng công việc đó người lao động cần có nhưng phương tiện bảo hộ hoặc
nhưng phương tiện có thể giúp người lao động không phải trực tiếp làm.
Căn cứ vào tình trạng của người lao động và yêu cầu đối với việc làm thì có thể
chia công việc thành công việc dành cho người bình thường và công việc dành cho
người đặc thù. Tình trạng đặc thù của người lao động được thể hiện qua việc giới hạn
những công việc và giới hạn chịu được những công việc do nguyên nhân xuất phát từ
tình trạng cơ thể. Người lao động có sự phát triển không bình thường hoặc khiếm
khuyết về cơ thể hoặc không phù hợp với tình trạng cơ thể khiến họ không có nhiều
cơ hội để thực hiện tất cả công việc. Ví dụ như những công việc khó khăn, nặng nhọc
độc hại thường không phải là đối tượng của người lao động là phụ nữ, trẻ em, người
tàn tật, người cao tuổi...lựa chọn. Những công việc đó đôi khi còn là đối tượng bị hạn
chế với những người sử dụng lao động, không được phép sử dụng người lao động đặc
thù.
Căn cứ vào cách thức thực hiện công việc thì có thể chia việc làm thành hai loại
là việc làm chân tay và việc làm trí óc. Đây là cách phân loại dựa trên cách phân loại
lao động chân tay và lao động trí óc. Việc làm chân tay về cơ bản sử dụng nhiều sức

khỏe cơ thể, việc tư duy sâu thường sử dụng ở mức bình thường, không nhiều. Tuy
nhiên, cách phân loại cổ điển này chỉ nói lên một tình trạng phân biệt có tính tương
đối. Bởi vì, khi làm việc bằng trí óc, người ta phải sử dụng chân tay để hành động. Và
ngược lại, khi đang làm việc chân tay thì người lao động vẫn phải tư duy chứ không
chỉ làm theo vô thức.
Căn cứ vào tính thời gian của việc làm có thể chia việc làm thành hai loại là việc
làm trọn ngày và việc làm không trọn ngày(từng phần). Việc làm trọn ngày hay
thường gọi đầy đủ thời gian ("full time"), đây là hình thức việc làm trong đó người
lao động dành trọn ngày làm việc để thực hiện một loại công việc nhất định . Việc
làm từng phần hay thường gọi là việc làm bán thời gian ("part time"), việc làm theo
8
ca giờ, đây là hình thức làm việc trong đó người lao động chỉ sử dụng một phần thời
gian của một ngày làm việc để giải quyết một công việc nhất định. Điều này có thể
xuất phát từ tính chất công việc đòi hỏi không cần nhiều thời gian trong một ngày
hoặc xuất phát từ khả năng làm việc của người lao động không thể dành hết thời gian
một ngày làm việc cho công việc đó.
1.1.4. Đặc điểm của việc làm:
Thứ nhất, việc làm có tính xã hội: việc làm là sáng tạo của xã hội loài người và
đồng thời là cơ sở của mọi sinh họat xã hội của con người. Thực chất đời sống sinh
hoạt xã hội của mọi thời đại đều gắn với việc làm, qua các trao đổi việc làm. Bên
cạnh tính chất kinh tế thì việc làm còn mang tính xã hội rất cao. Điều đó được thể
hiện thông qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, việc làm có lịch sử xã hội lâu dài, từ việc con người chỉ biết săn bắn,
hát lượm trái cây có sẵn trong tự nhiên đến việc cải tạo tự nhiên để đáp ứng nhu cầu
bản thân và xã hội. Con người tác động vào tự nhiên từ việc phụ thuộc hoàn toàn vào
tự nhiên đến việc bắt tự nhiên phục vụ con người. Trong quá trình phát triển đó, việc
làm như một yếu tố quyết định đến nền văn minh của con người. Việc làm càng phức
tạp thì con người càng phát triển, nền văn minh của con người càng cao, con người
càng trở nên thông minh, xã hội càng phát triển.
Thứ hai, mỗi con người là một cá thể độc lập, việc làm của mỗi người cũng có

tính độc lập tương đối. Tuy nhiên, con người là một cá thể nằm trong tổng hòa các
mối quan hệ với thế giới và việc làm của mỗi con người cũng phải nằm trong mối
quan hệ với các yếu tố khác. Như vậy, việc làm con mang tính xã hội thể hiện ở việc
làm của mỗi người luôn gắn liền với các hoạt động hoạt động sản xuất của xã hội.
Việc làm của mỗi cá nhân không chỉ nuôi sống cá nhân đó mà còn có thể nuôi sống
gia đình họ và góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, việc làm có tính kinh tế: khi tiến hành bất kỳ một công việc nào, người
ta đều tạo ra những giá trị sử dụng nhất định. Những giá trị đó có thể vô hình (sản
phẩm trí tuệ) hoặc hữu hình (các đồ vật) đều là thành quả của sự lao động thông qua
một việc làm. Dưới góc độ kinh tế, việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân
người lao động, xuất phát từ nhu cầu mưu sinh cơ bản nhất của con người.
Ph.Ăngghen đã khẳng định lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
9
sống con người, chính lao động đã tạo ra chính bản thân con người. Hiện nay, sức lao
động được coi là một loại hàng hóa đặc biệt, bởi lẽ nó không chỉ nuôi sống bản thân
người lao động mà còn tạo ra lợi nhuận rất lớn cho người lao động. Người lao động
tham gia vào công việc nào đó để được trả công, hoặc tự tạo ra các việc làm để tiến
hành sản xuất, tạo ra của cải vật chất. Mức tiền công cho người lao động phụ thuộc
vào nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là giá trị việc làm, việc làm càng có giá trị
cao thì mức trả công càng lớn.
Thứ ba, việc làm là một phạm trù mang tính đạo lý: Việc làm, sự tiến hành một
công việc trong bất cứ phạm vi rộng, hẹp nào đều liên quan và thể hiện tính đạo lý
sâu sắc. Một việc làm được coi là vô lương luôn luôn bị xã hội lên án, bài xích và
không thừa nhận. Một việc làm, dù đơn giản nhưng có tính nhân văn, vì con người,
đều được tôn trọng. Người làm việc tốt sẽ được xã hội tôn trọng, ca ngợi, và ngược
lại, sẽ bị lên án.
Trong xã hội có nhà nước, việc làm được luật pháp quan tâm quy định và bảo
vệ. Việc làm phát triển từ chỗ quy định những việc mà người ta sống trong cộng đồng
được làm, ngày nay đã phát triển thành quy tắc rộng rãi: người ta có quyền làm
những gì mà pháp luật không cấm.

