Bài tập Lớn học kì Môn Luật Hình sự Việt Nam Module 2
BÀI LÀM:
I. LỜI MỞ ĐẦU
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân, vậy mà
tội phạm xâm phạm sở hữu lại chiếm một số lượng không nhỏ. Tội trộm cắp tài sản
là một minh chứng điển hình, đó là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ.
Tuy là một tội phạm phổ biến nhưng biểu hiện khách quan của tội phạm này khá đa
dạng, trong thực tiễn có nhiều trường hợp phạm tội gây tranh cãi, thậm chí nhầm
lẫn giữa tội trộm cắp tài sản với các tội xâm phạm sở hữu khác. Tình huống sau
đây là một ví dụ:
“ A, B, K uống rượu say, đi loạng choạng và ngã ở dọc đường, H và Q phát
hiện chị B cùng với hai người bạn nằm bên đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang
bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say
hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an.”
II. NỘI DUNG
Sở dĩ kết luận H, Q phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại điều 138
BLHS năm 1999 là do hành vi của H và Q đã thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội
này:
a,Mặt khách quan:
Dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu hành vi chiếm đoạt tài sản
cùng với hai dấu hiệu thể hiện tính chất của hành vi chiếm đoạt và tính chất của đối
tượng bị chiếm đoạt – dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ. Hành vi
chiếm đoạt trong CTTP của tội trộm cắp tài sản được thực tiễn xét xử từ trước tới
nay hiểu là chiếm đoạt được. Với cách hiểu như vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ được
coi là hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người
phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa, đã làm chủ được tài sản hay chưa
phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản chiếm đoạt được. Hành vi chiếm đoạt của tội
1
Bài tập Lớn học kì Môn Luật Hình sự Việt Nam Module 2
trộm cắp tài sản có hai dấu hiệu để phân biệt với hành vi chiếm đoạt của của những
tội khác: Dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ.
-Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình
thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi
chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút
nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che giấu hành vi
mình đang thực hiện của mình. Đối với những người khác, ý thức chủ quan của
người trộm cắp tài sản có thể vẫn là công khai. Nhưng trong thực tế, ý thức chủ
quan của người phạm tội trong phần lớn các trường hợp cũng là lén lút, che giấu
đối với người khác. Ý thức lén lút, che giấu có thể là:
• Che giấu toàn bộ hành vi phạm tội như che giấu đối với chủ tài sản hoặc
• Chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi. Ví dụ: Lợi dụng thủ kho đi
vắng, mở cửa kho chuyển hàng lên ô tô một cách đàng hoàng như có việc
xuất hàng bình thường. Trong trường hợp này, người phạm tội không che
giấu hành vi chiếm đoạt thực tế mà chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành
vi. Những người không phải là chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra nhưng
không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản.
-Tài sản là đối tượng của tội trộm cắp tài sản là tài sản đang có chủ. Hành vi lén
lút chiếm đoạt tài sản ở tội trộm cắp tài sản phải là hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản đang có chủ. Hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lí cũng như
hành vi lấy tài sản không có hoặc chưa có chủ đều không phải là hành vi trộm cắp.
Trong tình huống nêu trên, H và Q đã thực hiện hành vi: Hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản: H và Q đã lợi dụng tình trạng chị B và hai bạn của chị say rượu mê
mệt nằm bên đường. Với tình trạng này H và Q đã trộm cắp số nữ trang bằng
vàng trị giá 10 triệu đồng của chị B. Chị B hoàn toàn không biết số nữ trang bị
đánh cắp khi H và Q tiến hành phạm tội, cụ thể, “đến sáng khi tỉnh rượu chị mới
phát hiện số nữ trang này đã mất và đi báo công an”. Dấu hiệu tài sản đang có chủ:
2
Bài tập Lớn học kì Môn Luật Hình sự Việt Nam Module 2
Số nữ trang bằng vàng trị giá 10 triệu đồng mà H và Q chiếm đoạt thuộc sở hữu
của chị B. Trước khi H và Q tiến hành hành vi phạm tội thì số vàng này chị B đang
đeo trên mình.
b. Về mặt khách thể:
Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của công dân
được Luật hình sự bảo vệ. Cụ thể trong tình huống này, đối tượng tác động là tài
sản mà H và Q đã dịch chuyển bất hợp pháp, đó là toàn bộ số nữ trang trị giá 10
triệu đồng. Chị B – chủ tài sản mất quyền sở hữu với tài sản của mình.
c. Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này cũng như các tội xâm phạm sở hữu khác là chủ thể
thường có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi luật định.
d. Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Ở đây, H và Q cùng nhau thực
hiện hành vi lén lút chiếm đoạt số nữ trang bằng vàng mà chị B đang đeo ở trên
người và cùng mong muốn hậu quả xảy ra là lấy số vàng vào tay của mình.
