Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.68 KB, 22 trang )

Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
DANH MỤC VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
NTHTT : Người tiến hành tố tụng
NBC : Người bào chữa
CQĐT : Cơ quan điều tra
VKS : Viện kiểm sát
TA : Tòa án
BLHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
1
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp thì
địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối liên hệ với những chủ
thể khác trên cơ sở quy định của pháp luật, thể hiện thành một tổng thể các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn
khả năng của chủ thể đối với các hoạt động pháp lý của mình trong phạm vi
các quyền và nghĩa vụ đó.
Khái niệm địa vị pháp lý của bị can và bị cáo được quy định trong hệ
thống pháp luật có thể được hiểu như sau:
Địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người
đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Theo
khoản 1 Điều 49 BLTTHS 2003 có thể xác định bị can là người đã bị khởi tố
về hình sự và có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tư cách tham gia tố
tụng của mình.
Tại Điều 50 BLTTHS 2003 thì “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết
định đưa ra xét xử”. Nhìn chung địa vị pháp lý của bị cáo là tổng thể quyền


và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người đã bị Tòa án đưa ra xét xử.
Việc xác định rõ địa vị pháp lý của bị can, bị cáo có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình tiến hành các hoạt động TTHS, nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền, lợi ích của bị can, bị cáo cũng như giúp cho các hoạt động
của CQTHTT, NTHTT được nghiêm minh, công bằng, bảo giúp cho pháp
luật được thực thi nghiêm minh trên thực tế.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
2
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TTHS
1. Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can.
1.1. Những quy định về quyền của bị can.
Quyền của bị can được quy định tại Điều 49 BLTTHS 2003, gồm các
quyền:
(1). Được biết mình bị khởi tố về tội gì;
Đây là quyền quan trọng đầu tiên và quyền ảnh hưởng rất lớn đến việc
thực hiện các quyền khác của bị can, vì vậy các nhà làm luật đã đặt quyền
này lên đầu tiên khi xây dựng các quy định của pháp luật về quyền của bị
can. Bị can cần phải biết mình bị khởi tố về tội gì, theo điều nào của Bộ luật
hình sự để từ đó có thể chủ động tiến hành việc tự bào chữa hay nhờ NBC
cho mình. Quyết định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền phải có đầy
đủ nội dung theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 126 BLTTHS
2003 và phải được tống đạt đến bị can. CQĐT có trách nhiệm phải giao ngay
quyết định khởi tố bị can và giải thích các quyền và nghĩa vụ của bị can.
Quy định này thể hiện sự công bằng, bình đẳng và tiến bộ của pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Khi nhà nước trao cho các cơ quan có thẩm quyền
quyền lực trong tay để tiến hành các hoạt động tố tụng với bị can, thì bị can
cần phải được biết mình bị khởi tố về tội gì một cách công khai, minh bạch

để có thể thực hiện tốt nhất việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của
mình.
BLTTHS 1988 quy định: “bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội
gì”, thì đến BLTTHS 2003 có sửa đổi, bổ sung thêm: “bị can có quyền được
biết mình bị khởi tố về tội gì”.
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
3
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
Việc thêm từ “được” đã làm thay đổi hoàn toàn trách nhiệm của các bên chủ
thể trong quan hệ pháp luật này: ở BLTTHS 1988 bị can ở vào thế chủ động,
bị can có thể phải tự mình tìm hiểu xem mình bị khởi tố về tội gì và các
CQTHTT phải tạo điều kiện để họ biết. Tuy nhiên BLTTHS 2003 thêm từ
“được” đã đưa bị can vào thế bị động,nhưng thế bị động này có lợi cho bị
can vì cùng với đó là trách nhiệm của CQTHTT cũng theo đó mà tăng lên,
CQTHTT bắt buộc phải cho bị can biết mình bị khởi tố về tội gì chứ không
phải là bị can tự tìm hiểu. Sự thay đổi này là một sự tiến bộ hơn, có ý nghĩa
quan trọng trong các quy định về quyền của bị can.
(2). Được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can cũng chính là CQTHTT,
NTHTT đã chỉ ra cho bị can hiểu rõ địa vị pháp lý của mình. Từ đó họ có thể
biết mình đang trong tình trạng pháp lý nào, đang có quyền và phải có nghĩa
vụ gì.
Theo quy định tại khoản 6, Điều 126 BLTTHS 2003 thì CQĐT phải
đảm bảo việc giao quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ
cho bị can được thực hiện. Bị can có quyền yêu cầu giải thích về các quyền
và nghĩa vụ mà mình chưa nắm rõ cũng như hỏi về cách thức thực hiện các
quyền mà pháp luật đã quy định cho họ để từ đó khi tham gia tố tụng họ có
thể bảo vệ được quyền lợi của mình một cách hợp pháp.
Trong thực tế có nhiều trường hợp bị can không hề được giải thích về
nghĩa vụ của mình mà chủ yếu là nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ

quan có thẩm quyền, dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp bị can vi phạm
nghĩa vụ này nên đã bị áp giải, bị truy nã trong khi bị can không hề có ý định
bỏ trốn.
Đây là một quyền quan trong của bị can nhưng trước đây, BLTTHS
1988 không ghi nhận cho bị can có quyền này. Trước nhu cầu của tình hình,
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
4
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
thực trạng nêu trên nên BLTTHS 2003 đã bổ sung, đấy là một sự thay đổi
tiến bộ hợp lý, tăng cường cho bị can những quyền cần thiết để bảo vệ mình
trước sự buộc tội của CQTHTT.
(3). Trình bày lời khai.
Là đối tượng bị buộc tội bị can có quyền bào chữa, gỡ tội. Việc trình
bày lời khai là một trong các cách thức để bào chữa cho mình của bị can. Bị
can có quyền trình bày các tình tiết, sự việc có liên quan đến vụ án để đưa ra
bằng chứng chứng minh cho mình trước sự buộc tội của CQTHTT. Việc khai
báo, trình bày lời khai là một quyền chứ không phải là một nghĩa vụ của bị
can. Do đó bị can có thể khai báo hoặc không khai báo. Pháp luật không đặt
ra trách nhiệm cho bị can trong trường hợp không khai báo hoặc khai báo
không đúng sự thật, nhưng pháp luật khuyến khích bị can khai báo thành
khẩn, đúng sự thật để có căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can.
Khi bị can trình bày lời khai của mình thì NTHTT phải tôn trọng và
có nhiệm vụ ghi chép thu thập những thông tin từ lời khai đó để làm chứng
cứ cho vụ án. Lời khai của bị can có thể được ghi lại dưới dạng văn bản hoặc
hình ảnh, âm thanh, sau đó điều tra viên đều cho bị can đọc lại, hoặc nghe lại
rồi ký tên vào biên bản. Việc trình bày lời khai chính là việc bị can đang
thực hiện quyền bào chữa của mình.
Theo luật định thì trình bày lời khai là quyền của bị can nhưng trên
thực tế có nhiều trường hợp điều tra viên vi phạm quy định này như đã dùng
hình thức hỏi cung, trái pháp luật (bức cung, ép cung bị can…). Cá biệt có

nhiều trường hợp bị can không khai báo, điều tra viên còn tra tấn, bức cung
dùng nhục hình để lấy được lời khai của bị can theo ý muốn của mình. Đây
là một sự vi phạm quyền nghiêm trọng cần được xem xét và xử lý.
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
5
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
Quyền trình bày lời khai là một quyền mới của bị can được quy định
trong BLTTHS 2003, làm tăng thêm cách thức thực hiện các quyền bào chữa
của bị can.
(4). Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Bị can có quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án để
chứng minh cho sự vô tội của mình. Những đồ vật này có thể là vật dụng của
bị can, người bị hại, vũ khí hay vật dụng khác hoặc những tài liệu liên quan.
Trong BLTTHS 1988 quy định: “bị can có quyền đưa ra chứng cứ và những
yêu cầu”, đến BLTTHS 2003 thì: “bị can có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu
yêu cầu”. Đây là một sự thay đổi hợp lý vì những đồ vật, tài liệu mà bị can
đưa ra sẽ được coi là chứng cứ nếu được NTHTT thu thập theo trình tự, thủ
tục luật định.
Bị can cũng có quyền đưa ra các yêu cầu: yêu cầu có luật sư bào chữa,
thay đổi người tiến hành tố tụng… hoặc đưa ra các yêu cầu khác như trưng
cầu giám định, giám định lại hoặc điều tra lại nếu thỏa mãn các yêu cầu về
thủ tục mà pháp luật quy định.
(5). Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch.
Pháp luật ghi nhận quyền yêu cầu thay đổi NTHTT của bị can tại
khoản 2 Điều 43 BLTTHS 2003. Bị can có quyền này vì họ là đối tượng bị
buộc tội trong vụ án, do vậy hơn ai hết họ là người trước tiên có quyền yêu
cầu thay đổi NTHTT. Tùy theo yêu cầu thay đổi từng NTHTT và chức vụ
khác nhau mà căn cứ vào từng điều luật theo quy định từ Điều 44 đến Điều
47 BLTTHS 2003 mà người có thẩm quyền quyết định thay đổi hay không