Thứ tư,việc làm có tính hệ thống: mỗi việc làm đều gắn với một hệ thống ngành
nghề kinh tế quốc dân. Việc phân chia đó nhằm tạo ra những cơ sở để nghiên cứu,
phân tích, xác định, thực hiện việc làm một cách khoa học. Đồng thời để đảm bảo cho
việc trả công lao động, thực hiện các chính sách đối với người lao động.
1.1.5. Mối quan hệ về việc làm với quan hệ pháp luật lao động:
Việc làm là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ pháp luật lao động. Lao
động là phương thức tác động lên thế giới xung quanh để con người duy trì sự tồn tại
của bản thân, lao động được biểu hiện thông qua việc làm và sự làm việc của con
người. Trong quá trình làm việc đó con người không chỉ tác động lên thế giới tự
nhiên mà còn tạo ra những mối quan hệ giữa con người với con người. Đó là quan hệ
giữa người lao động với người lao động, và hiểu theo một nghĩa hẹp hơn trong nền
kinh tế thị trường là quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Xuất
phát từ nhu cầu của hai bên, người sử dụng có nhu cầu làm việc, còn người sử dụng
lao động lại muốn sử dụng sức lao động của người lao động , hai bên thương lượng
10
và thỏa thuận với nhau. Kết quả của việc thương lượng, thỏa thuận thành công là cơ
sở tạo nên quan hệ lao động. Hiện nay, nhà nước điều chỉnh mối quan hệ này bằng
pháp luật, vì vậy quan hệ này gọi là quan hệ pháp luật lao động. Như vây, có thể nói
rằng, quan hệ pháp luật lao động được hình thành dựa trên việc làm, việc làm là cơ sở
để thiết lập mối quan hệ giữa người sử dụng lao động.
Việc làm là nội dung chủ yếu của quan hệ pháp luật lao động. Xuất phát từ ý
nghĩa việc làm là điều kiện tiên quyết để hình thành mối quan hệ pháp luật lao động
thì việc làm cũng chính là nội dung chủ yếu thể hiện trong quan hệ pháp luật lao
động. Trong nội dung của quan hệ pháp luật lao động tồn tại quyền và nghĩa vụ của
người lao động và người sử dụng lao động. Sở dĩ tồn tại quyền và nghĩa vụ của hai
bên là do nhu cầu việc làm của người lao động và nhu cầu sử dụng sức lao động của
người sử dụng lao động, khiến hai bên buộc phải ký kết hợp đồng lao động. Trong
hợp đồng lao động đó, cả hai bên đều muốn bảo đảm nhu cầu của mình liên quan đến
việc làm nên các điều thỏa thuận trong đó phần lớn lớn liên quan đến việc làm như:
làm việc gì?, tiền lương khi làm việc đó, thời gian làm việc...

Việc làm là cơ sở để duy trì quan hệ pháp lao động. Vì việc làm là điều kiện hình
thành và là nội dung chủ yếu của quan hệ pháp luật nên việc làm cũng chính là yếu tố
tồn tại của quan hệ pháp luật lao động. Sự tồn tại của việc làm chính là sự tồn tại của
mối quan hệ giữa người lao động với người sử dụng lao động. Đây là yếu tố duy trì
quan hệ này, không có việc làm thì không còn cầu nối giữa hai loại chủ thể này và
việc thỏa thuận giữa hai bên cung khó có thể tồn tại. Khi công việc kết thúc thì họp
đồng giữa hai bên cũng kết thúc, quyền và nghĩa vụ cũng chấm dứt, khi công việc
thay đổi thì nội dung hợp đồng thay đổi và mối quan hệ cũng thay đổi theo.
1.1.6. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm:
Việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề rất quan trọng của đời sống kinh tế, xã
hội, pháp luật. Hiện nay, việc làm luôn được các quốc gia đặc biệt quan tâm, không
chỉ trên phạm vi một nước mà còn có sự liên kết giữa các quốc gia để giải quyết
những vấn đề liên quan.
Tầm quan trọng của việc làm thể hiện trước hết đối với bản thân người lao động,
việc làm là phương tiện để con người tồn tại, là cơ hội để con người được làm việc và
11
khẳng định bản thân. Có việc làm thì con người mới đáp ứng được những nhu cầu
của cá nhân và gia đình.
Việc làm thể hiện sự phát triển của một quốc gia, thể hiện văn minh của quốc
gia đó. Một quốc gia phát triển được đánh giá một mặt trên cơ sở việc làm: nội dung
việc làm như thế nào? Được thực hiện ra sao? Tính chất việc làm là gì?.. Việc làm là
yếu tố thúc đẩy sự pháp triển bền vững: một quốc gia có một lượng việc làm ổn định,
đáp ứng nhu cầu người lao động, thất nghiệp được giải quyết, tận dụng tối đa nguồn
nhân lực vốn có thì quốc gia đó sẽ trở thành một quốc gia phát triển vững mạnh.
Việc làm còn là yếu tố bảo đảm an toàn của xã hội. Khi xảy ra tình trạng thất
nghiệp sẽ kéo theo rất nhiều những vấn nạn của xã hội như: thiếu nhà ở, nghèo đói,
lạc hậu, các bệnh dịch,... tệ nạn xã hội cũng từ đó mà tăng theo. Giải quyết được thất
nghiệp cũng là giải quyết được rất nhiều những mối nguy hiểm cho xã hội. Sự an
toàn kinh tế, sự an toàn xã hội, an ninh cá nhân, an ninh quốc gia phụ thuộc rất lớn
vào việc người lao động có việc làm hay không.

