Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

báo cáo khảo sát thực trạng quản lý sản xuất gạo cở cu ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.42 KB, 29 trang )

Phaàn th öù 1
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA VIỆT NAM
VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NÔNG NGHIỆP
PGS. TS VŨ TRỌNG KHẢI
I. Giai đoạn trước đổi mới (Từ 1954
đến 1980).
1. Bối cảnh kinh tế-xã hội trong và
ngoài nước.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ, từ năm 1954 đến năm 1975, miền
Bắc Việt Nam trở thành hậu phương lớn
cho chiến trường miền Nam trong suốt
thời kỳ từ năm 1954 đến 1975. Việt Nam
đã nhận được sự giúp đỡ nhiều mặt của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội
chủ nghĩa anh em, chủ yếu là lương thực-
thực phẩm và các loại phương tiện chiến
tranh. Mục tiêu của sản xuất nông nghiệp
thời kỳ này là sản xuất ra thật nhiều sản
phẩm phục vụ nhu cầu tại chỗ và cung
cấp cho chiến trường.
Sau đại thắng mùa xuân năm
1975, hòa bình và thống nhất nước nhà
đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phục
hồi kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên,
cũng chính giai đoạn này, các chính sách
phát triển kinh tế-xã hội cũng như cơ chế
quản lý kinh tế thời chiến không còn phù
hợp. Bên cạnh đó, nguồn viện trợ của
các nước XHCN ngày càng ít đi do bản
thân Liên Xô và các nước Đông Âu cũng


gặp phải rất nhiều khó khăn. Đến cuối
những năm 70, kinh tế Việt Nam không
thể cân đối được thu-chi ngân sách,
không cân đối được cung-cầu lương
thực, đời sống của đại bộ phận dân cư ở
dưới mức nghèo đói.
2. Thực trạng cơ chế quản lý kinh tế
Trong suốt 30 năm liền, Việt
Nam thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp theo mô
hình của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em:
- Nhà nước quản lý và quy định
giá cung cấp đầu vào (phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, thuốc và vật tư thú y,
xăng dầu, máy móc …) và đầu ra (các
loại sản phẩm, trong đó có nông sản);
- Tất cả các cơ sở kinh tế đều sản
xuất theo kế hoạch do nhà nước giao;
- Không cho phép phát triển kinh
tế tư nhân trên quy mô lớn. Chỉ cho phép
các cơ sở tư nhân trong lĩnh vực tiểu thủ
công nghiệp nhỏ lẻ, sản xuất các mặt
hàng tiêu thụ trên thị trường địa phương.
Trong nông nghiệp, chỉ cho phép phát
triển kinh tế phụ gia đình xã viên trên
diện tích đất 5% tổng quỹ đất của hợp
tác xã.
Giai đoạn này ở Việt Nam lưu
truyền các thuật ngữ “bán như cho, mua

như cướp” và “ngăn sông, cấm chợ”.
17
3. Tổ chức sản xuất nông nghiệp.
Nông lâm trường quốc doanh và
hợp tác xã nông nghiệp, đều dựa trên chế
độ công hữu về ruộng đất và các tư liệu
sản xuất khác, là hai lực lượng chính của
ngành nông nghiệp:
Việc sản xuất và bán nông sản
theo kế hoạch nhà nước giao, được các
doanh nghiệp nhà nước cung ứng vật tư,
máy móc … và thu mua sản phẩm theo
giá nhà nước quy định. Tuy nhiên, trên
thực tế, vẫn có hệ thống chợ nông thôn
phục vụ việc trao đổi hàng hóa do kinh
tế phụ của các hộ xã viên làm ra (trên đất
5% của các gia đình).
Về bản chất: Mô hình kinh tế Việt Nam
thời kỳ này thực chất là “Nhà nước hóa
nền kinh tế, nhà nước làm kinh tế để
nuôi dân chứ không phải dân làm kinh tế
để đóng thuế nuôi nhà nước; cả đất
nước là một doanh nghiệp duy nhất,
chính quyền các cấp vừa là chủ sở hữu
vừa là giám đốc điều hành hoạt động
sản xuất-kinh doanh”. Các nông trường
quốc doanh và hợp tác xã chỉ là đơn vị
sản xuất cơ sở, hoàn toàn không có
quyền tự chủ trong sản xuất-kinh doanh,
không chịu trách nhiệm về lãi-lỗ, hiệu

quả kinh tế.
Hậu quả : Năng suất cây trồng, vật nuôi,
năng suất lao động thấp, người lao động
không tích cực lao động. Hàng năm Việt
Nam phải nhập khẩu hàng trăm ngàn tấn
lượng thực (gạo, bột mỳ), có năm phải
nhập khẩu đến 1 triệu tấn (năm 1939 với
20 triệu dân, Việt Nam đã xuất khẩu
được 1,5 triệu tấn gạo). Hiệu quả kinh
doanh của mỗi tổ chức kinh tế, mỗi loại
nông sản không thể tính toán được; tệ
quan liêu, tham nhũng, thị trường chợ
đen bất hợp pháp phát triển tràn lan,
không ngăn chặn được.
II. Giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế (từ năm 1981 đến nay).
1. Bối cảnh kinh tế trong, ngoài nước và
đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam.
1.1. Bối cảnh trong và ngoài nước.
Các nước XHCN và Liên Xô đi
vào thời kỳ suy thoái nghiêm trọng rồi
sụp đổ, Việt Nam không còn nguồn viện
trợ và thị trường truyền thống, lại nằm
trong tình trạng bị cấm vận quốc tế và
chưa bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc. Công cuộc cải cách kinh tế đã bắt
đầu ở Trung Quốc với việc xoá bỏ công
xã nhân dân và khoán sản phẩm đến hộ,
đem lại kết quả đáng khích lệ.
Việt Nam khi bắt đầu đổi mới

nằm trong tình trạng khủng hoảng. Các
quan hệ thu-chi của chính phủ, xuất-
nhập, cung-cầu, dự trữ ngoại hối, lương
thực đều mất cân đối nghiêm trọng.
Trong nông nghiệp, cuộc Cách mạng
Xanh bắt đầu từ thập kỷ 1960 đã chuẩn
bị sẵn các tiến bộ kỹ thuật trên nhiều
vùng. Tuy nhiên, các thành quả này chưa
được phát huy trong sản xuất trên quy
mô rộng.
Chính bối cảnh hết sức khó khăn
này đã buộc Việt Nam phải đổi mới thể
chế quản lý kinh tế; khẩu hiệu: “đổi mới
hay là chết” thay cho “độc lập hay là
chết”. Cán bộ, nhân dân nhiều nơi đã
chủ động tìm kiếm và thử nghiệm các
chính sách kinh tế và mô hình quản lý
mới. Thành công của các yếu tố mới nảy
18
sinh đem lại cho Đảng những gợi ý quan
trọng để bắt đầu một quá trình đổi mới
cơ chế kinh tế toàn diện, sâu sắc.
1.2. Đặc điểm của nông nghiệp.
Đến đầu những năm 1980 ngành
nông nghiệp Việt Nam chiếm tới trên
75% lực lượng lao động xã hội và trên
80% dân số. Yêu cầu đổi mới ngành
nông nghiệp được đặt ra hết sức bức
bách. Đặc điểm chính của nông nghiệp
Việt Nam có thể khái quát như sau:

- Bình quân ruộng đất trên đầu
người thấp, khoảng 1600 m
2
/
nhân khẩu
nông nghiệp, ruộng đất lại manh mún,
phân tán;
- Quy mô sản xuất của một đơn vị
hợp tác xã và nông-lâm trường quốc doanh
lớn nhưng quy mô sản xuất của một hộ gia
đình nông dân lại quá nhỏ (0,8ha/hộ);
- Thực tế chứng minh sản xuất
nông nghiệp đa dạng theo mô hình VAC
(V: vegetation; A: aquaculture; C: cage)
hiệu quả hơn chuyên môn hóa, độc canh.
Do vậy, các chỉ tiêu hiệu quả kinh
tế ngành nông nghiệp được xem xét theo
thứ tự ưu tiên sau:
1- Doanh số, thu nhập, sản lượng
thu hoạch trên 1ha đất nông nghiệp (để
đánh giá mỗi ha nuôi được bao nhiêu
người, tạo công ăn việc làm cho bao
nhiêu lao động);
2- Năng suất cây trồng và vật
nuôi;
3- Năng suất lao động (thu
nhập/lao động, sản lượng sản xuất/lao
động);
4- Thu nhập và lợi nhuận trên 1
đồng vốn đầu tư, vốn chủ sở hữu.

Quá trình đổi mới quản lý nông
nghiệp Việt Nam có thể được chia thành
hai giai đoạn: “Tiền đổi mới” và “Đổi
mới”.
2. Thời kỳ “tiền đổi mới” (1981-1985).
Đứng trước yêu cầu phải tự thay
đổi để tồn tại và phát triển, nền kinh tế
Việt Nam nói chung và ngành nông
nghiệp nói riêng đã thực hiện những đổi
mới quản lý mang tính đột phá bằng các
chính sách cụ thể như sau:
- Chỉ thị 100 của Ban bí thư trung
ương Đảng về khoán sản phẩm cuối
cùng cho nhóm và người lao động (thực
chất là khoán cho hộ xã viên) tháng 01
năm 1981. Đây là văn bản mang tính chủ
trương lớn có tác động tích cực làm thay
đổi lối làm ăn tập thể kém hiệu quả của
các hợp tác xã nông nghiệp, gắn một
phần quyền lợi của xã viên với kết quả
sản xuất cuối cùng.
- Nghị quyết 217/HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng về “Mở rộng quyền tự
chủ cho các đơn vị kinh tế cơ sở là các
doanh nghiệp nhà nước”, trong đó có các
nông-lâm trường quốc doanh. Điều đó
đã bước đầu tạo ra động lực khuyến
khích và điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp chủ động thực hiện các hoạt động
sản xuất-kinh doanh, gắn quyền lợi của

người lao động với hiệu quả kinh tế cuối
cùng.
- Nghị quyết 25 CP của Chính
phủ về giao kế hoạch 3 phần, bao gồm:
Kế hoạch A, Kế hoạch B và Kế hoạch C.
Cơ chế quản lý mới này đã cho phép
doanh nghiệp, hợp tác xã được sử dụng
một phần lợi nhuận (thuộc kế hoạch B và
19
C) để tái đầu tư mở rộng và cải thiện đời
sống của người lao động, nhờ đó khuyến
khích người lao động tăng năng suất và
chất lượng công việc.
Nhờ vậy, nền kinh tế nói chung,
nông nghiệp nói riêng bước đầu giải
quyết được những khó khăn trước mắt.
Tuy nhiên, việc đổi mới quản lý kinh tế
nói chung và quản lý nông nghiệp nói
riêng chưa căn bản và toàn diện.
3. Thời kỳ đổi mới.
Đây là giai đoạn tạo bước chuyển
rõ rệt về cơ chế quản lý trên toàn bộ nền
kinh tế và kinh tế nông nghiệp Việt nam.
Mốc lịch sử quan trọng nhất là Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 6 tháng 12 năm
1986. Tại Đại hội này, Đảng cộng sản
Việt Nam đã quyết định con đường phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

