Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề Tài Sáng chế - Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.95 KB, 22 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
MÔN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Đề Tài
Sáng chế - Một số vấn đề pháp lý
và thực tiễn
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
Trong xã hội hiện đại cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao, song song với
đó, nhu cầu của con người ngày càng đòi hỏi cao hơn. Thế nhưng, nhằm thỏa mãn nhu
cầu của mình, con người không thể trông chờ vào sự ban ơn của tự nhiên mà còn phải
tiến hành sản xuất, muốn sản xuất con người phải có nguồn lực vật chất, nguồn lực tài
chính, nguồn lực công nghệ….và hợp thành nguồn lực cho sự phát triển, trong đó nguồn
lực con người là yếu tố nền tảng và quan trọng nhất. Khi chúng ta đề cập đến tính nền
tảng của nguồn nhân lực tức đề cập ra đến sự sáng tạo của những nguồn lực lao động,
nguyên nhiên vật liệu, năng lượng để thay thế cho hoạt động lao động của con người, tạo
ra nhưng bước nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất, thể hiện khả năng chế ngự, làm chủ và
khai thác tự nhiên của con người. Còn khi đề cập đến khía cạnh quan trọng nhất của
nguồn nhân lực đó là nói đến sự sáng tạo của con người là vô tận, sự sáng tạo đó dẫn đến
ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm mà sản phẩm đó có chức năng như một phương tiện đáp
ứng nhu cầu của con người. Nó được xem như là một biện pháp kỹ thuật nhằm giải quyết
một vấn đề xác định hay nói cách khác đó chính là giải pháp kỹ thuật. Tuy nhiên không
phải tất cả giải pháp kỹ thuật đều được bảo hộ mà chỉ những giải pháp kỹ thuật đáp ứng
các tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế được pháp luật quy định mới được công nhận là sáng chế.
PHẦN I: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của sáng chế ở Việt Nam.
Trước đây, sáng chế là một chế định còn non trẻ và mới được hình thành vào những năm
60 của thế kỷ XX chia làm 4 giai đoạn: giai đoạn trước năm 1981: hệ thống pháp luật về
sở hữu còn sơ sài, tại giai đoạn này chưa có văn bản nào quy định về việc bảo hộ các tài
sản trí tuệ. Tuy nhiên Nhà nước vẫn có chính sách nhằm khuyến khích hoạt động sáng
tạo của con người giúp phần đóng góp vào công cuộc xây dựng và ổn định đất nước. Giai
đoạn 1981-1989: có thể nói đây là giai đoạn đánh dấu một bước ngoặt phát triển trong
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đó chính là việc văn bản pháp luật đầu tiên về sở hữu công
nghiệp nói chung và sáng chế nói riêng đã được nhà nước ta ban hành. Thông qua văn


bản này Nhà nước ta đã ban hành điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật-hợp lí hóa sản
xuất và sáng chế. Theo đó, mọi nổ lực sáng tạo và kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất mang lại
các lợi ích thiết thực cho Nhà nước, xã hội và cơ quan đều được đền đáp về tinh thần và
vật chất. Văn bản pháp luật này thiết lập hình thức bảo hộ sáng chế, theo đó nhà sáng chế
chỉ có các quyền nhân thân của tác giả sáng chế, còn độc quyền sáng chế thuộc về Nhà
nước. Các văn bản pháp luật liên quan tới sáng chế trong giai đoạn này có thể kể đến
như: Nghị định số 31/CP ngày 23/01/1981; Nghị định số 200/HĐBT ngày 28/12/1988 qui
định về điều kiện bảo hộ giải pháp hữu ích; Nghị định số 201/HĐBT ngày 28/12/1988
Hành Chính 1- K35 Trang 2
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
quy định về mua bán về quyền sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích. Tuy nhiên, có thể dễ
dàng nhận thấy rằng câc quy định của nhà nước về bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế và điều kiện bảo hộ sáng chế trong giai đoạn này là chưa thật sự hiệu quả, giá trị
pháp lí còn thấp. giai đoạn 1989-2005: giai đoạn này phải kể đến hai mốc lịch sử quan
trọng. Thứ nhất, năm 1995 khi mà Bộ luật dân sự 1995 được ban hành trong đó có quy
định về quyền sở hữu công nghiệp theo đó lần đầu tiên nước Việt Nam công nhận sở hữu
trí tuệ là một quyền dân sự. Mốc quan trọng thứ hai trong giai đoạn này đó chính là việc