Như vây, trên phương diện cá nhân người lao động và xã hội thì việc làm đóng
một vai trò đặc biệt quan trọng, còn trên bình diện kinh tế, việc làm và kinh tế một
quốc gia luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bởi lẽ, đối với một nền kinh tế thị
trường, điều quan trọng là làm sao có một nguồn nhân lực dồi dào và tận dụng được
nguồn nhân lực một cách hiệu quả. Nguồn nhân lực đó hiểu theo một nghĩa hẹp chính
là người lao động, người lao động làm việc và tạo ra của cải vật chất, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Vậy, để một quốc gia phát triển nhanh chóng, bền vững thì vấn đề
việc làm phải được đặt lên hàng đầu.
Việc làm vừa có ý nghĩa kinh tế-xã hội, vừa mang ý nghĩa chính trị. Xuất phát từ
vai trò quan trọng mà vấn đề việc làm luôn được Đảng và Nhà nươc quan tâm. Việc
làm là một vấn đề được đề cập thường xuyên nhưng rất nhạy cảm, đó không chỉ là
vấn đề của mỗi cá nhân mà là vấn đề của toàn xã hội, mang nặng tính xã hội, nó có
thể thúc đẩy một xã hội phát triển cũng có thể khiến cả một xã hội lâm vào trạng thái
bất ổn nếu không được giải quyết một cách kịp thời, đúng đắn. Chính vì vậy, nhà
nước ta luôn có những chính sách về việc làm cho từng năm, từng thời kỳ để có thể
giải quyết vấn đề việc làm chi người lao động, giữ vững bình ổn quốc gia, an ninh
quốc phòng.
12
Như đã phân tích về mối quan hệ giữa việc làm và quan hệ pháp luật lao động,
việc làm còn có ý nghĩa rất lớn trên phương diện pháp lý. Pháp luật và xã hội đều
thừa nhận lao động là quyền cơ bản của con người, do đó việc làm là vấn đề thuộc
phạm trù cơ bản này. Mọi người đều có quyền có việc làm và tiến hành lao động một
cách hợp pháp để tạo ra của cải vật chất và đáp ứng nhu cầu tinh thần. Trong nền
kinh tế tập trung, bao cấp trước đây luôn thừa nhận việc người lao động ai cũng có
việc làm. Vì vậy, Nhà nước luôn cố gắng xếp người lao động vào một công việc nào
đó, thậm chí không phù hợp với họ. Nhà nước và xã hội không chấp nhận thất nghiệp
và lao động dư thừa, không có việc làm. Đây là quan điểm rất tiền bộ, tuy nhiên vào
thời gian lịch sử đó, thì quan điểm này chỉ giúp lao động có việc làm ở một giới hạn
nhất định, khi đất nước phát triển, nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường thì
phương pháp này chưa phù hợp nữa. Bởi lẽ, nếu Nhà nước luôn chịu trách nhiệm bố

trí công việc cho từng người thì vừa tạo nên trách nhiệm nặng nề cho Nhà nước vừa
khiến người lao động kém chủ động, tích cực, sáng tạo trong lao đông, khiến lao
động trở nên trì trệ, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chính sự không phù hợp đó
đã buộc Nhà nước ta lúc đó tiến hành cải cách, chuyển hướng sang nền kinh tế thị
trường đướng hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này, lao động không chỉ được công nhận
là quyền mà còn được ghi nhận như một nghĩa vụ cho người lao động. Sự thay đổi
này đã tạo nên nhiều cơ hội cho người lao động tự mình tìm kiếm việc làm, pháp huy
khả năng của bản thân, sáng tạo trong công việc. Ngoài ra, quan điểm này đã giảm đi
phần nào áp lực trách nhiệm của Nhà nước trong việc phải thu xếp việc làm cho
người lao động. Nhà nước chỉ tham gia vào quá trình quản lý, chỉ đạo, tổ chức các
hoạt động phát triển kinh tế xã hội nhằm tạo ra ngày càng nhiều việc làm và Nhà
nước tạo điều kiện, hỗ trợ cho người lao động tự tạo ra việc làm hoặc tìm kiếm việc
làm. Tính chất pháp lý của việc làm được thể hiện qua sự ghi nhận của Hiến Pháp, sự
ghi nhận này có mang một ý nghĩa rất lớn, đó là:
Thứ nhất, pháp luật ghi nhận nội dung, mục đích chủ yếu của việc làm là tạo ra
thu nhập, đáp ứng nhu cầu cá nhân, gia đình và xã hội.
Thứ hai, việc làm là những hoạt động nằm trong khuân khổ của pháp luật, mọi
người đều có quyền lao động tuy nhiên nhưng công việc của người lao động thực
hiện phải tuân theo pháp luật, tự do lựa chọn việc làm nhưng nằm trong khuân khổ
13
của pháp luật, mọi hoạt động trái với pháp luật đều không được công nhận. Đây
chính là chính là đặc điểm pháp lý rõ nét nhất của việc làm trong pháp luật lao động.
Đối với mỗi quốc gia, giải quyết việc làm là lĩnh vực có vị trí quan trọng đặc
biệt trong tổng thể các vấn đề phát triển kinh tế xã hội. Bởi lẽ, với mỗi quốc gia, nhân
lực là vấn đề trọng yếu để phát triển bền vững, vì vậy để tận dụng nhân tài quốc gia
thì phải tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội phát huy thực lực thông qua việc
làm. Ngày nay, khi xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa càng ngày càng trở nên
mạnh mẽ thì vấn đề việc làm và giải quyết việc làm đã trở thành vấn đề được toàn thế
giới quan tâm. Các quốc gia cùng nhau hợp tác để giải quyết các vấn đề việc làm một
cách nhanh chóng, hiệu quả trên một bình diện rộng và triệt để.