* Nội dung đổi mới.
Thương mại hóa việc cung ứng
các nguồn lực đầu vào, kể cả tín dụng,
ngoại tệ và bán sản phẩm, trong đó có
nông sản, theo lộ trình từng bước, xóa bỏ
tình trạng “mua như cướp, bán như cho”
và “ngăn sông, cấm chợ”. Việc đổi mới
chính sách vĩ mô đi đôi với thay đổi căn
bản cơ chế quản lý đối với tất cả các loại
hình tổ chức kinh tế như doanh nghiệp,
hợp tác xã… với mục tiêu khuyến khích
tất cả các thành phần kinh tế tham gia
sản xuất-kinh doanh, làm ra nhiều của
cải vật chất cho xã hội. Quá trình đổi
mới quản lý từ năm 1986 đến nay, có thể
được chia thành 2 giai đoạn, cụ thể như
sau:
3.1. Giai đoạn “cởi trói” để thoát khỏi
những khó khăn trước mắt (Từ 1986-1994).
Đứng trước những khó khăn
chồng chất của nền kinh tế, dựa trên
những thành công bước đầu của việc cải
tiến cơ chế quản lý kinh tế trong nông
nghiệp, Đảng cộng sản và nhà nước Việt
Nam đã có những quyết định đúng đắn
để tháo gỡ những nút thắt đã làm trì trệ
nền kinh tế nói chung và nông nghiệp
nói riêng.
- Nghị quyết 10 của Bộ chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam tháng 4 năm

1988 “Về đổi mới quản lý nông nghiệp”
thừa nhận hộ nông dân xã viên là đơn vị
sản xuất nông nghiệp tự chủ, có toàn
quyền chủ động trong quản lý sản xuất.
Có thể nói đây là sự thay đổi căn bản về
đường lối lãnh đạo kinh tế nông nghiệp
Việt Nam của Đảng, được ví như việc
cởi bỏ1 nút thắt quan trọng của sợi dây
trói (là cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp), giải thoát cho lực lượng sản xuất.
Do vậy, ngay năm sau (1989) Việt Nam
sau 50 năm (kể từ 1939) lần đầu tiên đã
xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo.
- Chính phủ cho phép thương mại
hóa rộng rãi hơn quan hệ mua bán vật tư,
máy móc, nhiên liệu và sản phẩm nông
nghiệp. Nhờ cơ chế thương mại cởi mở,
các doanh nghiệp và HTX đã có thể chủ
động trong việc chọn mua các loại nguồn
lực đầu vào với mức giá tốt nhất, đồng
thời bán được sản phẩm theo giá gần với
giá trị thực nhất. Cũng do thương mại hóa
đầu vào-đầu ra của sản xuất, các chủ thể
kinh tế đã có thể hạch toán tương đối đầy
đủ hiệu quả sản xuất-kinh doanh trên cơ
sở giá cả thị trường.
20
- Luật đất đai ban hành năm 1993
đã giao quyền sử dụng ruộng đất có hạn
điền và có thời hạn cho hộ nông dân và

thừa nhận quyền chuyển nhượng, thừa
kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Người
nông dân được chủ động sản xuất trên
mảnh ruộng của mình theo định hướng
của nhà nước. Họ kiểm soát được toàn
bộ quá trình sản xuất mang tính sinh học
của cây trồng-vật nuôi và nhờ đó nâng
cao được thu nhập, cải thiện cuộc sống
cho bản thân và gia đình.
Chỉ trong 2 năm 1990 và 1991,
lần lượt các nước XHCN Đông Âu và
Liên xô bị tan rã hoặc thay đổi thể chế
chính trị. Điều đó đồng nghĩa với việc
Việt Nam bị cắt hoàn toàn nguồn viện
trợ từ bên ngoài và các thị trường sản
phẩm xuất khẩu truyền thống (thuộc khu
vực Hội đồng tương trợ kinh tế) bị mất
hoặc chỉ còn một phần nhỏ, nguồn cung
ứng vật tư phục vụ sản xuất cũng gần
như không còn nữa. Đứng trước nguy cơ
khủng hoảng nghiêm trọng nền kinh tế,
Đảng và Nhà nước đã kiên định chủ
trương đổi mới quản lý kinh tế và thực
hiện các giải pháp quyết liệt hơn:
- Từng bước hội nhập với kinh tế
thế giới, mở cửa nền kinh tế, đón nhận đầu
tư nước ngoài (Ban hành Luật đầu tư nước
ngoài ban hành lần đầu năm 1989);
- Xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường nhiều thành phần theo định

hướng XHCN (Ban hành Luật công ty
và doanh nghiệp tư nhân năm 1993, Luật
doanh nghiệp nhà nước năm 1995);
Nhờ vậy, Việt Nam từ một nước
phải nhập khẩu lương thực thì từ năm
1989 đã bắt đầu có gạo xuất khẩu (năm
1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn và liên tục
xuất khẩu gạo cho đến nay, năm 2010
xuất khẩu 6,2 triệu tấn), đời sống của
mọi tầng lớp dân cư được nâng cao rõ
rệt. Liên tục nhiều năm, tăng trưởng
nông nghiệp đạt mức 4,3%/năm, thuỷ
sản 5%/năm. Các mặt hàng thuỷ sản, cây
công nghiệp, cây ăn quả cũng phát
triển với quy mô ngày càng lớn. Trong
lâm nghiệp, rừng tự nhiên được tăng
cường bảo vệ, bắt đầu chuyển sang lâm
nghiệp xã hội và khuyến khích trồng
rừng. Các chủ trương và giải pháp này
đã tạo nên động lực quan trọng, cho
phép nông dân huy động nội lực, áp
dụng tiến bộ KHKT và cơ sở vật chất
sẵn có, đưa sản xuất tiến lên.
Mặc dù vậy, nền kinh tế nói
chung và nền nông nghiệp nói riêng, vẫn
còn những hạn chế như:
- Phát triển chưa vững chắc,
không bảo vệ được môi trường;
- Phát triển nông nghiệp vẫn theo
chiều rộng, dưa trên việc khai thác tài

nguyên, sức lao động cơ bắp, giá rẻ, xuất
khẩu nông sản thô;
Điều kiện để “cởi trói” thành công:
Lãnh đạo phải dũng cảm thừa nhận sự
thật và thực sự có khát vọng đưa đất
nước phát triển để đổi mới tư duy và
“cởi trói” cho người dân và doanh
nghiệp, hợp tác xã.
3.2. Giai đoạn xây dựng và thực hiện cơ
chế quản lý mới để thúc đẩy phát triển
theo chiều sâu (có thể lấy mốc từ 1995
đến nay).
3.2.1. Về chính sách:
Chính phủ đã ban hành nhiều
21
chính sách mới:
- Năm 1995 Chính phủ ban hành
Nghị định số 01/CP về giao khoán đất
nông, lâm nghiệp, vườn cây, đàn gia súc,
mặt nước nuôi thủy sản cho người lao
động trong các nông-lâm trường quốc
doanh;
- Năm 1996 Quốc hội ban hành
Luật Hợp tác xã, đến năm 2003 Luật này
được sửa đổi bổ sung, theo các nguyên
tắc của Liên minh hợp tác xã thế giới;
- Năm 2000 Ban chấp hành Trung
ương Đảng ban hành Nghị quyết 09 đề
ra các nội dung chính sách mở rộng thị
trường;

- Năm 2000 Luật doanh nghiệp do
Quốc hội ban hành có hiệu lực, thống nhất
2 Luật: Luật doanh nghiệp nhà nước và
Luật công ty, doanh nghiệp tư nhân;
- Năm 2003 Quốc hội ban hành
Luật đầu tư: Thống nhất Luật đầu tư
trong nước và Luật đầu tư nước ngoài;
- Năm 2002 Thủ tưởng chính phủ
ra Quyết định 80/QĐ-TTg khuyến khích
tiêu thụ nông sản theo hợp đồng kinh tế.
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX năm 2001 đề ra nhiệm vụ đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn, thể hiện cụ thể ở
Nghị quyết Trung ương 5 khóa 9;
- Năm 2004 Chính phủ ban hành 2
Nghị định số 170/2004/NĐ-CP và
200/2004/NĐ-CP về đổi mới cơ chế quản
lý nông trường, lâm trường quốc doanh;
- Đặc biệt, năm 2005 Chính phủ
ban hành Nghị định số 135/2005/NĐ-CP
về hoàn thiện các hình thức khoán trong
doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước,
thay thế nghị định 01/CP năm 1995.
Nghị định 01/CP năm 1995 và Nghị định
135/2005/NĐ-CP đã tái lập trang trại gia
đình trong lòng các doanh nghiệp nông
nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp
nông nghiệp nhà nước chuyển sang làm
dịch vụ đầu vào-đầu ra cho các trang trại

gia đình.
- Người lao động trong nông-
lâm trường quốc doanh được giao khoán
toàn bộ việc kiểm soát quá trình sinh học
của cây trồng-vật nuôi, họ chủ động đầu
tư thêm tiền vốn và sức lao động để tăng
năng suất và chất lượng sản phẩm; Lợi
ích của người nhận khoán phụ thuộc trực
tiếp vào kết quả, hiệu quả cuối cùng của
quá trình sản xuất nông nghiệp mang
tính sinh học.
- Năm 1996 Quốc hội ban hành
Luật HTX: HTX trong nông nghiệp, từ
chỗ tổ chức sản xuất tập thể chuyển sang
làm dịch vụ phục vụ sản xuất. Không
còn tình trạng “đánh trống ghi tên” trong
tổ chức lao động ở các HTX nông
nghiệp như trước đây. Xã viên hoàn toàn
chủ động sản xuất trên mảnh ruộng
thuộc quyền sử dụng của mình và mua
vật tư, dịch vụ của HTX dựa trên quan
hệ thị trường, tự nguyện, bình đẳng. Lợi
ích của hộ xã viên trực tiếp phụ thuộc
vào kết quả và hiệu quả cuối cùng của
quá trình sản xuất nông nghiệp mang
tính sinh học;
- Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực
từ năm 2000 thừa nhận và tôn trọng quyền
tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, hộ cá thể, doanh nghiệp

dân doanh. Nền kinh tế dựa trên chế độ đa
sở hữu với nhiều loại hình doanh nghiệp:
22
Doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Các
doanh nghiệp được đối xử bình đẳng trước
pháp luật và được kinh doanh những gì
mà pháp luật không cấm, chứ không phải
luật pháp cho phép;
- Chính sách mở rộng thị trường
và tạo điều kiện sử dụng rộng rãi quan
hệ hàng hóa-tiền tệ và tự do hóa thương
mại nên đã chấm dứt tình trạng khan
hiếm vật tư, máy móc, xăng dầu trên thị
trường; người nông dân cũng như doanh
nghiệp, hợp tác xã có nhiều lựa chọn
trong việc mua các nguồn lực đầu vào
phục vụ sản xuất cũng như có quyền bán
sản phẩm làm ra theo mức giá thỏa thuận
trên thị trường;
Như vậy Việt Nam đã xây dựng
và đang từng bước hoàn chỉnh cơ chế
quản lý kinh tế thị trường nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa đón
nhận đầu tư nước ngoài.
3.2.2. Những kết quả đạt được và hạn
chế:
- GDP toàn ngành nông nghiệp đã
giảm từ hơn 50% xuống còn trên dưới