thay đổi NTHTT theo yêu cầu của bị can.
Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám
định theo quy định của pháp luật. Kết quả giám định chứng minh cho hành
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
6
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
vi của bị can có cấu thành tội phạm hay không, do đó bị can có quyền yêu
cầu thay đổi người giám định.
Trong trường hợp có người phiên dịch, nếu người này phiên dịch không
trung thực hoặc không có khả năng phiên dịch chính xác thì cũng có thể làm
sai lệch vụ án, có thể sẽ ảnh hưởng đến bị can, do đó bị can có quyền yêu
cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch phải từ chối hoặc thay đổi
nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 62 BLTTHS
2003.
(6). Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
Quyền bào chữa của bị can là một nguyên tắc được Hiến định (Điều
132 hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001), và luật định. Điều 12 BLTTHS
2003 ghi nhận: “bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa, CQĐT, VKS và TA có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ”.
Quyền bào chữa của bị can được thể hiện dưới 2 hình thức: tự bào
chữa và nhờ người khác bào chữa.
Đối với quyền tự bào chữa của bị can được thực hiện trong tất cả các
giai đoạn mà bị can tham gia. Bị can có thể dùng lời khai, đưa ra những đồ
vật, tài liệu để chứng minh cho sự vô tội của mình.
Bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật cũng quy định cho bị can
quyền nhờ người bào chữa cho mình. NBC có thể là luật sư, bào chữa viên
nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của bị can. NBC sử dụng quyền
năng mà pháp luật cho phép để bảo vệ tốt nhất cho thân chủ của mình.
Thông thường, NBC do bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ

lựa chọn. Nhưng trong trường hợp bị can bị truy tố về tội có mức hình phạt
cao nhất là tử hình theo BLHS hoặc bị can là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, mà bị can hoặc người đại diện hợp
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
7
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng Hình sự
pháp của bị can không mời NBC thì pháp luật bắt buộc CQTHTT phải cử
NBC cho bị can vì trong trường hợp này bị can bất lợi hơn và khả năng thực
hiện được quyền tự bào chữa của bị can là không cao.
(7). Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng.
Bị can có quyền được nhận các quyết định khởi tố quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra,
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản cáo trạng, quyết định truy tố, và
các quyết định khác theo quy định của pháp luật có liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của bị can. Việc nhận các quyết định tố tụng này giúp vị can nắm
được tình hình giải quyết vụ án cũng như tình trạng pháp lý của mình, để từ
đó có thể chủ động trong các hoạt động tố tụng mà mình tham gia. Đây cũng
là một quyền bổ trợ cho bị can thực hiện quyền bào chữa cho mình.
(8). Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Các quyết định của CQTHTT, NTHTT ban hành trong các giai đoạn
tố tụng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can, thì bị can có
quyền khiếu nại đối với các quyết định đó. Pháp luật chỉ quy định bị can có
quyền khiếu nại đối với các quyết định tố tụng nói chung nên ta có thể hiểu
tất cả các quyết định tố tụng liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can
đều có thể trở thành đối tượng khiếu nại. Trình tự thủ tục tiến hành khiếu nại
và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở đây được pháp luật quy định
rõ ràng tại chương XXXV của BLTTHS 2003.
Quyền khiếu nại của bị can là sự đảm bảo của pháp luật để bị can có
thể bảo vệ quyền lợi của mình và cũng là căn cứ để đánh giá sự tuân thủ

đúng pháp luật của các CQTHTT, NTHTT.
1.2. Nghĩa vụ của bị can
Sinh viên: Phạm Thùy Dương-MSSV: HC33C010
8

×