1.2. Pháp luật về việc làm:
1.2.1. Khái niệm pháp luật về việc làm:
Pháp luật việc làm là hệ thống các quy định pháp luật hình thành như là một chế
định của luật lao động, có chức năng điều chỉnh quan hệ xã hội về việc làm, bao gồm
quan hệ xã hội trong lĩnh vực tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động.
Việc làm là một trong những nội dung quan trọng quy định tại chương II Bộ luật
lao động (BLLĐ) với 7 điều thể hiện rất rõ những quan điểm, những chính sách của
Đảng và Nhà nước về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm. Thông qua pháp luật,
Nhà nước quản lý, tổ chức, chỉ đạo các hoạt động liên quan đến việc làm nhằm đáp
ứng tốt nhất vấn đề việc làm cho người lao đông và giải quyết các tranh chấp liên
quan.
1.2.2. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật việc làm:
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật việc làm chính là quan hệ việc làm. Đây
cũng chính là mối quan hệ chủ đạo mà BLLĐ Việt Nam điều chỉnh. Quan hệ việc
làm là quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực giải quyết, bảo đảm việc làm cho
người lao động trong xã hội. Trong quan hệ việc làm bao gồm các nhóm quan hệ sau:
Quan hệ việc làm giữa người lao động với người sử dụng lao động, quan hệ việc làm
giữa nhà nước với công dân, quan hệ việc làm giữa nhà nước với các đơn vị sử dụng
lao động, quan hệ việc làm giữa người lao động với các doanh nghiệp, tổ chức.
14
1.2.2.1. Quan hệ việc làm giữa người lao động với người sử dụng lao động:
Quan hệ việc làm giữa người lao động với người sử dụng lao động là đối tượng
điều chỉnh quan trọng nhất, chủ đạo nhất trong quan hệ pháp luật việc làm. Quan hệ
này được xác lập, duy trì, chấm dứt trên cơ sở của luật lao động. Trong mối quan hệ
giữa người sử dụng lao động và người lao động, người lao động phải tự mình thực
hiện công việc. Tự mình thực hiện công việc là tự mình thực hiện các hành vi cần
thiết để hoàn thành công việc. Theo Khoản 4 Điều 30 BLLĐ thì: “Công việc theo hợp
đồng lao động phải do người giao kết thực hiện, không được giao cho người khác nếu
không có sự đồng ý của người sử dụng lao động. Điều này thể hiện việc người lao
động phải bằng chính hành vi của mình, bằng thao tác của mình thực hiện công việc

mà không được chuyển giao nghĩa vụ đó cho người khác nếu không có sự đồng ý của
người lao động. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do: người lao động và người sử
dung lao động đã ký kết với nhau hợp đồng lao động, trong đó người lao động bán
sức lao động cho người sử dụng lao động mà sức lao động đó chỉ tồn tại trong bản
thân người lao động, không thể dịch chuyển cho người khác.
Ngoài ra, trong mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động,
người sử dụng lao động có quyền quản lý đối với người lao động. Người sử dụng lao
động có quyền quản lý với người lao động xuất phát từ vị thế giữa hai đối tượng này
là khác nhau: người sử dụng lao động nắm trong tay tài sản và tư liệu sản xuất nên họ
có quyền thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản của mình; họ là người mua sức lao
động của người lao động nên họ có quyền quản lý người lao động trong phạm vi pháp
luật cho phép đặc biệt là người lao động phải quản lý chính cơ sở của mình, giám sát
quá trình sản xuất để có thể đem lại lợi nhuận cao nhất. Có thể nói rằng trong quan hệ
việc làm, người sử dụng lao động có vị thế mạnh hơn người lao động, đây là nguyên
nhân mà nhà nước phải có những chính sách cụ thể nhằm đảm bảo công bằng và bảo
vệ lợi ích cho cả hai bên, tránh tình trạng lạm dụng sức lao động của người lao động.
Trong quan hệ việc làm, việc xác lập, duy trì, chấm dứt, quan hệ pháp luật giữa
người lao động và người sử dụng lao động, có sự tham gia của đại diện lao động. Đây
chính là đặc điểm đặc thù của quan hệ pháp luật việc làm với các quan hệ pháp luật
khác. Việc tham gia của đại diện lao động, đặc biệt là tổ chức công đoàn có ý nghĩa
15
quan trọng, vì yếu tố tập thể trong hoạt động của đại diện lao động là một trong
những bảo đảm tốt nhất cho người lao động có nhiều khả năng đạt được sự bình đẳng
thực tế với người sử dụng lao động.
1.2.2.2. Quan hệ việc làm giữa nhà nước với người lao động:
Trong quan hệ pháp luât việc làm, nhóm quan hệ giữa người lao động với nhà
nước cũng là một quan hệ cần quan tâm. Nhà nước là một chủ thể đặc biệt, Nhà nước
thông qua hệ thống các cơ quan chức năng, trong việc xác lập và thực hiện các chính
xác việc làm, với các công dân, tổ chức được hưởng các chính sách việc làm đó.
Trong mối quan hệ này, thực hiện chức năng quản lý hành chính, tham gia giải quyết