20% vào năm 2010, nhưng giá trị sản
phẩm nông nghiệp đã tăng trên 5 lần; tốc
độ tăng trưởng cao, luôn giữ ở mức từ 4
đến 5%/năm trong suốt hơn hai thập kỷ
qua, mặc dù toàn nền kinh tế bị ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á
năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu năm 2008;
Tỷ trọng của nông nghiệp Việt Nam trong tổng GDP
23
Tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1988-2005

- Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm
và thủy sản luôn đạt mức tăng trưởng
cao từ 15 đến 20%/năm, từ mức vài tỷ
USD lên trên 12 tỷ USD năm 2010;
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm
thuỷ sản tăng nhanh, năm 2004 đạt gần 7
tỷ USD, tăng 48% so với năm 2001 và
đến năm 2010 đạt khoảng 12 tỷ USD.
Những mặt hàng có giá trị xuất khẩu như
gạo, hồ tiêu, cà phê, cao su, đồ gỗ chế
biến không ngừng được nâng cao chất
lượng.
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp -
nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng dịch vụ và chăn nuôi, thủy
sản. Công nghiệp chế biến nông lâm sản
phát triển với tốc độ trung bình 12
-14%/năm, tập trung vào chế biến rau

quả, chế biến gỗ. Ngành nghề nông thôn
tăng trưởng bình quân 15%/năm. Hiện
cả nước có khoảng gần 3000 làng nghề
với khoảng 1,4 triệu cơ sở, thu hút trên
10 triệu người lao động, góp phần quan
trọng giải quyết việc làm trong khu vực
nông thôn.
Tuy nhiên, nhược điểm của thời
kỳ này là tăng trưởng sản xuất chủ yếu
vẫn theo chiều rộng, chi phí sản xuất còn
cao, hiệu quả sản xuất thấp, kém bền
vững và sản xuất nông nghiệp vẫn dựa
vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu sản
phẩm thô.
Điều kiện để thiết lập và vận hành cơ
chế quản lý thúc đẩy phát triển: Lòng
dũng cảm đổi mới tư duy và trí tuệ để
thiết lập và vận hành cơ chế quản lý kinh
24
tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và để thực hiện lộ trình đổi mới
hợp lý, không gây đổ vỡ và tránh gây
“shock”.
4. Bài học chung về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế.
- Thừa nhận và tôn trọng các quy
luật vận hành nền kinh tế hàng hóa. Có
thể nói đây là sự đổi mới tư duy ở tầm vĩ
mô, có tính chất quyết định tạo tiền đề
cho phát triển kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần. Chỉ có thừa nhận và tôn
trọng các quy luật kinh tế khách quan
mới giúp tạo động lực cho các chủ thể
kinh tế thực sự quan tâm đến hiệu quả
kinh doanh. Còn nếu ngược lại, không
phải các quy luật khách quan ấy không
tồn tại mà nó vẫn hoạt động nhưng với
tính cách là sự trừng phạt của tạo hóa đối
với xã hội và con người;
- Tự do hóa thương mại theo lộ
trình hợp lý. Nhà nước xóa bỏ “ngắn
sông cấm chợ”, tạo điều kiện để việc lưu
thông hàng hóa trên thị trường hoàn toàn
tự do là yếu tố quan trọng nhất để doanh
nghiệp, HTX và mọi thành phần kinh tế
khác lựa chọn sản phẩm sản xuất theo
nhu cầu của thị trường. Tự do hóa
thương mại cũng là yếu tố quan trọng
giúp xóa bỏ sự tồn tại của thị trường chợ
đen-vấn nạn gây đau đầu các nhà quản lý
dưới thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp;
- Từ mở rộng đến tôn trọng quyền
tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp và
người dân: “Kinh doanh bất cứ cái gì mà
luật pháp không cấm, chứ không phải là
những gì luật pháp cho phép”. Điều đó
đã tạo điều kiện để mỗi chủ thể kinh tế
phát huy sáng tạo, tăng năng suất và hiệu
quả sản xuất - kinh doanh.

- Cạnh tranh là động lực thúc
đẩy phát triển. Chấp nhận cạnh tranh
đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều đơn vị
kinh tế làm ăn phát đạt và nhiều đơn vị
khác thua lỗ, thậm chí phá sản. Có thể
nói quy luật cạnh tranh là động lực chính
để tất cả các chủ thể kinh tế phải tự hoàn
thiện mình thông qua việc đổi mới quản
lý, công nghệ để nâng cao chất lượng, hạ
giá thành hàng hóa vật phẩm, dịch vụ,
nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển;
- Đa dạng hóa các hình thức tổ
chức và cơ chế quản lý kinh tế. Đây có
thể xem là giải pháp cơ bản giúp thu hút
đầu tư của mọi thành phần trong xã hội
để phát triển kinh tế;
- Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Trong suốt thời kỳ bao cấp, Việt Nam
đã bị tụt hậu quá xa so với thế giới. Chính
vì thế, việc hội nhập trở lại là điều kiện
quan trọng nhằm thu hút 2 nguồn lực quan
trọng là tài chính và tiến bộ kỹ thuật cũng
như quản lý từ các nước phát triển. Việc
hội nhập và mở cửa nền kinh tế đã giúp
Việt Nam có được vị thế mới trên trường
quốc tế, mở rộng được thị trường xuất
khẩu, nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa;
- Nhà nước chỉ quản lý hành
chính-kinh tế, không trực tiếp kinh doanh;
khuôn khổ pháp luật là điều kiện tiên

quyết để các loại hình doanh nghiệp vừa
phát huy tự chủ, sáng tạo, kinh doanh đạt
hiệu quả cao, vừa vì mục tiêu của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh”. Kiên định với
định hướng xã hội chủ nghĩa không có
25
nghĩa là nhà nước phải chỉ huy và can
thiệp sâu vào toàn bộ nền kinh tế. Nhà
nước chỉ tập trung làm tốt việc quản lý
kinh tế vĩ mô, gián tiếp tác động vào các
hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh
tế bằng các chính sách kinh tế vĩ mô. Hoạt
động kinh doanh thuộc chức năng của các
chủ thể kinh tế. Điều này buộc doanh
nghiệp và người dân tự chủ, tự chịu trách
nhiệm với các quyết định của mình, đồng
thời bộ máy quản lý nhà nước các cấp
cũng được tinh giản đáng kể so với trước;
- Phát triển hài hòa kinh tế - xã
hội, con người và bảo vệ môi trường.
Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho
thấy tăng trưởng và phát triển kinh tế sẽ
gây áp lực lớn đến môi trường sinh thái
tự nhiên và xã hội. Việc nhà nước định
hướng phát triển kinh tế song song với
thực hiện các mục tiêu xã hội và môi
trường là điều kiện quan trọng giúp cho
sự phát triển bền vững.

5. Bài học đổi mới quản lý trong nông
nghiệp.
Việc thực hiện đổi mới quản lý
nông nghiệp thành công ở Việt Nam đã
tạo tiền đề cho đổi mới quản lý các
ngành kinh tế khác. Từ thực tế đổi mới
quản lý nông nghiệp ở Việt Nam, có thể
rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Lựa chọn loại hình tổ chức và
cơ chế quản lý sản xuất nông nghiệp phù
hợp với đặc điểm sản xuất mang tính
sinh học. Đối tượng sản xuất là sinh vật
(cây, con), cần có sự kiểm soát, chăm
sóc một cách tỷ mỷ, đúng lúc và đúng
cách ở từng khâu và toàn bộ quá trình
sản xuất mang tính sinh học trên đồng
ruộng, chuồng trại. Muốn làm được điều
đó, quy mô sản xuất phải phù hợp với
tầm hạn (khả năng) quản lý của người có
trách nhiệm cuối cùng. Mặt khác, để
kiểm soát tốt quá trình sản xuất sinh học,
người lao động phải có trách nhiệm cao.
Muốn vậy, thu nhập của mỗi người lao
động phải hoàn toàn phụ thuộc trực tiếp
vào hiệu quả cuối cùng của quá trình sản
xuất;
- Đa dạng hóa các hình thức tổ
chức sản xuất-kinh doanh và cơ chế
quản lý trong nông nghiệp. Quá trình đổi
mới quản lý đã hình thành và phát triển