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được chính phủ thông qua đáng dấu bước ngoặt mới trong chế
định Luật Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Với việc ban hành một chế định pháp luật riêng đã
dần đưa sở hữu trí tuệ Việt Nam gia nhập vào hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ quốc tế và
đương nhiên điều kiện về bảo hộ sáng chế cũng được thiết lập theo hướng phù hợp hơn
các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế thời kì hiện đại. Các quy định về đối tượng,
tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế cũng được
hoàn thiện hơn. Và giai đoạn 2005 tới nay: có thể thấy Luật Sở hữu trí tuệ là một chế
địng pháp luật ít phải sửa đổi nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Kể từ khi hình
thành phải đến năm 2009 căn cứ theo các chính sách xã hội và điều kiện tự nhiên, Chính
phủ ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Mặc dù
mới được hình thành nhưng có thể thấy chế định Luật sở hữu trí tuệ nói chung và sáng
chế nói riêng đạt được những thành công nhất định. Theo thời gian và tiến trình phát triển
của xã hội, các quy định pháp luật của Việt Nam liên quan tới việc bảo hộ sáng chế và

điều kiện bảo hộ sáng chế được hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh mới trong
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Theo Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “ Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới
dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng
các quy luật tự nhiên”. Từ định nghĩa sáng chế trên ta có thể thấy được bản chất của sáng
chế là giải pháp kỹ thuật. Giải pháp kỹ thuật có thể dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình và
đó phải những sản phẩm hoặc quy trình do con người sáng tạo ra chứ không phải là
những gì tồn tại trong tự nhiên và được con người phát hiện ra. Sáng chế bao gồm các
đặc điểm sau: thứ nhất, bản chất sáng chế tạo ra phương tiện mới về nguyên lý kỹ thuật,
chưa từng tồn tại hoặc đã tồn tại trong một nhóm nhỏ song không phổ biến và là bí mật
đối với cộng đồng; thứ hai, nó không có khă năng để giải thích thế giới nhưng có khả
năng áp dụng trực tiếp hoặc qua thử nghiệm để ứng dụng vào sản xuất và đời sống; thứ
ba, có giá trị thương mại mua bán bằng sáng chế và giấy phép; thứ tư, sáng chế bị tiêu
vong theo sự tiến bộ của công nghệ và nhằm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Mặt
khác, trong các tài sản trí tuệ, sáng chế có vai trò đặc biệt quan trong đối với doanh
nghiệp cũng như là yếu tố quyết định tiềm lực khoa học công nghệ của một quốc gia, là
một trong những yếu tố xác định tính cạnh tranh của nền kinh tế, là yếu tố thúc đẩy gia
Hành Chính 1- K35 Trang 3
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
tăng mức sống và các điều kiện kinh tế xã hội khác chính vì thế sáng chế cần được bảo
hộ. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn sáng chế chúng ta cần phân biệt sáng chế với giải pháp hữu
ích, sáng chế với phát minh, và sáng chế với sáng kiến. Việc bảo hộ giải pháp hữu ích
khác biệt với bảo hộ sáng chế ở những khía cạnh: một là, tiêu chuẩn của tính mới giải
pháp hữu ích thấp hơn tính mới của sáng chế mặc dù tại Việt nam pháp luật sáng chế và
giải pháp hữu ích đều phải có mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới; hai là, yêu cầu về
tính sáng tạo của giải pháp hữu ích thấp hơn so với sáng chế; ba là, thời hạn bảo hộ của
giải pháp hữu ích ngắn hơn so với thời hạn bảo hộ sáng chế; bốn là, đối tượng bảo hộ giải
pháp hữu ích hẹp hơn so với sáng chế, tuy nhiên bảo hộ sáng chế và giải pháp hữu ích có
rất nhiều điểm tương đồng. Về bản chất, cả hai đều phải đáp ứng các yêu cầu về tính mới
về khả năng áp dụng công nghiệp, thủ tục xác lập quyền về cơ bản là giống nhau, các

quyền của chủ sở hữu của cả hai được pháp luật quy định cũng tương tự nhau. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, giải pháp hữu ích được xem là một dạng đặc biệt
của sáng chế, có mức độ sáng tạo thấp hơn sáng chế và có thời hạn bảo hộ ngắn hơn.