việc làm trực tiếp cho các công dân.
1.2.2.3 Quan hệ việc làm giữa nhà nước với các trung tâm giới thiệu việc làm,
các cơ sở dịch vụ việc làm với khách hàng:
Đây là quan hệ đặc trưng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi người lao
động gặp khó khăn khi tìm được việc làm hoặc người sử dụng lao động gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng, lúc này hình thành nên các trung tâm giới thiệu việc làm để
giải quyết các khó khăn đó. Trong phạm vi luật lao động, mối quan hệ được điều
chỉnh là mối quan hệ giữa trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước, các tổ chức xã
hội với người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức, cá nhân khác có nhu
cầu.
1.2.3. Nguyên tắc áp dụng của pháp luật việc làm:
Việc làm là vấn đề được quy định cụ thể qua pháp luật lao động, trong Bộ luật
lao động của Việt Nam có quy định rất rõ nét những nguyên tắc điều chỉnh quan hệ
pháp luật việc làm.
Pháp luật lao động tuy là một ngành luật có tính độc lập tuy nhiên nó vẫn nằm
trong hệ thống luật pháp của một quốc gia vì vậy pháp luật về việc làm nói riêng và
pháp luật lao động nói chung vẫn là những công cụ để nhà nước quản lý, điều hành
xã hội. Chính vì vậy mà pháp luật về việc làm cũng mang những nguyên tắc điều
chỉnh chung nhất cho một hệ thống các ngành luật. Ngoài ra, pháp luật về việc làm
cũng tồn tạo những nguyên tác đặc thù sau:
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền và nghĩa vụ lao động cho công dân. Việc
làm là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, trong các kỳ đại hội,
16
Đảng luôn nhấn mạnh vấn đề phải làm sao để có thể bảo đảm công việc ổn định cho
người lao động. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ XI, Đảng khẳng định: “Giải
quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy yếu tố con người, ổn định và phát
triển kinh tế, lành mạnh xã hội”. Nguyên tắc này cũng được BLLĐ thừa nhận như
sau: “ Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học
nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân
tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.”(Điều 5) Nguyên tắc này còn thể hiện là

một trong những nguyên tắc hiến định rất tiến bộ được quy định tại Điều 5 Hiến
pháp: “Lao động là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, điều này cũng hoàn
toàn phù hợp với nguyên tắc tự do việc làm của pháp luật lao động quốc tế. Bảo vệ
người lao động trước hết là bảo vệ việc làm cho người lao động. Vấn đề chính yếu
khi Nhà nước quy định ra vấn đề pháp lý này là làm sao cho người lao động được
thực hiện quyền lao động của mình và làm việc sao cho đúng công việc đã thỏa thuận
trong hợp đồng lao động.
Thứ hai, nguyên tắc cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao. Khoản 2 Điều 5
BLLĐ quy định: “Cấm ngược đãi người lao động, cấm cưỡng bức người lao động
dưới bất cứ hình thức nào”. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao
động không bị ép buộc làm những công việc trái ý muốn của người lao động hoặc
xâm phạm đến người lao động. Nhà nước đưa ra các chế tài áp dụng cho các trường
hợp vi phạm pháp luật lao động nhằm dành cho người lao động một môi trường làm
việc tốt nhất, an toàn nhất.
Thứ ba, nguyên tắc mọi công dân đều có quyền bình đẳng trong lĩnh vực việc
làm. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc Hiến định: “ Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật”, và được thể hiện thông qua Điều 5, 7,13 của BLLĐ. Nguyên
tắc này ghi nhận mọi công dân đều có quyền lựa chọn công việc theo nhu cầu và
năng lực của bản thân trong khuân khổ pháp luật cho phép. Theo đó, mọi công dân
đều có quyền bình đẳng về cơ hội có việc làm, được đối xử bình đẳng, không phân
biệt giới tính, tuổi tác, lĩnh vực nghề nghiệp... đều được tự do lựa chọn việc làm và
làm ở những điều kiện giống nhau thì hưởng chế độ đãi ngộ như nhau. Ngoài ra,
nguyên tắc này còn thể hiện thông qua sự bình đẳng trong việc ký kết hợp đồng lao
17
động giữa người sử dụng lao động và người lao động. Bình đẳng trong việc thỏa
thuận, chấm dứt thay đổi hợp đồng lao động
Thứ tư, nguyên tắc ưu đãi đối với một số đối tượng đặc thù. Nguyên tắc này thể
hiện tính nhân đạo của nhà nước đối với một số đối tượng người lao động nhất định.
Đó là những đối tượng không có cơ hội làm tất cả các công việc như những người lao
động khác do những nguyên nhân khách quan. Đó là những người có sự khác biệt với

những người lao động khác về giới tính, tuổi tác, tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh đặc
biệt như: phụ nữ, trẻ em, người tàn tật,... Đây là những đối tượng cần được Nhà nước
đặc biệt quan tâm nhằm tạo điều kiện cho họ những công việc phù hợp nhất, khắc
phục những yếu thế của họ để họ có cơ hội làm việc và hòa nhập với xã hội.
Thứ năm, nguyên tắc khuyên khích mọi hoạt động tạo ra việc làm và hỗ trợ tạo
việc làm. Khoản 3 Điều 5 BLLĐ quy định: “Mọi hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo
việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh
thu hút nhiều lao động đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc
giúp đỡ.” Nhà nước tạo ra việc làm và khuyến khích các hoạt động tạo ra việc làm.
Nhà nước có các biện pháp bảo đảm việc làm, đạo tạo người lao động, phát triển các
dự án, các khu kinh tế... nhằm bảo vệ, giúp đỡ, khai thác tiềm năng nhân lực quốc
gia.
1.2.4. Vai trò của pháp luật việc làm:
Việc làm là vấn đề rất quan trọng trong đời sống xã hội vì vậy những quy định
điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực việc làm cũng là bộ phận quan trọng trong hệ
thống pháp luật quốc gia.
Thứ nhất, pháp luật về việc làm đảm nhận vai trò chung của pháp luật, đó là sự
thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực lao động xã hội, là công cụ
pháp lý điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực tạo việc làm và giải quyết việc làm.
Pháp luật việc làm là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết thị trường lao động
thông qua các quy định về mức lương tối thiểu, về đào tạo nghề, về điều kiện người
lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam...
Thứ hai, pháp luật về việc làm là cơ sở pháp lý góp phần xác định quyền lợi của
các chủ thể tham gia vào lĩnh vực việc làm và trong quan hệ lao động. Pháp luật về
việc làm là khung pháp lý để mọi cá nhân, mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế đều
18
được bình đẳng trong lĩnh vực lao động. Mọi người lao động đều bình đẳng về cơ hội
làm việc, không bị phân biệt về dân tộc, giới tính, tôn giáo...hay bất cứ tiêu chí nghề
nghiệp nào khác. Đối với người sử dụng lao động có quyền tự do tuyển dụng lao
động, không bị hạn chế, không bị phân biêt đối xử đơn vị sử dụng lao động. Luật lao