đa dạng các loại hình tổ chức và cơ chế
quản lý sản xuất kinh doanh trong nông
nghiệp. Mỗi loại hình có những ưu -
nhược điểm khác nhau:
+ Hộ nông dân hay trang trại gia
đình (farm household) là lực lượng sản
xuất chủ yếu. Bởi vì, các trang trại gia
đình có ưu điểm sau: Quy mô phù hợp
với khả năng quản lý của người chủ và
những người lao động khác trong hộ gia
đình; Thu nhập của nông hộ phụ thuộc
trực tiếp vào năng suất, chất lượng, giá
thành sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi. Vì
vậy, trang trại gia đình có thể kiểm soát
chặt chẽ, chăm sóc đúng lúc, đúng cách
trong tất cả các khâu của quá trình sản
xuất mang tính sinh học trên đồng ruộng,
chuồng trại. Mặt khác, nó cũng có những
nhược điểm: Quy mô nhỏ nên khó cơ
giới hóa và thực hiện GAP; sản phẩm
hàng hóa ít nên không có nhu cầu gắn
trang trại với HTX, với doanh nghiệp
chế biến nông sản. Trang trại gia đình
không thể giải quyết 3 vấn đề quan
trọng: Thị trường, Công nghệ và Vốn.
26
+ Trang trại do 1 cá nhân làm chủ
sở hữu (sole farm) có quy mô vừa, nên
không cần thiết lập cấp quản lý trung gian,
là lực lượng quan trọng thứ 2. Ưu điểm

của loại hình này là: Có quy mô hợp lý,
trách nhiệm cao, nên chủ trang trại có thể
kiểm soát được toàn bộ các khâu của quá
trình sản xuất sinh học. Nhược điểm là:
Không tự giải quyết được 3 vấn đề: Thị
trường, Công nghệ, Vốn.
+ Trang trại quy mô lớn (thuộc các
loại chế độ sở hữu khác nhau: Doanh
nghiệp nhà nước, HTX và doanh nghiệp
tư nhân). Ưu điểm của loại hình này là có
thể giải quyết 3 vấn đề Thị trường, Công
nghệ sản xuất theo GAP và Vốn. Tuy
nhiên, nhược điểm của nó là không thể
kiểm soát được quá trình sản xuất sinh
học. Do vậy, cần khoán hộ để tái lập
trang trại gia đình trong lòng doanh
nghiệp lớn, tạo ra trang trại dự phần
(affliated farm) đảm trách các khâu của
quá trình sản xuất mang tính sinh học;
doanh nghiệp, HTX chuyển sang kinh
doanh dịch vụ cung ứng nguồn lực (đầu
vào) - chế biến và tiêu thụ sản phẩm (đầu
ra). Mô hình quản lý này vừa phát huy ưu
điểm của trang trại gia đình và doanh
nghiệp quy mô lớn, vừa khắc phục được
các nhược điểm của chúng.
+ Sản xuất theo hợp đồng
(contract farming) là hình thức liên kết
chủ yếu trong chuỗi giá trị sản xuất nông
nghiệp “Từ trang trại đến bàn ăn” hay

“Từ lưỡi cày đến cái đĩa”, trên cơ sở
thương mại hóa triệt để các quan hệ giữa
những chủ thể khác nhau tham gia chuỗi
giá trị (value chain) này.
+ Đa dạng hóa sản xuất nông
nghiệp (VAC) trên phạm vi từng đơn vị
sản xuất và toàn bộ nền nông nghiệp.
III. Những vấn đề hiện nay của nông
nghiệp Việt Nam và giải pháp phát
triển giai đoạn tới.
1. Một số vấn đề cần được quan tâm
nghiên cứu nghiêm túc.
Mặc dù quá trình đổi mới quản lý
nông nghiệp Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn nhưng cũng đang
bộc lộ một số vấn đề cần phải kịp thời
nhìn nhận và có giải pháp phù hợp:
- Chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn chậm,
công nghiệp và dịch vụ còn non kém,
nhất là công nghiệp chế biến nông sản và
công nghiệp cơ khí phục vụ sản xuất
nông nghiệp;
← - Năng lực cạnh tranh của nông
sản thấp, giá thành sản xuất cao, chất
lượng không ổn định và chưa đạt tiêu
chuẩn quốc tế; tình trạng mất vệ sinh an
toàn thực phẩm khá nghiêm trọng và phổ
biến;
← - Sản xuất theo hợp đồng chưa

được thực hiện rộng rãi;
← - Phát triển cơ sở hạ tầng chưa
đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, nâng cao cuộc sống nhân dân ở
nhiều vùng nông thôn, nhất là ở các
vùng miền núi. Cơ cấu đầu tư chậm
được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu
phát triển cơ cấu kinh tế mới.
← - Quá trình đổi mới các hình thức
tổ chức sản xuất chuyển biến chậm, hoạt
động của nhiều hợp tác xã, doanh nghiệp
27
nhà nước đạt hiệu quả thấp; kinh tế nông
hộ còn nhỏ bé, trang trại cá nhân không
có cấp quản lý trung gian chưa phát
triển;
← - Đời sống một bộ phận nông dân
còn nhiều khó khăn, chênh lệch về thu
nhập và mức sống giữa nông thôn và
thành thị, giữa các vùng chậm được khắc
phục, chênh lệch giàu nghèo lớn, khó
khắc phục. Yêu cầu về việc làm ngày
càng bức xúc. 20% GDP do nông nghiệp
tạo ra bởi 56% lực lượng lao động xã hội
nhưng hiện đang phải nuôi sống 70%
dân cư nông nghiệp;
← - Tình trạng ô nhiễm môi trường
chưa có giải pháp khắc phục hữu hiệu,
tăng trưởng không bền vững.
2. Giải pháp chung.

- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và xã hội dân chủ;
- Phát triển giáo dục, đào tạo
nguồn nhân lực cho nền kinh tế;
- Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế-xã hội.
3. Giải pháp trong nông nghiệp.
- Đẩy mạnh đào tạo nông dân
dưới 2 hình thức: khuyến nông và trường
lớp chính quy;
- Tích tụ ruộng đất tạo ra các
trang trại gia đình, trang trại cá nhân có
quy mô lớn hơn để có điều kiện thực
hiện:
+ Cơ giới hóa, tăng năng suất lao
động;
+ Phát triển các hình thức hợp tác
kiểu mới trong nông nghiệp;
+ Thực hiện sản xuất theo hợp
đồng và các tiêu chuẩn, quy trình
của Global GAP và Việt GAP
+ Gắn sản xuất nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, tiêu thụ, xây dựng
được thương hiệu cho các loại nông sản
chủ yếu của Việt Nam trên thị trường
trong và ngoài nước.
- Bảo vệ quỹ đất nông nghiệp có
hiệu quả, đặc biệt là quỹ đất sản xuất lúa
(cố gắng duy trì 3,8 triệu ha đất);

- Phát triển sản xuất công nghiệp
và dịch vụ ở nông thôn, nhất là công
nghiệp chế biến nông sản, đẩy mạnh
xuất khẩu sức lao động nông thôn để giải
quyết vấn đề việc làm;
- Phát triển các HTX kiểu mới;
- Tiếp tục đổi mới doanh nghiệp
nông nghiệp nhà nước theo hướng đa
dạng hóa chủ thể sở hữu;
- Hoàn thiện chính sách, cơ chế
quản lý vĩ mô để bảo đảm cạnh tranh
bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn nước ngoài, để phát triển bền
vững và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu
quả hơn;
- Phát triển xã hội và con người
hài hòa với phát triển kinh tế;
- Kiểm soát dân số và và bảo vệ
môi trường sinh thái tự nhiên, môi
trường nhân văn;
Các giải pháp cụ thể này trong
nông nghiệp chỉ có thể thực hiện được
khi 3 giải pháp chung nêu trên được thực
hiện tốt trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân và trong toàn ngành nông nghiệp.
28
Phaàn t höù 2
KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
QUẢN LÝ SẢN XUẤT LÚA GẠO Ở CUBA

I. Tiến trình khảo sát.
Trong thời gian từ cuối tháng 12
năm 2010 đến ngày 18 tháng 4 năm
2011 chúng tôi đã tiến hành làm việc,
trao đổi với những người có trách nhiệm
ở các tổ chức sau:
1) Chủ nhiệm hợp phần dự án sản
xuất lúa nhân dân thuộc dự án hợp tác
sản xuất lúa Việt Nam – Cuba giai đoạn
3: Ông Luis Aleman Mansffar và chủ
nhiệm kỹ thuật dự án hợp tác sản xuất
lúa Việt Nam – Cuba giai đoạn 4: ông
Jorge Hernandez Concepcion;
2) Tập đoàn sản xuất cây có hạt
trực thuộc Bộ Nông nghiệp: Trao đổi với
các giám đốc sản xuất, hậu cần, cơ khí,
kinh tế và nhân sự;
3) Các CAI và Empresa (doanh
nghiệp) trực thuộc Tập đoàn cây có hạt ở
tỉnh Matanzas, Cienfuegos và tỉnh
Granma: Làm việc và trao đổi với Tổng
giám đốc, các giám đốc sản xuất, kinh tế,
nhân sự, hậu cần, cơ khí. Tại mỗi đơn vị
này chúng tôi còn làm việc với một số
đơn vị trực thuộc doanh nghiệp là UEB
và Granja phụ trách sản xuất lúa và cơ
khí;
4) Làm việc và trao đổi với lãnh
đạo của 2 CPA, 2 UBPC và 2 CCS ở 2
tỉnh Matanzas và Granma (3 loại hình

HTX của Cuba hiện nay);
5) Làm việc và trao đổi với 03
nông dân truyền thống, có đất thừa kế,
hiện đang là xã viên của CCS; 02 công
nhân nhận khoán sản xuất lúa và 01 thợ
cơ khí lái máy kéo ở Granja số 10 (một
dạng UEB) trực thuộc CAI Caliso
Echeneque tỉnh Granma;
6) Làm việc và trao đổi với lãnh
đạo của Sở nông nghiệp tỉnh Granma,
Phòng nông nghiệp huyện Yara thuộc
tỉnh Granma;
7) Làm việc và trao đổi với ông
Thứ trưởng Bộ nông nghiệp và một số
cán bộ lãnh đạo cơ quan tham mưu của
Bộ như Vụ hợp tác quốc tế, Vụ thương
mại, Vụ kế hoạch, Vụ kế toán, Cục quản
lý các đơn vị cơ sở, Trung tâm quản lý
quốc gia về ruộng đất và máy kéo
Ngoài ra, chúng tôi còn làm việc với ông
Viện trưởng Viện cây có hạt trực thuộc
Tập đoàn cây có hạt và một trại thực
nghiệm của Viện ở tỉnh Granma.
8) Nhóm chuyên gia Việt Nam và
Cuba thảo luận về bài học kinh nghiệm
đổi mới quản lý nông nghiệp Việt Nam,
nội dung khuyến nghị thí điểm áp dụng
chính sách mới trong sản xuất lúa gạo ở
Cuba.
9) Hội thảo về bài học đổi mới

quản lý trong nông nghiệp Việt Nam và
29
đề xuất khuyến nghị áp dụng chính sách
mới trong sản xuất lúa gạo ở Cuba.
II. Một số thu hoạch.
1. Tình hình chung về sản xuất lúa
gạo.
Theo số liệu của Tổng cục thống
kê Cuba năm 2008: Diện tích đất nông
nghiệp rất lớn (6,619 triệu ha), bình quân
7,35ha trên 01 người lao động nông
nghiệp trực tiếp và 5,09ha trên 01 lao
động toàn ngành nông nghiệp. Trong
tổng diện tích đất nông nghiệp, có 1,187
triệu ha đất trồng cây hàng năm (Khối
quốc doanh: 294 ngàn ha hay 24,76%;
khối ngoài quốc doanh: 893,2 ngàn ha
hay 75,24%). Riêng diện tích canh tác
lúa là 176,6 ngàn ha chiếm 14,5% đất
canh tác hàng năm (Khối quốc doanh có
85,3 ngàn ha hay 48,3%; khối nông dân
và HTX: 91,3 ngàn ha hay 51,7% đất
canh tác lúa). Với diện tích canh tác lúa
như trên, hàng năm Cuba mới đảm bảo
cung ứng 30 - 35% nhu cầu tiêu dùng
gạo của 11 triệu người dân (năm 2008
sản xuất được 436 ngàn tấn thóc tươi (độ
ẩm 20%), quy khô là 405,48 ngàn tấn
thóc khô (độ ẩm 13%), tương đương
259,507 ngàn tấn gạo, đáp ứng khoảng