Giữa sáng chế và phát minh thì phát minh là việc tìm ra một sự vật hiện tượng hoặc quy
luật đã tồn tại trong thế giới tự nhiên chứ không phải do con người sáng tạo ra. Còn sáng
chế hoặc là không có sẵn trong tự nhiên mà do con người sáng tạo ra hoặc một cái gì đã
có trong tự nhiên nhưng được con người tác động có chủ đích để biến đổi, hoàn thiện và
cách tạo ra cái vốn không có hoặc phương thức biến đổi cái vốn đã có nói trên. Mặc dù,
phát minh không trực tiếp làm thay đổi tự nhiên nhưng bắt nguồn từ phát minh có thể
hàng loạt sáng chế ra đời. Cuối cùng giữa sáng chế và sáng kiến ta thấy so với sáng chế,
sáng kiến là đối tượng có trình độ sáng tạo kỹ thuật thấp hơn sáng chế, thậm chí thấp hơn
cả giải pháp hữu ích, yêu cầu về tính mới cũng rất thấp chỉ cần sáng kiến có tính mới
trong phạm vi một cơ quan tổ chức là có thể được công nhận là sáng kiến.
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế, nếu đáp ứng các điều
kiện sau: Một là, sáng chế phải có tính mới. Sáng chế được coi là tính mới nếu chưa bị
bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào
khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước
ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Tại Việt
Nam, giải pháp kỹ thuật được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình
thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc
nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường
hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Để đánh giá tính mới của giải pháp
kỹ thuật yêu cầu được bảo hộ sáng chế/ giải pháp hữu ích cần phải tiến hành so sánh các
dấu hiệu cơ bản của giải pháp kỹ thuật đó với các dấu hiệu cơ bản của giải pháp kỹ thuật
đối chứng được tìm thấy trong quá trình tra cứu thông tin. Pháp luật Việt Nam có quy
định sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được
Hành Chính 1- K35 Trang 4
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
biết và có nghĩa vụ giữ bí mất về sáng chế đó. Sáng chế cũng không bị coi là mất tính
mới nếu được công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế

được nộp trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố: Sáng chế bị người khác công bố
nhưng không được phép của người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật Sở
hữu trí tuệ. Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật Sở hữu
trí tuệ công bố dưới dạng báo cáo khoa học. Sáng chế được người có quyền đăng ký quy
định tại Điều 86 của Luật Sở hữu trí tuệ trưng bày tại các triển lãm của Quốc gia Việt
Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận chính thức. Hai là,
sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo. Nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được
công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào
khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của
đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế
đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người hiểu
biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. Mục tiêu bảo hộ sáng chế là khuyến khích
sáng tạo công nghệ vì vậy sáng tạo là yêu cầu bắt buộc đối với sáng chế. Để đánh giá
được bản chất của những khác biệt tạo nên trình độ sáng tạo, cần phải xem xét toàn bộ
tình trạng kỹ thuật đã biết. Do đó, việc đánh giá trình độ sáng tạo thường được tiến hành
trên ba khía cạnh: vấn đề mà sáng chế giải quyết, giải pháp giải quyết vấn đề đó, các ưu
điểm của sáng chế so với tình trạng kỹ thuật đã biết. Tại Việt Nam, sáng chế được coi là
có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới
hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước
hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế
trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Giải pháp kỹ thuật bị
coi là không có trình độ sáng tạo nếu rơi vào các trường hợp sau: tập hợp các dấu hiệu cơ
bản khác biệt mang tính hiển nhiên; tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt đã được bộc lộ
dưới dạng đồng nhất hoặc tương đương trong một số giải pháp kỹ thuật nào đó đã biết
trong nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc; giải pháp kỹ thuật là sự kết hợp đơn giản của
các giải pháp kỹ thuật đã biết với chức năng, mục đích và hiệu quả cũng là sự kết hợp