động cũng điều chình lợi ích để đảm bảo hợp lý giữa lợi ích xã hội, lợi ích người lao
động và lợi ích người sử dụng lao động thông qua các quy định về vấn đề giải quyết
việc làm, hạn chế thất nghiệp, bảo vệ người lao động, nhất là lao động nữ, trẻ em,
người lao động tàn tât... Việc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong luật lao động tạo
điều kiện thuận lợi cho quan hệ pháp luật việc làm, tạo ra sự phát triển bền vững, ổn
định chính trị xã hội, giảm thiểu những tác động tiêu cực của nền kinh tế.
Thứ ba, pháp luật về việc làm là cơ sở pháp lý góp phần vào việc hợp quốc tế về
việc làm, giải quyết việc làm. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi nước ta đang
mở cửa nền kinh tế thì vấn đề việc làm càng trở nên cấp bách. Pháp luật về việc làm
không chỉ có vai trò điều tiết thị trường việc làm trong nước mà còn có vai trò quan
trọng trong việc hợp tác quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề về thất nghiệp và các tác
động tiêu cực lên nền kinh tế chung toàn cầu. Một hệ thống pháp luật vững chắc sẽ
tạo điều kiện cho việc tham gia vào các tổ chức lao động quốc tế trở nên dễ dàng hơn.
Thứ tư, pháp luật về việc làm là cơ sở pháp lý để xử lý các vi phạm và giải quyết
các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực việc làm. Luật về việc làm là căn cứ pháp lý để
đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ pháp luật việc làm, là căn cứ để
giải quyết các tranh chấp lao động và đình công nếu có.
19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
2.1. Pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm trước khi có BLLĐ năm
1994:
2.1.1. Thời kỳ 1945-1954:
Sau Cách mạng tháng Tám, trong tình trạng vừa thành lập vừa kháng chiến, Nhà
nước còn non trẻ và thiếu điều kiện để quan tâm đến tất cả các lĩnh vực xã hộị chính
vì vậy, vấn đề việc làm vẫn chưa có nhiều thay đổi đáng kể. Để đáp ứng nhu cầu hiện
tại, Chính phủ lâm thời đã cho phép tạm thời sử dụng các luật lệ cũ ở cả ba miền nếu
không trái với những quy định của chính phủ mới ( Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945).
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản mới thay thế cho các luật lệ cũ
không còn phù hợp với tình hình đất nước hiện tại như: Nghị định số 01 ngày
1/10/1945 quy định các điều kiện bảo đảm việc làm, bênh vực quyền lợi người lao

động, quy định thời hạn báo trước khi muốn thải hồi công nhân (1 tháng); Sắc lệnh số
58 ngày 10/11/1945 quy định về quyền được nghỉ không lương trong những trường
hợp cần thiết; Sắc lệnh số 54 ngày 31/11/1945 quy định về quyền nghỉ hưu của công
chức nhà nước; Sắc lệnh số 74 ngày 17/12/1945 quy định về quyền được nghỉ dài hạn
do mắc bệnh nan y... Nhưng văn bản pháp luật quan trọng nhất trong thời kỳ này
chính là Hiến pháp 1946 với các Điều 7, 9,13... liên quan đến vấn đề lao động như
quyền bình đẳng man nữ, quyền bình đẳng của công dân tham gia công cuộc kiến
quốc, quyền lợi của giới cần lao... Trên cơ sở Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật liên
quan đến việc làm ra đời như: Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh số 76/ SL
ngày 20/5/1950; Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950... Trong các văn bản trên, một số
vấn đề về việc làm đã được quy định như quy định về việc học nghề để tạo việc làm,
duy trì sự ổn định việc làm của người lao động.
Có thể nói, sau Hiến pháp 1946, văn bản pháp lý quan trọng nhất về vấn đề việc
làm trong giai đoạn này là Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947. Điều 1 Sắc lệnh quy
định: “ Trong toàn cõi Việt Nam những sự giao dịch về việc làm công, giữa các chủ
nhân, người Việt Nam hay người ngoại quốc và công nhân Việt Nam làm tại các
xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do”. Với 10 chương,
187 điều, Sắc lệnh số 29/ SL đã đặt nền móng cho việc xây dựng pháp luật lao động
20
sau này. Sắc lệnh đã có đầy đủ các quy định về: tuổi lao động, khế ước làm công, thời
gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, tiền công, nghỉ ốm đau, thai sản, phạt vi phạm,...
Sắc lệnh còn quy định việc người lao động đến tuổi lao động phải đi đăng ký lao
động, ghi tên vào sổ lao động để căn cứ vào tình hình lao động, Ủy ban có trách
nhiệm sắp xếp việc làm cho người lao động.
Sau Sắc lệnh 29/SL năm 1947, hệ thống các văn bản điều chỉnh chế độ lao động
của công chức nhà nước rất được quan tâm, rất nhiều văn bản pháp luật quy định về
quy chế tuyển dụng, quản lý và cho thôi việc...công chức; chế độ lương và phụ
cấp...được ban hành như: Sắc lệnh số 188/SL, số 261/SL năm 1948: Sắc lệnh số 76,
số 81, số 98 năm 1950...
Trong pháp luật thời kỳ này đã có nhiều tư tưởng tiến bộ về nền kinh tế nhiều