34,6% nhu cầu. Riêng năm 2010, Cuba
phải dành 1,4 tỷ USD để nhập khẩu
lương thực - thực phẩm.
Diện tích và sản lượng lúa Cuba năm 2010
STT Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện
So sánh
TH/KH (%)
1 Tổng diện tích (ha) 146.368,9 159.578,4 109
1.1 Khối quốc doanh 30.604,6 28.549,8 93
1.2 Khối HTX, nông dân 116.056,7 131.028,6 113
2 Tổng sản lượng (tấn gạo) 327.000,0 227.176,4 69
2.1 Khối quốc doanh 77.000,0 40.005,9 52
2.2 Khối HTX, nông dân 250.000,0 187.170,5 75
Nguồn: Bộ Nông nghiệp Cuba
Tiềm năng sản xuất của Cuba còn
rất lớn, vì trong tổng diện tích đất nông
nghiệp 6,619 triệu ha hiện nay, diện tích
không canh tác chiếm tới 3,631 triệu ha
(bằng 54,85% tổng diện tích đất nông
nghiệp), diện tích hoang hóa là 1,232
triệu ha (bằng 18,6% tổng diện tích đất
nông nghiệp). Năm 2003, Cuba đã sản
xuất được 715 ngàn tấn thóc tươi (độ ẩm
20%), tương đương 664,95 ngàn tấn thóc
30
khô (độ ẩm 13%), hay 425,568 ngàn tấn
gạo (64%), bằng 1,64 lần sản lượng năm
2008. Mặt khác, năng suất lúa còn thấp
xa so với tiềm năng. Năm 2008, năng
suất bình quân mới đạt 2,3 tấn lúa khô/ha

canh tác lúa, hay 1,47tấn gạo/ha canh tác
lúa. Tỉnh Granma là vùng trọng điểm sản
xuất lúa của đất nước, năm 2010 mới sản
xuất được 60 ngàn tấn gạo trên 45 ngàn
ha gieo trồng, đạt năng suất 2,2 tấn lúa
khô/ha hay 1,4 tấn gạo/ha, chỉ bằng 1/3
tiềm năng.
Kế hoạch sản xuất lúa của Cuba năm 2011
STT Chỉ tiêu Diện tích
(ha)
Sản lượng (tấn gạo)
1 Khối quốc doanh 41.937,4 72.990,8
2 Khối HTX và nông dân 131.259,9 202.309,2
Tổng số 173.247,3 275.300,0
Nguồn: Bộ Nông nghiệp Cuba
Khối sản xuất lúa HTX và nông
dân chiếm 51,7% diện tích canh tác lúa
cả nước nhưng làm ra 80% sản lượng lúa
gạo, trong điều kiện vật tư chỉ được cung
cấp bằng 40-50% so với khối quốc
doanh. Đó là điều đáng suy ngẫm
Tất cả những điều nói trên cho
thấy, Cuba hoàn toàn có khả năng sản
xuất đủ lúa gạo cho tiêu dùng trong nước
và hơn thế, có thể xuất khẩu gạo trong
tương lai gần, nếu áp dụng những chính
sách vĩ mô và cơ chế quản lý thích hợp.
2. Tình hình tổ chức sản xuất lúa gạo.
2.1. Tập đoàn kinh tế nhà nước sản xuất
cây có hạt.

Việc sản xuất lúa gạo theo kế
hoạch nhà nước, đảm bảo 70% nhu cầu
vào năm 2015 và 100% nhu cầu vào năm
2020 được giao cho Tập đoàn kinh tế nhà
nước sản xuất cây có hạt trực thuộc Bộ
nông nghiệp. Tập đoàn vừa tự tổ chức sản
xuất, chế biến lúa gạo trên diện tích đất
nhà nước giao, vừa hợp đồng với khối
nông dân và HTX sản xuất lúa gạo, bao
gồm các loại HTX (CPA, UBPC, CCS)
theo nội dung: Tập đoàn cung cấp vật tư,
dịch vụ canh tác cơ giới, khuyến nông và
mua lúa (tươi, khô, gạo nguyên liệu) để
sấy, xay xát, bán buôn gạo cho hệ thống
thương mại quốc doanh để bán lẻ cho
người tiêu dùng.
Tập đoàn cây có hạt là một tổ
chức có đầy đủ tư cách pháp nhân, hạch
toán cân đối thu- chi toàn ngành từ khâu
cung ứng vật tư, máy móc, dịch vụ, sản
xuất, thu hoạch, chế biến, cất trữ lúa và
31
các sản phẩm cây có hạt. Tập đoàn là
cấp quản lý vi mô cao nhất của ngành
sản xuất cây có hạt, có tổng giám đốc, 05
phó tổng giám đốc với 5 cơ quan giúp
việc là:
- Ban sản xuất;
- Ban công nghiệp chế biến;
- Ban kinh tế;

- Ban hậu cần;
- Ban nhân sự;
Tập đoàn hoạt động trên 10 tỉnh
trong tổng số 16 tỉnh, thành phố của cả
nước. Các Empresa là đơn vị cấp dưới
trực thuộc Tập đoàn, có tư cách pháo
nhân (tạm gọi là doanh nghiệp,
enterprise hay business), được phân làm
5 loại khác nhau:
1 - Empresa vừa có đất sản xuất
cây có hạt, trong đó có đất trồng lúa, vừa
có công nghiệp chế biến, vừa ký hợp
đồng cung cấp vật tư, dịch vụ canh tác
bằng máy, mua lúa của khối nông dân và
HTX (CPA, CCS, UBPC), được gọi
bằng tên chung là CAI;
2 - Empresa chỉ có đất trồng cây
có hạt, đất chăn nuôi, không có đất trồng
lúa, nhưng có công nghiệp chế biến lúa
gạo, hợp đồng với khối nông dân và
HTX trong việc cung ứng vật tư, dịch vụ
canh tác lúa bằng cơ giới lớn, khuyến
nông và mua lúa tươi để chế biến, cũng
được gọi là CAI;
3 - Empresa không có đất sản
xuất nông nghiệp nhưng có xưởng chế
biến, máy móc canh tác lớn, xưởng cơ
khí, ký hợp đồng với khối nông dân và
HTX (CCS, CPA, UBPC) trong việc
cung cấp vật tư, dịch vụ canh tác bằng

máy, khuyến nông, mua lúa tươi để sấy,
xay xát; Ngành chăn nuôi hiện có ở
một số doanh nghiệp và CAI sẽ được
tách ra, chuyển cho đơn vị khác, để thực
hiện chuyên sản xuất cây có hạt, trong
khi sản xuất nông nghiệp vốn là ngành
đa canh trên mỗi vùng sinh thái. Cần suy
nghĩ thêm về điều này.
4 - Empresa cung ứng vật tư cho
toàn ngành cây có hạt: Nhận vật tư từ tập
đoàn hậu cần trực thuộc Bộ nông nghiệp
(Tập đoàn này mua vật tư của công ty
nhập khẩu Bộ Ngoài thương), mua một
số loại vật tư khác (phụ tùng máy móc,
dụng cụ ) của các doanh nghiệp cung
ứng khác để cung cấp cho các đơn vị
thuộc tập đoàn cây có hạt. (Empresa này
chỉ trực tiếp nhập khẩu và cung cấp một
số vật tư chuyên dùng);
5 - Empresa liên doanh với nước
ngoài, hoàn toàn tự chủ kinh doanh.
Các Empresa có các đơn vị sản
xuất cơ sở với tên gọi UEB (không có tư
cách pháp nhân), đôi khi gọi là Granja,
tùy theo thói quen mỗi địa phương. Các
UEB có các đơn vị trực thuộc nhỏ hơn,
được gọi là Finca, Lote (lúa), Brigada
(dịch vụ cơ giới, trồng rau, lúa),
Vaqueriat (chăn nuôi) xưởng sửa chữa
máy móc, đội máy canh tác, tưới nước.

Các đơn vị nhỏ (Lote) canh tác lúa này
có một số người lao động nhận khoán
với mức bình quân 13,42 ha/người.
Thông thường mỗi Lote có dưới 200ha.
Việc nghiệm thu các dịch vụ (làm đất,
gieo hạt, phun thuốc trừ cỏ, trừ sâu ) do
lãnh đạo của Lote ký.
Như vậy, từ cấp tập đoàn đến
người lao động nhận khoán có 4 cấp
32
quản lý. Đó là một chuỗi các cấp quản lý
khá dài, nhất là đối với sản xuất nông
nghiệp có đối tượng là các sinh vật, tạo
điều kiện nẩy sinh tệ quan liêu, lãng phí
và mất mát. Quy mô quản lý của tập
đoàn, của mỗi CAI, Empresa, của UEB
là quá lớn so với khả năng kiểm soát của
con người đối với quá trình sinh học
diễn ra trên đồng ruộng và chuồng trại.
Tập đoàn cũng là doanh nghiệp đồng
thời là cấp trên của doanh nghiệp
(empresa). Điều này khiến cho cả tập
đoàn và doanh nghiệp cấp dưới cùng
tranh chấp quyền tự chủ kinh doanh (nếu
có quyền tự chủ).
Việc giao khoán cho người lao
động là hướng đi đúng để “giảm tải”
trong quản lý của các cấp của Tập đoàn.
Nhưng người nhận khoán chưa đủ quyền
hạn và khả năng chịu trách nhiệm về số