Lỗi của người phạm tội trong tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Tội
phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp và dấu hiệu bắt buộc của tội
phạm. Người phạm tội khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và
mong muốn cho hậu quả xảy ra. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội
biết rằng đang thực hiện một hành động Nhà nước cấm và xã hội lên án. Người
phạm tội cũng nhận thức được về tình trạng sở hữu của tài sản, biết được rằng tài
sản họ chiếm đoạt là tài sản của người khác, hành động chiếm đoạt đó là trái pháp
luật.
Xét tình huống đặt ra, lỗi của H và Q cũng là lỗi cố ý trực tiếp. Khi nhìn thấy
chị B và số nữ trang của chị B vì có ý định chiếm đoạt nên chúng đã lấy đi. Mặc dù
biết rõ hành vi của mình là phạm pháp nhưng H và Q vẫn cố ý thực hiện hành vi
3
Bài tập Lớn học kì Môn Luật Hình sự Việt Nam Module 2
phạm tội và mong muốn cho hậu quả xảy ra là lấy đi được tài sản mà không để cho
chị B phát hiện.
Kết luận: Vậy hành vi của H và Q hoàn toàn thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội
trộm cắp tài sản theo Điều 138 BLHS năm 1999.
Hành vi của H và Q cấu thành tội trộm cắp tài sản chứ không cấu thành
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, vì:
Các tội xâm phạm sở hữu nói chung đều xâm phạm tới quan hệ sở hữu, tuy
nhiên về mặt khách quan của các tội lại khác nhau. Tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản khác với tội trộm cắp tài sản như sau:
Khoản 1 Điều 137 BLHS quy định: “Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản
của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc
dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Có thể hiểu về công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau: “Công nhiên chiếm
đoạt tài sản là lợi dụng lúc chủ tài sản không có khả năng ngăn cản để công nhiên
chiếm đoạt tài sản của họ”. Cụ thể, hành vi khách quan của tội này được biểu hiện
là hành vi “chiếm đoạt tài sản một cách công nhiên”. Hành vi này có tính chất công
khai. Và hành vi này xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện
ngăn cản. Người phạm tội không cần và không có ý định có bất cứ thủ đoạn nào
khác đề đối phó với người có trách nhiệm với tài sản, người phạm tội không cần
dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần chủ tài sản, cũng như không
cần chạy trốn, nhanh chóng tẩu thoát, v.v….
Còn đối với tình huống trên, H và Q cũng thực hiện việc chiếm đoạt tài sản là
số trang sức của chị B trong hoàn cảnh chị B đang nằm mê mệt vì say rượu, và lợi
dùng hoàn cảnh của chị B đang không có khả năng chống cự, phản kháng mà H và
Q đã không cần có bất cứ tác động ngoài nào khác lấy đi toàn bộ số nữ trang.
4
Bài tập Lớn học kì Môn Luật Hình sự Việt Nam Module 2
Tuy nhiên, vấn đề cần xem xét ở trong tình huống trên là phải phân biệt được
người chủ tài sản là người không có điều kiện ngăn cản và người chủ tài sản là
người không có khả năng nhận thức để chống cự. Đối với tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản, người chủ tài sản phải là người không có điều kiện ngăn cản, chứ
không phải là người không có khả năng nhận thức để chống cự, tức là chủ tài sản
vẫn nhận biết được việc mình đang bị chiếm đoạt tài sản, nhưng vì một lý do khách
quan, một trở ngại nào đó nên dù biết cũng không có cách nào ngăn chặn.
Ví dụ, hành vi chiếm đoạt tài sản có thể thực hiện khi chủ sở tài sản đang ở
cách xa tài sản như người thợ điện đang sửa chữa điện trên cột điện và anh ta bị
chiếm đoạt chiếc xe máy để ở dưới gốc cây gần đó. Như vậy, cần phải hiểu hành vi
chiếm đoạt tài sản một cách công nhiên là chiếm đoạt ngay dưới sự nhận thức và
quan sát của chủ sở hữu.
Còn trong tình huống này, do lâm vào tình trạng say rượu, nên chị B nằm mê
man mà hoàn toàn không có khả năng nhận thức được là mình đang bị chiếm đoạt
số nữ trang của mình. Chỉ khi đến gần sáng, khi cơ say hết thì chị B mới biết mình
bị mất tài sản và đi báo công an. Nhưng đến lúc này thì hành vi phạm tội của H và
Q đã kết thúc và tội phạm của H và Q cũng đã hoàn thành.
Do đó, hành vi chiếm đoạt tài sản của H và Q trong tình huống này cũng
không thể coi là công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Hành vi của H và Q cũng không phải là tội cướp tài sản vì Theo qui định
của điều 133 BLHS có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi của
tội cướp tài sản:
- Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc
không có công cụ phạm tội) tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt
sự chống cự của người này chống lại hành vi chiếm đoạt. Hành vi dùng vũ lực
trước hết phải nhằm vào con người. Người bị tấn công ở đây có thể là chủ tài sản
hoặc người có trách nhiệm quản lí hay bảo vệ tài sản nhưng có thể là bất kì ai mà
5