thành phần như: vấn đề học nghề, dịch vụ viêc làm, hoạt động công đoàn, thỏa ước
tập thể, mức lương tối thiểu, việc chia lãi... mà đáng chú ý nhất là việc tổ chức các
phòng giới thiệu công nhân tại Bộ lao động và các liên khu (Nghị định số 21 ngày
15/5/1948 của Bộ lao động, Thông tư số 02 ngày 18/5/1848 của Bộ lao động). Mục
đích thành lập của các phòng giới thiệu này là huy động nhân công cung cấp cho các
ngành sản xuất, vận tải, tiếp tế; tìm và giới thiệu việc làm cho thợ thuyền không công
ăn, việc làm; tổ chức các đoàn thợ cày, thợ cấy, thợ giặt, để đưa đến những vùng
khan hiếm nhân công công nghiệp... Một điểm tiến bộ trong giai đoạn này là việc các
văn bản pháp luật lao động đã có sự phân biệt hợp lý giữa công nhân giúp việc cho
Chính phủ và công nhân trong các xí nghiệp quốc gia (Sắc lệnh số 77/SL, số 98/SL
năm 1950; số 128/SL năm 1952).
Nhận xét:Giai đoạn 1945-1954 là giai đoạn pháp luật lao động mới dần được
hình thành, với cấp độ hiệu lực của văn bản pháp luật lao động chủ yếu là sắc lệnh
của Chủ tịch Chính phủ hoặc Chủ tịch nước. Có thể nói, các văn bản pháp luật về việc
làm đã chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, mặc dù với hoàn cảnh của đất nước lúc bấy
giờ chưa thể thực hiện một cách triệt để và còn mang nặng tư tưởng, chính sách tập
trung bao cấp, quy định trách nhiệm thuộc về Nhà nước trong việc sắp xếp việc làm và
nghĩa vụ của người lao động khai báo khi đến tuổi lao động.
21
2.1.2. Thời kỳ 1955-1985:
Đây là thời kỳ đất nước trải qua nhiều sự kiện lịch sử quan trọng chi phối đến
mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội:
Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước chia làm hai miền Nam Bắc, miền Bắc đi
lên con đường chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ. Trong
giai đoạn này, nền kinh tế - xã hội đất nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, cơ chế kinh
tế tập trung, bao cấp vì vậy, pháp luật về việc làm chủ yếu điều chỉnh quan hệ lao
động trong khu vực nhà nước, phục vụ cho công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước
và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khác với giai đoạn trước (văn bản pháp luật chủ yếu
do Chủ tịch Chính Phủ hoặc Chủ tịch nước ban hành) thì ở giai đoạn này đã có văn
bản pháp luật về lao động do Quốc hội ban hành như Luật Công đoàn năm 1957. Đặc

biệt, Hiến pháp 1950 ra đời là văn bản pháp lý quan trọng nhất giai đoạn này, lần đầu
tiên ghi nhận về quyền có việc là của công dân và quyền này được bảo vệ bởi trách
nhiệm tạo việc làm của nhà nước. Hiến pháp đã dành nhiều điều quy định về các
nguyên tắc chung trong lĩnh vực lao động như quyền lao động của công dân, lao động
riêng lẻ, công nhân viên chức nhà nước, vấn đề mở rộng việc làm, cải thiện điều kiện
lao động, tiền lương...(điều 15, 21, 30, 31, 32, 39..). Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
thời kỳ này có nhiều bước tiến, số lượng các văn bản pháp luật về vấn đề việc làm
tăng đáng kể với nhiều nội dung khác nhau. Các văn bản này được các cơ quan hành
pháp ban hành, chủ yếu dưới dạng Nghị định, thông tư như: Nghị định số 182/CP
ngày 18/12/1960 quy định về bảo hộ lao động, Nghị định sô 218/CP ngày 27/12/1961
quy định về bảo hiểm xã hội, Nghị định số 24/CP ngày 13/3/1963 về việc tuyển dụng
và cho thôi việc đối với công nhân viên chức nhà nước, Nghị định số 172/CP ngày
21/11/1963 quy định kí kết hợp đồng lao động tập thể trong các xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh... Ban hành kèm theo với một số nghị định là các bản Điều lệ khá
quan trọng như: Điều lệ tạm thời về tuyển dụng và cho thôi việc đối với công nhân
viên chức nhà nước (ban hành kèm theo định số 24/CP ngày 13/3/1963); Điều lệ xí
nghiệp quốc doanh (ban hành kèm theo Nghị định 93/CP ngày 8/4/1977)...
Mục tiêu của chế độ pháp lý thời kỳ này hướng đến là phục vụ cho công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa, quốc doanh hóa, tập thể hóa nền kinh tế. Chính vì vậy mà
tinh thần của pháp luật việc làm thời kỳ này là đề cao hình thức sở hữu công, tập
22
trung cao độ nền kinh tế hoạch hóa tập trung và chỉ coi những người trong biên chế
nhà nước mới là những người có việc làm nghiêm chỉnh. Pháp luật không thừa nhận
việc sức lao động là hàng hóa, không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thị trường lao
động, phá sản, cạnh tranh và quyền tự do kinh doanh của công dân. Người lao động
đến tuổi lao động là phải đăng ký lao động để Nhà nước sắp xếp công việc. Xuất
phát từ quan điểm trên nên các văn bản pháp luật thời kỳ này chủ yếu quy định về
người lao động là công viên chức nhà nước như vấn đề sắp xếp việc làm, vấn đề
tuyển dụng, cho thôi việc công nhân viên chức nhà nước, bảo hiểm xã hội cho công
nhân viên chức nhà nước (một chính sách ưu đãi và đặc quyền cho lao động biên chế