lượng, chất lượng sản phẩm giao khoán.
2.2. Các Hợp tác xã
Các HTX ở Cuba được tổ chức
theo 3 loại:
- Hợp tác xã tín dụng-dịch vụ
(CCS): Đây là hợp tác làm dịch vụ, xã
viên có ruộng đất riêng do thừa kế, tự chủ
sản xuất nông nghiệp, được sự trợ giúp
của nhà nước thông qua các đơn vị của
Tập đoàn kinh tế nhà nước sản xuất cây có
hạt;
- Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
(CPA): Hợp tác xã tổ chức sản xuất tập
thể trên cơ sở tập thể hóa quyền sở hữu
ruộng đất của xã viên;
- Đơn vị sản xuất hợp tác xã
(UBPC): Đây là loại hình HTX được
thành lập do tách một bộ phận của các
doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước
(Empresa hay CAI) hoạt động kém hiệu
quả, trong đó ruộng đất thuộc sở hữu nhà
nước, các tư liệu sản xuất và tiền vốn
thuộc sở hữu tập thể.
Các hợp tác xã ký hợp đồng với
các doanh nghiệp nông nghiệp của Tập
đoàn trong việc nhận cung ứng vật tư,
dịch vụ canh tác bằng máy lớn, khuyến
nông và bán sản phẩm (lúa tươi, lúa khô,
gạo nguyên liệu). Nông dân không phải
là xã viên HTX sẽ không được cung ứng

vật tư, nên buộc phải vào HTX. Chính
sách nhà nước phân biệt đối xử giữa 2
chủ thể kinh tế HTX và nông dân không
phải là xã viên HTX.
Cả Tập đoàn cây có hạt, các CAI,
Empresa trực thuộc tập đoàn và các
HTX (CCS, CPA, UBPC) đều không
thực sự kinh doanh vì không có quyền tự
chủ kinh doanh, không có quyền tự cân
đối đầu vào-đầu ra của quá trình sản
xuất, không thể tự cấn đối thu-chi tài
chính. Bài toán cân đối đầu vào-đầu ra
và thu-chi chỉ được giải ở cấp vĩ mô.
3. Một số chính sách và cơ chế quản lý vĩ
mô hiện hành mang tính đổi mới.
3.1. Chính sách ruộng đất.
Pháp lệnh số 259 của Hội đồng
nhà nước ban hành năm 2008:
- Diện tích đất nông nghiệp thuộc
sở hữu nhà nước bị bỏ hoang được giao
cho người lao động và các tổ chức có tư
cách pháp nhân (thường là các hợp tác
xã UBPC, CPA, CCS) để sản xuất nông
nghiệp theo kế hoạch nhà nước trong
thời hạn 10 năm đối với người lao động
và 25 năm đối với tổ chức. Người lao
33
động nhận đất nông nghiệp theo Pháp
lệnh 259 buộc phải vào HTX. Hạn chế
thời gian sử dụng đất khiến nông dân

không chăm lo cải tạo đất mà chỉ khai
thác đất. Đến nay quỹ đất hoang hóa là
1,758 triệu ha, diện tích đã giao theo
Pháp lệnh 259 là 735,63 ngàn ha, chiếm
41,82% diện tích đất hoang hóa; Trong
đó đất lúa là 53,625 ngàn ha, chiếm
7,29% diện tích đất đất đã giao và chiếm
3% diện tích đất hoang hóa. Như vậy
tiềm năng tăng diện tích đất lúa theo
Pháp lệnh 259 còn rất lớn.
- Tổng số người lao động được
giao đất theo Pháp lệnh này là 140 ngàn
người, trong đó 30 ngàn người là thanh
niên. Mỗi người được giao tối đa 13,42
ha đối với người chưa có đất canh tác và
chưa có kinh nghiệm sản xuất nông
nghiệp, tối đa 40 ha (kể cả ruộng đã có
trước đây) đối với nông dân đã có đất.
Hạn điền sẽ hạn chế sự phát triển của
những nông dân sản xuất giỏi.
- Ruộng đất trong nông nghiệp
không được mua bán tự do giữa người
dân và các tổ chức với nhau. Khi không
sản xuất nông nghiệp, người dân là chủ
sở hữu đất nông nghiệp chỉ được bán cho
nhà nước theo giá quy định (2000 peso/1
CAB đất loại 1 và 500 peso/CAB đất
loại 4; 1CAB = 13,42 ha). Nhà nước sẽ
giao đất này cho người lao động và các
tổ chức.

Trên thực tế, có hộ nông dân tuy
đã có 26,84ha vẫn thuê thêm 5,5 ha đất
nông nghiệp với mức địa tô 20% giá trị
nông sản hàng hóa/năm và thực tế họ đã
mua bán trao tay một phần diện tích
trong số đó. Có cung ắt có cầu. Quan hệ
mua bán, dù là bất hợp pháp, vẫn diễn ra.
Hơn nữa, nhờ thế những diện tích đất
này đã được giao đúng địa chỉ cho người
sản xuất giỏi, có hiệu quả.
- Luật không cho phép chia nhỏ
ruộng đất thuộc sở hữu của nông dân khi
thừa kế cho các con, để đảm bảo quy mô
của mỗi Finca (Trang trại - Farm) không
bị nhỏ đi theo thời gian. Đó là một chính
sách đúng đắn mà Việt Nam cần học tập.
Những Finca do nhiều người thừa kế
cùng làm chủ sở hữu chính là trang trại
hợp danh hay công ty hợp danh kinh
doanh nông nghiệp như luật Việt Nam
đã quy định (farming partnership).
3.2. Chính sách cung ứng vật tư, máy
móc nông nghiệp và dịch vụ canh tác.
Vật tư nông nghiệp chủ yếu là
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc
thú y, thức ăn gia súc, nhiên liệu (xăng,
diesel) do các doanh nghiệp nhà nước
thuộc Bộ ngoại thương nhập khẩu.
Nhiên liệu được cung ứng theo hệ thống
riêng, các loại vật tư khác được giao cho

Tập đoàn hậu cần của Bộ Nông nghiệp
để giao cho Tập đoàn cây có hạt và khối
HTX nông nghiệp. Empresa hậu cần của
Tập đoàn cây có hạt chỉ nhập và cung
ứng các loại vật tư chuyên dùng. Các
empresa và CAI của Tập đoàn cây có hạt
ký hợp đồng cung ứng vật tư và dịch vụ
bằng máy cho các HTX với giá rẻ. Nông
dân ngoài HTX không được cung ứng
vật tư.
Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
nói chung và sản xuất lúa nói riêng, giá
bán vật tư cho các đơn vị sản xuất nông
nghiệp cho cả 2 khối quốc doanh và dân
doanh rất rẻ, gần như cho không. Ví dụ
34
dầu Diesel bán cung cấp với giá 0,75
peso/lít, trong khi giá bán tự do tại cây
xăng của nhà nước là 25 peso/lít, (giá
nhập khẩu ở Việt Nam khoảng 15
peso/lít), còn giá chợ đen vào khoảng 7-
8 peso/lít; Giá phân Ure nhập khẩu
400USD/tấn (khoảng 8 peso/kg) nhưng
bán cung cấp theo kế hoạch và hợp đồng
là 24 peso/50kg (chưa đến 0,5peso/kg).
Giá vật tư quá rẻ khiến người sử
dụng để sản xuất không tự hạch toán
được hiệu quả tài chính và nhất là không
tiết kiệm, gây lãng phí lớn. Một CCS ở
tỉnh Granma sử dụng 1 xe vận tải quá cũ,

tiêu hao tới 40 lít dầu diesel cho 100 km,
cao hơn gấp 2 lần mức bình thường.
Các máy móc nông nghiệp cũng
được nhập khẩu và cung ứng với giá rẻ
như các loại vật tư nông nghiệp. Nhưng
điều khác là máy móc chỉ bán cho các
CAI, Empresa nhà nước, không bán cho
các HTX và nông dân. Máy móc hiện sử
dụng của HTX và nông dân là các máy
cũ có từ trước cách mạng (1959) và mua
thanh lý máy cũ của các CAI và
Empresa. Phụ tùng thay thế không được
cung ứng cho HTX và nông dân, nên
máy kéo, xe vận tải của họ ở trong tình
trạng kỹ thuật rất kém, tiêu hao nhiều
nhiên liệu, không sử dụng được hết công
suất, gây lãng phí lớn. Như vậy chính
sách nhà nước lại có sự phân biệt đối xử
giữa các chủ thể kinh té (doanh nghiệp
nhà nước và HTX, nông dân).
Một nông dân ở tỉnh Matanzas
mua gom linh kiện, phụ tùng cũ lắp ráp
được một máy kéo công suất 50CV, dư
thừa so với nhu cầu canh tác của mình,
nhưng không dám làm dịch vụ cho các
nông dân khác, vì sợ hư hỏng không có
phụ tùng thay thế. Hợp tác xã CCS
Particial Lumumba ở tỉnh Granma có
1005 ha canh tác, trong đó diện tích canh
tác lúa là 110 ha. CCS này có tới 170

máy kéo, 20 trong tổng số 48 xã viên
trồng lúa có máy kéo, nhưng vì không có
đủ phụ tùng thay thế nên số máy này
không đáp ứng yêu cầu canh tác, HTX
vẫn phải thuê dịch vụ canh tác bằng máy
của CAI.
Như vậy, chỉ có một kênh duy
nhất của nhà nước với nhiều tầng nấc
trung gian quản lý khác nhau (từ Bộ
Ngoại thương, Bộ Nông nghiệp, Tập
đoàn, CAI, HTX, nông dân) cung cấp
vật tư nông nghiệp cho sản xuất của cả
khối quốc doanh và dân doanh. Riêng
máy móc nông nghiệp, nhà nước chỉ
cung cấp cho khối quốc doanh. Vì thế,
không có sự cạnh tranh trong hoạt động
cung ứng vật tư, máy móc cho sản xuất
nông nghiệp cho cả khối quốc doanh và
dân doanh. Do đó, chi phí cho nhập khẩu
và chi phí lưu thông vật tư, máy móc cao
là rất có thể xảy ra và không kiểm soát
được. Mặt khác, chính sách giá bán vật
tư, máy móc rẻ khiến nhà nước không
cân đối được ngoại tệ để tiếp tục nhập
khẩu,.Vì vậy, tình trạng thiếu vật tư, máy
móc diễn ra thường xuyên, nghiêm
trọng, kéo dài.
Những khiếm khuyết này lại
không thể quy được trách nhiệm cho ai,
từ ngân hàng cấp tín dụng ngoại tệ đến

doanh nghiệp nhập khẩu, doanh nghiệp
cung ứng cho sản xuất. Điều đó cũng tạo
nên cơ chế xin-cho giữa tổ chức cung
ứng và tổ chức sản xuất nông nghiệp, tạo
35
điều kiện cho các hành vi tiêu cực và thị
trường bất hợp pháp nảy sinh. Kết quả là
sản lượng lúa gạo không năm nào đạt
được chỉ tiêu kế hoạch và chỉ đáp ứng
khoảng 30-35% nhu cầu; năng suất lúa
đạt thấp, chỉ bằng 1/3 đến ½ tiềm năng.
Nếu đáp ứng được kịp thời và đủ vật tư,
máy móc, năng suất có thể đạt 4 tấn thóc
khô/ha gieo trồng, Cuba có thể tự túc
được 70% nhu cầu gạo của 11 triệu dân,
mà chưa cần tăng thêm diện tích canh
tác lúa.
3.3. Chính sách tín dụng.
Tất cả các CAI, Empresa và các
HTX, xã viên đều được vay tín dụng của
ngân hàng quốc doanh để thanh toán
bằng chuyển khoản trong việc mua vật
tư máy móc, đóng phí bảo hiểm sản
xuất, bảo hiểm xã hội và nhận tiền mặt
để trả lương, trả tiền mua nông sản. Việc
trả lương hàng tháng (tạm ứng) và vào
cuối vụ (tiền thưởng) bằng tiền trong các
HTX là một tiến bộ đáng khích lệ, tuy
rằng cơ chế phân phối tiền lương, tiền
thưởng còn cần được tiếp tục hoàn thiện.