đơn giản chức năng, mục đích, hiệu quả của từng giải pháp kỹ thuật đã biết. Ba là sáng
chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp. Nếu có thể thực hiện được việc chế
tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình nội dung của sáng
chế và thu được kết quả ổn định. Theo pháp luật Việt Nam, việc đánh giá xem sáng chế

có khả năng áp dụng công nghiệp hay không phải được thực hiện trước khi đánh giá tính
mới và tính sáng tạo của sáng chế. Để đánh giá khả năng có thể thực hiện được giải pháp
kỹ thuật cần căn cứ vào các yếu tố sau: các thông tin về bản chất của giải pháp cùng với
các chỉ dẫn về điều kiện kỹ thuật cần thiết được trình bày một cách rõ ràng đầy đủ đến
mức cho phép người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể tạo ra,
Hành Chính 1- K35 Trang 5
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
sản xuất hoặc có thể sử dụng; việc tạo ra, sản xuất ra và sử dụng hoặc khai thác và thực
hiện các giải pháp nêu trên có thể được lặp đi lặp lại với kết quả giống nhau. Xuất phát từ
yêu cầu của sáng chế là giải pháp kĩ thuật giúp giải quyết một vấn đề thực tiễn nên có thể
khả năng áp dụng công nghiệp là một yêu cầu luôn gắn liền với thực tiễn xã hội. Sáng
chế phải gắn liền với những hiện thực khách quan, không thể đưa ra những giải pháp mà
không thể sử dụng trong thực tiến xã hội được. Chính vì vậy, để đánh giá khả năng áp
dụng công nghiệp của giải pháp kỹ thuật người ta thường căn cứ vào các yếu tố sau: Quy
luật tự nhiên rõ ràng một giải pháp kỹ thuật dù sáng tạo đến đâu mà trái với quy luật tự
nhiên thì không thể mang lại lợi ích gì cho xã hội khi mà giải pháp đó không thể tồn tại
trên thực tiễn trong tự nhiên (Ví dụ: sáng chế bảo hộ cho một loại động cơ vĩnh cửu); khả
năng áp dụng trong thực tế: các đối tượng mặc dù về mặc lý thuyết là có thể được nhưng
xét về mặt thực tế thì bị coi là không có khả năng áp dụng công nghiệp; việc thực hiện
lặp lại đối tượng: giải pháp kỹ thuật đề cập trong sáng chế sẽ không có khả năng áp dụng
công nghiệp trong trường hợp chỉ có thể thực hiện các chỉ dẫn về đối tượng trong một số
giới hạn lần thực hiện, hoặc kết qua thu được trong các lần thực hiện không đồng nhất
với nhau, hoặc kết quả thu được khác với bản nêu kết quả sáng chế; hiệu quả của giải
pháp: đương nhiên các giải pháp không có ích lợi hoặc không phục vụ nhu cầu của xã
hội, thậm chí gây tác hại như gây ô nhiễm môi trường, tiêu phí quá mức năng lượng và
tài nguyên, có hại cho sức khỏe con người thì bị coi là không có khả năng áp dụng công
nghiệp.
Có thể nói, khoa học công nghệ và sáng tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
cuộc sống hằng ngày. Những bước tiến lớn trong khoa học công nghệ thời xa xưa đã đưa
loài người thoát khỏi hình thái xã hội phong kiến. Trong khoảng một thế kỉ trở lại đây,

khả năng dẫn dắt của công nghệ mà cụ thể là sáng chế, đã làm thay đổi tiến trình vận
động của nhân loại, trở thành một yếu tố quyết định tạo ra sự thịnh vượng của các quốc
gia. Khi sáng chế chứng minh được tầm quan trọng của mình thì cũng là lúc việc bảo hộ
sáng chế trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. “Hệ thống bằng độc quyền sáng chế đổ
thêm dầu lợi ích vào ngọn lửa thiên tài” (Abraham Lincon). Câu nói trên phần nào đã nói
lên tầm quan trọng của hệ thống bằng độc quyền sáng chế. Đặc biệt trong thời đại ngày
nay, khi mà vấn đề tri thức được coi là then chốt, là một nhân tố quan trọng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của một quốc gia, thì vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung
và bảo hộ sáng chế nói riêng càng trở nên có ý nghĩa. Bảo hộ sáng chế không chỉ mang
lại lợi ích cho chủ sở hữu sáng chế, mà còn tác động đến cả nền kinh tế xã hội, cụ thể bảo
hộ sáng chế có những ý nghĩa sau: Trước hết, khuyến khích sáng tạo ra công nghệ mới –
sáng chế không dễ dàng được tạo ra mà đòi hỏi sự đầu tư nghiên cứu, thời gian, công sức
của nhà sáng chế nhưng lại rất dễ bị sao chép (làm đúng như vất gốc), dễ bị bắt chước
(làm theo kiểu của người khác) và đưa vào khai thác để sinh lời, nếu không có bảo hộ thì
Hành Chính 1- K35 Trang 6
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
ai cũng có thể khai thác sáng chế đó mà không phải hao phí cho việc đầu tư nghiên cứu.