nhà nước)... Các quy định thời gian này đã khiến cho các xí nghiệp, nhà máy, các đơn
vị sử dụng lao động trở nên bị động trong việc tìm nhân công, còn đối với nhà nước
do phải tạo việc làm cho người lao động mà trách nhiệm trở nên nặng nề, dẫn đến
tình trạng quan liêu bao cấp.
Năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi, giải phóng miền Nam,
đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này,
cơ chế tập trung bao cấp càng trở nên sâu sắc, tác động đến mọi hoạt động của nền
kinh tế xã hội nước ta, nhà nước tham gia này càng sâu rộng vào đời sống người dân,
điều đó đã khiến cho pháp luật về việc làm đã có thay đổi đáng kể. Điều phải kể đến
đầu tiên trong giai đoạn 1875 -1985 là Hiến pháp 1980 được thông qua. Bản Hiến
pháp tiếp tục khẳng định về quyền có việc làm của nười làm của người lao động, tiếp
tục ghi nhận các nguyên tắc về lao động của Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1980 cũng
quy định một số nội dung tiến bộ như các quy định về chế độ lao động của công nhân
viên chức nhà nước, địa vị của tổ chức công đoàn... Điều 58 Hiến pháp 1980 quy
định “Lao động là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của công dân. Công dân có
quyền có việc làm. Người có sức lao động phải lao động theo quy định của pháp luật.
Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa mà tạo thêm việc làm, sắp
xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá nhân và yêu cầu của xã hội, nâng
cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động, không ngừng cải điều kiện làm
việc của người lao động chân tay và lao động trí óc...”. Quy định này đã bao gồm khá
nhiều nội dung tiến bộ như: ghi nhận lao động vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của
công dân; quy định về vấn đề bồi dưỡng lao động, chia lao động thành lao động chân
23
tay và lao động trí óc...tuy nhiên trong đó vẫn còn nhiều vấn đề mang tính chất chủ
quan duy ý trí, mang nặng tư duy quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung như:
công nhận “công dân có quyền có việc làm”. Đây là quy định thể hiện rõ nét tâm lý
nóng vội, muốn mau chóng trở thành chủ nghĩa xã hội mà không tính đến hoàn cảnh
đất nước giai đoạn này.
Sau Hiến pháp năm 1980, một số quy định về lao động có sự thay đổi: mở rộng
quyền tự chủ cho người sử dụng lao động, các xí nghiệp quốc doanh (Quyết định số

25/CP ngày 2o/1/1981), mở rộng chế độ lương khoán sản phẩm đối với công nhân
(Quyết định số 26/CP ngày 21/1/1981)... Các quy định thời kỳ này đều thể hiện một
nền kinh tế tập trung, bao cấp của nhà nước, nhiều thể chế pháp lý về mở rộng quyền
tự do kinh doanh, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo việc làm chưa
được xác lập đồng bộ. Điều này đã cản trở sự phát triển kinh tế, khiến cho nền kinh tế
quốc gia lâm vào tình trạng khủng hoảng. Đến năm 1985, Nhà nước đã có những thay
đổi nhất định để có thể cải thiện tình hình kinh tế trong lĩnh vực việc làm. Nhà nước
đã tiến hành cải cách tiền lương, sửa đổi một số chính sách về bảo hiểm xã hội, phụ
cấp chênh lệch giá, phụ nữ có chế độ bảo hiểm thai sản, tranh chấp lao động cũng
được chú trọng hơn....(Nghị định số 235/HĐBT, số 236/HĐBT, Quyết định số
308/CT năm 1985, Quyết định số 121/HĐBT ngày 19/4/1985; Quyết định số
10/HĐBT và Thông tư số 02/TT-LN ngày 02/10/1985)... Đặc biệt, trong thời kỳ này,
Việt Nam bước đâu đã có những hợp tác nhất định với các quốc gia trên thế giới
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa về vấn đề việc làm.
Nhận xét: pháp luật về việc làm trong giai đoạn này bị chi phối sâu sắc bởi cơ
chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp dựa trên hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc
doanh và tập thể nên các quy định phần lớn điều chỉnh quan hệ việc làm trong khuân
khổ nhà nước, phục vụ chiến tranh và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, hệ
quả tất yếu là dẫn đến tình trạng nền kinh tế chậm phát triển, pháp luật còn nhiều hạn
chế và không hiệu quả trong việc áp dụng, khiến cho cuối thời kỳ này pháp luật phải
thường xuyên cải cách, chắp vá, chồng chéo, tản mạn.
2.1.3. Thời kỳ l986 đến trước khi có Bộ luật lao động 1994:
Trước sự khủng hoảng của nền kinh tế đất nước, cần có sự thay đổi toàn diện
nhằm khắc phục khó khăn để đưa đất nước tiến lên nền kinh tế thị trường. Để làm
24
được điều đó, trước hết pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về việc nói riêng
đã tiến hành đổi mới toàn diện và phát triển theo hướng điều tiết nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước Đại hội lần VI, vấn đề việc làm là một vấn đề đặc biệt gay gắt, các khu
vưc kinh tế hầu như không phát triển, người lao động không có việc làm, cuộc sống

trở nên túng quẫn, khó khăn. Để khắc phục tình trạng này, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Có
thể nói, Đại hội lần thứ VI này là bước ngoặt lịch sử quan trọng của đất nước ta trên
mọi phương diện kinh tế - xã hội. Cũng như nhiều vấn đề khác, quan điểm của Đảng
về vấn đề việc làm cũng theo đó mà có những thay đổi đáng kể. Đại hội đã phân tích,
đánh giá thực trạng của đất nước, nhìn thẳng vào những khuyết điểm, chỉ rõ những
sai lầm, thiếu sót, trên cơ sở đó đưa ra những chính sách việc làm phù hợp nhằm phát
huy hiệu quả và triệt để nguồn nhân lực quý giá của đất nước. Phương hướng quan
trọng nhất để giải quyết việc làm trong thời gian này là xóa bỏ nền kinh tế tập trung
bao cấp, thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất và
dịch vụ; kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ với phân công lại lao động theo
vùng, theo lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới, mở rộng thi trường, đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu lao động; ghi nhận giải quyết việc làm cho lao động là trách
nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mỗi đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế và nhân dân
đều có chương trình để giải quyết việc làm.
Thể theo phương hướng chủ đạo này của Đảng, hàng loạt các văn bản pháp lý
quan trọng về vấn đề việc làm đã được ban hành như:
- Quyết định số 21/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng ban hành
Bản quy định về đổi mới kế hoạch và hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với
xí nghiệp quốc doanh, trong đó đề cập đến việc chuyển dần từng bước chế độ tuyển
dụng vào biên chế nhà nước sang chế độ hợp đồng lao động. Có thể nói đây là văn
bản pháp lý mở đường cho chế độ “hợp đồng lao động” được áp dụng rộng rãi trong
các đơn vị kinh doanh.
- Pháp lệnh Hơp đồng lao động ngày 30/8/1990 của Hội đồng nhà nước trong đó
quy định về hợp đồng lao động được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân thuộc các
25

×