Lãi suất tín dụng rất thấp, chỉ
khoảng 1%/năm đối với vay dài hạn và
5%/ năm đối với vay ngắn hạn; Căn cứ
hợp đồng giữa CAI, Empresa với HTX,
xã viên trong việc cung ứng vật tư, dịch
vụ và mua lúa tươi, ngân hàng ký hợp
đồng tín dụng với HTX (CPA, CCS,
UBPC) và cả với xã viên thông qua HTX
(CCS). Đó là một chính sách rất tốt, tuy
vậy cũng cần xem xét lại lãi suất tín
dụng có thấp quá không? Bởi vì lãi suất
tiền gửi tiết kiệm là 4-6%/năm. Chênh
lệch giữa lãi suất cho vay (tín dụng) và
lãi suất huy động tiền tiết kiệm của ngân
hàng thương mại quốc doanh lại gây
thêm khó khăn cho ngân sách nhà nước.
3.4. Chính sách giá cả nông sản.
Để khuyến khích sản xuất lúa gạo,
giá mua lúa gạo của cả khối dân doanh rất
cao so với chi phí sản xuất. Năm 2010 giá
mua lúa tươi tại đơn vị sản xuất (HTX, xã
viên) là 130 pesos/46kg, tương đương
2,82 pesos/kg. Ông chủ tịch UBPC
Comagugy tỉnh Camaguey (ông Rololto
Raminez Sguel) cho biết chi phí 1.266,7
pesos/ha gieo trồng lúa, đạt năng suất 2,79
tấn thóc khô, chi phí 1 tấn lúa khô là
454,038 pesos. Giá bán tại HTX là 3.038
pesos/tấn thóc khô. Như vậy, HTX lãi
2.583,96 pesos/tấn và 7.209,25 pesos/ha.

Nếu 1 xã viên được nhận 13,42 ha theo
Pháp lệnh 259 sẽ làm ra 96.748,135
pesos/ha/vụ lúa, còn nếu theo mức bình
quân diện tích canh tác lúa ở HTX này là
7,5 ha, mỗi xã viên làm ra 54.069,37
pesos/ha/1vụ lúa. Do đó thu nhập của xã
viên trong UBPC rất cao. Lương tạm ứng
hàng tháng 385 pesos; tiền thưởng bình
quân cuối vụ 45.000 pesos, bình quân một
tháng là 7500 pesos. Như vậy 1 xã viên
thu nhập 7885 pesos/tháng, chưa kể 200
pesos/vụ là tiền khuyến khích như đảm
bảo gieo đúng mật độ, dọn ruộng sạch
sẽ Thu nhập của nông dân và lãi của
HTX cao nên họ muốn đầu tư tái sản xuất
mở rộng nhưng không mua được máy
móc và vật tư, mặc dù sẵn sàng trả giá
cao theo giá thị trường quốc tế.
HTX trồng lúa có lãi lớn chủ yếu
do giá vật tư quá thấp, gần như cho
không. Trong khi đó lương công nhân
trồng lúa tại Granja 10 thuộc CAI ở
Granma rất thấp. Tiền lương tạm ứng
36
hàng tháng chỉ có 275 pesos, vụ vừa qua
không đạt kế hoạch nên không có tiền
thưởng. Công nhân lái máy kéo lớn
250HP ở đơn vị này, tiền lương tạm ứng
cũng chỉ có 275 pesos/tháng và tiền
thưởng bằng 6 tháng lương tạm ứng, thu

nhập bình quân là 550 pesos/tháng,
không đủ sống. Điều đó đã làm nảy sinh
vấn đề xã hội: Thu nhập của công nhân
trồng lúa trong khu vực quốc doanh quá
thấp, chỉ bằng 1/14 thu nhập của xã viên
HTX (UBPC).
Sở dĩ các CAI và Empresa không
thể trả lương cao so với HTX (UBPC)
ngoài nguyên nhân năng suất lúa thấp
hơn còn chủ yếu do giá bán lúa quá thấp
(976 pesos/tấn gạo) so với giá mua của
HTX và nông dân (6300 pesos/tấn). Lãi
tính trên 1 kg gạo năm 2010 của CAI
Fernando Echenique chỉ có 7 pesos/tấn.
Năm 2011, chính sách giá đã có
thay đổi, giá mua lúa gạo của cả khối
quốc doanh và dân doanh là như nhau.
Về nguyên tắc, luật pháp, chính sách nhà
nước không được phân biệt đối xử giữa
các chủ thể trong cùng 1 hành vi. Chính
sách chỉ có thể phân biệt đối xử theo
ngành sản xuất và vùng lãnh thổ do có
điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội khác
nhau.
Giá bán gạo của nhà nước cho
người tiêu dùng, kể cả người sản xuất
lúa gạo, rất thấp so với giá mua. Giá bán
gạo theo định lượng 3,5 kg/người/tháng
chỉ có 0,54 pesos/1kg, bằng 8,5% giá
mua gạo. Giá bán gạo ở chợ do nhà nước

quy định (không hạn chế khối lượng
mua) là 3,5 pesos/0,46 kg, nhưng cũng
chỉ gần bằng giá mua gạo. Do giá mua
gạo để tiêu dùng quá thấp, gần như cho
không (giá sữa cũng vậy: mua 2,3
pesos/lít, bán 0,25 pesos/lít) nên người
dân sử dụng rất lãng phí.
Nhìn chung chính sách giá cả
hiện hành cả trong việc cung cấp vật tư,
máy móc để sản xuất và trong việc bán
nông sản cho người tiêu dùng đều rất
thấp xa so với giá trị thực, nên chẳng
những làm méo mó thị trường, khiến
doanh nghiệp, HTX không hạch toán
được đúng lãi-lỗ, hiệu quả kinh doanh
của mỗi mặt hàng, mỗi chu kỳ sản xuất,
mà còn gây ra tình trạng sử dụng rất lãng
phí. Trong khi đó, nhà nước phải dành
dụm từng đồng ngoại tệ để nhập khẩu
vật tư, xăng dầu, máy móc và lương
thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu sản
xuất và tiêu dùng trong nước. Nông dân
và HTX có thu nhập và lãi cao, nhưng
không thể tái đầu tư mở rộng sản xuất.
Chính sách giá cả này khiến cả đất
nước trở thành một doanh nghiệp duy
nhất do chính phủ vừa quản lý hành chính
vừa điều hành kinh doanh, hạch toán lỗ-
lãi, cân đối thu-chi và xuất nhập khẩu.
Điều đó chẳng những triệt tiêu động lực

sáng tạo của doanh nghiệp, HTX và
người lao động mà còn gây ra tình trạng
“quá tải” trong quản lý ở cấp vĩ mô. Tình
trạng quá tải trong quản lý sẽ tạo ra bộ
máy hành chính vừa cồng kềnh, vừa kém
hiệu quả, lại gây ra tình trạng quan liêu,
cửa quyền, lãng phí và tiêu cực khác trên
quy mô lớn.
3.5. Chính sách sản xuất theo hợp đồng.
Tất cả các HTX (CCS, CPA,
UBPC) sản xuất lúa và các CAI,
Empresa cung cấp vật tư, dịch vụ canh
37
tác bằng máy cho HTX và mua lúa tươi
của HTX để sấy, xay xát thành gạo, đều
ký hợp đồng với nhau. Nhờ giá vật tư và
dịch vụ thấp, giá mua lúa cao, nên nông
dân và HTX lãi lớn. Do vậy nông dân và
HTX đều tự nguyện ký hợp đồng với
CAI và Empresa. Đó là mối liên kết sản
xuất rất cần phát triển để bảo đảm hiệu
quả kinh tế của cả chuỗi giá trị của
ngành sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên, do
thiếu vật tư, máy móc nên hợp đồng
thường xuyên bị phá vỡ. Không bên nào
chịu trách nhiệm và bị chế tài do vi
phạm hợp đồng. Đồng thời, giá thu mua
lúa chưa phản ánh đúng sự phân chia lợi
ích giữa nông dân, HTX và doanh
nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ.

Nếu thay đổi chính sách và tổ
chức kênh cung ứng vật tư, máy móc thì
việc sản xuất theo hợp đồng giữa nông
dân, HTX với các CAI, Empresa sẽ phát
triển, nhưng cần các quy định cơ chế
hình thành giá trong hợp đồng và có chế
tài nghiêm khắc. Mặt khác, những tranh
chấp giữa các bên ký kết hợp đồng chưa
được các cơ quan độc lập, khách quan
xử lý nên phía nông dân và HTX thường
bị thiệt.
3.6. Chính sách khuyến nông.
Chính phủ chú trọng huấn luyện
kỹ thuật canh tác cho người nhận đất
theo Pháp lệnh 259 nhưng chưa có kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên
mạng lưới khuyến nông còn mỏng so với
nhu cầu. Thu nhập của cán bộ khuyến
nông chưa trực tiếp phụ thuộc vào kết
quả sản xuất của người lao động nông
nghiệp.
Tóm lại: Cần phải dũng cảm nhìn
thẳng vào sự thật để đổi mới tư duy và
“cởi trói” cho nền kinh tế, cho mỗi
doanh nghiệp, hợp tác xã và người lao
động, khiến họ có thể hoạt động theo khả
năng vốn có của mình, đưa nền kinh tế
thoát khỏi tình trạng trì trệ trầm trọng
hiện nay. Muốn phát triển bền vững và
hiệu quả, lãnh đạo cần đổi mới tư duy và

có kiến thức đủ để thiết lập và vận hành
thể chế quản lý phù hợp với thực tiễn
vốn rất đa dạng và luôn biến đổi.
38
Phaàn th öù 3
ĐỀ XUẤT KHUYẾN NGHỊ
THÍ ĐIỂM ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH MỚI
ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT LÚA GẠO Ở CUBA
I. Một số định nghĩa.
Các thuật ngữ trong bản khuyến nghị
này được hiểu như sau:
1. Doanh nghiệp (enterprise) trong tiếng
Việt và Empresa trong tiếng Tây Ban
Nha, được hiểu là một tổ chức kinh
doanh tự chủ. Hoạt động của doanh
nghiệp chỉ bị chi phối bởi luật pháp và
chủ sở hữu. Không có doanh nghiệp cấp
trên hay doanh nghiệp cấp dưới của một
doanh nghiệp. Trong trường hợp này ở
Cuba hiện nay, Bộ Nông nghiệp là đại
diện sở hữu chủ Nhà nước đối với các
doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước sản
xuất cây có hạt.
2. Hợp tác xã (ở Cuba là CPA, UBPC,
CCS) được hiểu là một tổ chức kinh tế
tập thể tự chủ, do người lao động tự
nguyện góp công và/hoặc góp tài sản lập
ra để đáp ứng yêu cầu của mình trong
sản xuất và đời sống.
3. Trang trại (farm) trong tiếng Việt và

Finca trong tiếng Tây Ban Nha được
hiểu là một đơn vị sản xuất-kinh doanh
nông nghiệp tự chủ, với các loại sau:
- Trang trại gia đình (farm
household) là một loại trang trại chủ yếu
sử dụng sức lao động và tiền vốn tự có
của hộ nông dân. Nông dân là người chủ
trang trại gia đình. Với tư cách thể nhân,
nông dân có quyền vay tín dụng ngân
hàng như các pháp nhân khác.
- Trang trại cá nhân (Sole farm) là
một loại trang trại do một người làm chủ
và đầu tư vốn, chủ yếu sử dụng sức lao
động làm thuê. Thông thường và phổ
biến, số lượng người làm thuê chịu sự
quản lý trực tiếp của chủ trang trại trong
lao động trên các địa bàn và ở các khâu
khác nhau của quá trình sản xuất nông
nghiệp; chủ trang trại quản lý trực tiếp,
không thiết lập cấp quản lý trung gian.
Người chủ trang trại cá nhân thực chất là
chủ doanh nghiệp cá nhân kinh doanh
nông nghiệp. Chủ trang trại cá nhân phải
đăng ký kinh doanh và hoạt động theo
Luật doanh nghiệp.
4. Quyền tự chủ của các loại tổ chức nói
trên được hiểu là quyền tự quyết định tổ
chức sản xuất, tiêu thụ nông sản phẩm,
mua các nguồn lực đầu vào và vay vốn
ngân hàng, phân phối thu nhập, tự hạch

toán thu-chi, lãi lỗ và chịu trách nhiệm
về kết quả, hiệu quả hoạt động của mình
trước pháp luật và chủ sở hữu. Trong các
quan hệ giao dịch dân sự, các doanh
nghiệp, HTX (CPA, CCS, UBPC) sử
39
dụng tư cách pháp nhân; các trang trại
gia đình và trang trại cá nhân sử dụng tư
cách thể nhân của người chủ trang trại.
5. Gia công sản xuất là hoạt động sản
xuất ngoài danh nghiệp. Doanh nghiệp
có vật tư sản xuất, nhưng thiếu các
phương tiện sản xuất khác và thiếu sức
lao động, nên giao số vật tư đó cho
người khác sản xuất. Doanh nghiệp sẽ
được nhận lại toàn bộ số lượng sản phẩm
làm ra tương ứng với số lượng vật tư nói
trên với các tiêu chuẩn chất lượng nhất
định. Doanh nghiệp gia công phải trả
cho người nhận gia công một khoản thù
lao lao động và các chi phí khác mà họ
đã bỏ ra để sản xuất số sản phẩm nói
trên. Hai bên giao và nhận gia công phải
ký hợp đồng kinh tế.

II. Nội dung khuyến nghị.
Các khuyến nghị dưới đây sẽ được áp
dụng phần lớn hay toàn bộ vào việc thí
điểm mô hình chính sách mới ở một địa
phương và/hoặc một tổ chức.

1. Những điều kiện tiên quyết.
1.1. Có cơ chế cạnh tranh giữa
các chủ thể hoạt động trong cùng một
lĩnh vực, một ngành hàng sản xuất-kinh
doanh trên cùng một địa bàn (vùng lãnh
thổ). Các lĩnh vực hoạt động và ngành
hàng bao gồm: Nhập khẩu và bán các
loại vật tư, trang thiết bị, máy móc và
các nguồn lực khác; Sản xuất hàng hóa
vật phẩm và dịch vụ; Chế biến và mua,
bán sản phẩm.
1.2. Thực hiện sự đa dạng về sản
phẩm, về hình thái tổ chức sản xuất và
cơ chế quản lý trong các đơn vị kinh tế
tự chủ được chọn làm thí điểm, đặc biệt
là trong nông nghiệp. (điều này có nghĩa
là trong một tổ chức được chọn làm thí
điểm, các bộ phận cấu thành của nó sẽ
có các hình thức tổ chức và cơ chế quản
lý khác nhau, phù hợp với những đặc thù
về kinh tế, kỹ thuật của chúng).
1.3. Chính sách của nhà nước
đảm bảo sự phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
2. Khuyến nghị chính sách vĩ mô.
- Chính phủ dành một số ngoại tệ
hiện đang dùng để nhập khẩu gạo
chuyển sang nhập khẩu vật tư, máy móc,
nhiên liệu và bán cho các đơn vị có
nhu cầu theo giá không bù lỗ và có mức

lãi hợp lý. Các đơn vị được chọn thí
điểm áp dụng chính sách phải sản xuất
hay gia công sản xuất, mua gom đủ số
lượng gạo tương ứng với số lượng vật tư
và máy móc đã được mua, theo tiêu
chuẩn chất lượng gạo do Chính phủ quy
định. Chính phủ mua lại toàn bộ số
lượng gạo này theo giá hợp lý, gần với
giá quốc tế.
- Chính phủ bảo đảm và tạo điều
kiện thuận lợi để các HTX, trang trại
mua vật tư, máy kéo, máy móc nông
nghiệp, máy sấy lúa và xay xát gạo theo
yêu cầu sản xuất của mình và hướng
phát triển của địa phương, như các
doanh nghiệp nhà nước.
- Chính phủ giao đất theo Pháp
lệnh 259 cho người lao động để lập trang
trại gia đình, trang trại cá nhân. Diện tích
đất nông nghiệp giao theo khả năng, thời
hạn sử dụng đất lâu dài. Chính phủ chỉ
40
thu hồi đất khi người nhận đất vi phạm
luật pháp về sử dụng đất nông nghiệp.
- Chính phủ tài trợ kinh phí cho
hoạt động khuyến nông của doanh
nghiệp và HTX theo nhu cầu của nông
dân.
- Chính phủ tài trợ kinh phí kiểm
toán hàng năm cho các loại HTX.

3. Khuyến nghị chính sách vi mô.
Xây dựng mô hình: a) doanh
nghiệp nhà nước nhập khẩu và cung ứng
vật tư, máy móc nông nghiệp; b) doanh
nghiệp nông nghiệp nhà nước, hợp tác
xã (CPA, UBPC, CCS) và trang trại
trong chuỗi giá trị (value chain) ngành
hàng lúa gạo.
3.1. Doanh nghiệp nhập khẩu và cung
ứng vật tư, máy móc nông nghiệp (trừ
xăng dầu).
Số ngoại tệ nhập khẩu vật tư, máy
móc (nói ở phần trên) được Chính phủ
cấp tín dụng với lãi suất hợp lý, không
bao cấp, thông qua đấu thầu để chọn ra ít
nhất 3 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
nông nghiệp nhà nước được khuyến
khích tham gia đấu thầu. Số lượng vật
tư, máy móc nhập khẩu này được bán
theo giá không bù lỗ và có lãi hợp lý.
Chính phủ quy định giá trần.
Bộ Nông nghiệp quy định danh
mục các loại hóa chất và nông dược
được phép sử dụng trong nông nghiệp ở
Cuba và quy định điều kiện cần thiết
phải có về cơ sở vật chất và con người
của các doanh nghiệp kinh doanh các
loại sản phẩm này. Trung tâm bảo vệ
thực vật khuyến cáo cho các doanh
nghiệp, HTX và nông dân về chủng loại

nông dược được sử dụng ở Cuba, phù
hợp với điều kiện sản xuất của các đơn
vị này.
Các doanh nghiệp nông nghiệp
nhà nước, các HTX, trang trại được chọn
làm điểm xây dựng mô hình quản lý mới
sẽ tùy ý chọn, ký hợp đồng trực tiếp đặt
hàng mua vật tư, máy móc nông nghiệp
với các doanh nghiệp nhập khẩu nói trên
(không qua bất kỳ một tổ chức trung
gian nào). Số lượng, chất lượng, thời
gian cung ứng, địa điểm giao nhận hàng,
các chế tài do các bên ký hợp đồng thỏa
thuận trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi. Giá cả thỏa thuận nhưng không được
vượt quá giá trần do Chính phủ quy
định.
Xăng dầu vẫn do hệ thống hiện
hữu nhập khẩu và cung cấp nhưng Nhà
nước bảo đảm một số lượng ngoại tệ
riêng nhập khẩu xăng dầu cung ứng cho
các doanh nghiệp, HTX được chọn làm
mô hình thí điểm. Cơ chế mua bán, giá
cả giống như các loại vật tư khác.
3.2. Doanh nghiệp nông nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, trang trại được chọn
thí điểm mô hình quản lý mới.
3.2.1. Lựa chọn doanh nghiệp nông
nghiệp nhà nước, HTX và trang trại:
a) Tiêu chuẩn lựa chọn doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp có đất sản xuất
lúa và có thể luân canh hoặc chuyên
canh một số cây trồng khác, có thể có
chăn nuôi gia súc, gia cầm;
- Quy mô đất canh tác lúa của
doanh nghiệp khoảng từ 2000 đến 4000
ha. Nếu không chọn được DN có từ 2000
đến 4000 ha và không đủ các điều kiện
41

×