Bị đối thủ cạnh tranh cướp đoạt thành quả lao động và lợi nhuận, nhà sáng chế và người
đầu tư kinh phí sẽ không còn động lực để lặp lại quy trình sáng tạo, bởi vì họ đầu tư lớn
mà thành công lại nhỏ. Điều này sẽ gây tổn thất không chỉ cho bản thân nhà sáng chế mà
làm ảnh hưởng đến cả xã hội, Do đó, tăng cường bảo hộ sáng chế sẽ ngăn chặn việc sử
dụng các sản phẩm khoa học công nghệ một cách bất hợp pháp giúp chủ sở hữu có thể
bảo vệ được thành quả sáng tạo của mình và tiếp tục đầu tư phát triển tạo ra sáng chế
mới. Bên cạnh đó, việc bảo hộ sáng chế còn tạo môi trường kinh doanh lành mạnh – nếu
không có hệ thống bảo hộ sáng chế, các đối thủ cạnh tranh trên thị trường sẽ không cần
đầu tư sáng tạo mà đơn giản chỉ cần bắt chước, sao chép các sáng chế của người khác với
chi phí rẻ hơn nhiều. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi
vốn để bù đắp những chi phí cần thiết trong quá trình triển khai, chứ chưa nói đến việc
tiếp tục đầu tư, lặp lại quá trình sáng tạo. Và rất có thể họ sẽ bị chính các đối thủ cạnh
tranh của mình loại ra khỏi thị trường. Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với

sáng chế cũng như các đối tượng sở hữu công nghiệp khác một cách không thỏa đáng bị
coi là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Ngược lại, bảo hộ sáng chế có hiệu quả
chính là nhằm giữ gìn một môi trường trong sạch cho các hoạt động sáng tạo và kinh
doanh, từ đó đảm bảo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc bảo hộ
sáng chế còn tạo điều kiện cho hoạt động chuyển giao công nghệ và đầu tư – một hệ
thống bằng độc quyền sáng chế mạnh và thực thi phù hợp còn là điều kiện tiên quyết cho
hoạt động chuyển giao công nghệ và đầu tư, thông qua việc tạo ra một môi trường an
toàn cho các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh và tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
Chính vì vậy việc bảo vệ sáng chế tạo ra và giữ gìn một môi trường trong sạch cho hoạt
động kinh doanh và sáng tạo. Nhật Bản chính là một ví dụ điển hình của việc sử dụng hệ
thống bằng độc quyền sáng chế để thúc đẩy chuyển giao công nghệ và đầu tư. Khi phát
động vòng đàm phán Kenedy của GATT, Tổng thống Mỹ Kenedy chỉ coi Nhật Bản như
một nước đang phát triển, một sự khác biệt hoàn toàn so với Nhật Bản ngày nay.Các nhà
xây dựng chính sách của nước này đã dựa vào hệ thống bằng độc quyền sáng chế để xúc
tiến đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, góp phần phát triển kinh tế quốc dân,
biến Nhật Bản từ một nước đang phát triển thành một nước phát triển hang nhất nhì trên
thế giới. Một ví dụ khác, Braxin và Ấn Độ, hai nước đã chứng kiến sự tăng trưởng đáng
kể và liên tục trong đầu tư trực tiếp nước ngoài sau khi họ tăng cường luật về bằng độc
quyền sáng chế đầu những năm 1990. Không những thế, việc bảo hộ sáng chế còn làm
giàu tri thức công nghệ - để được cấp bằng độc quyền sáng chế, tác giả phải bộc lộ công
khai các chi tiết sáng chế của mình ra xã hội. Như vậy, thông tin có trong sáng chế có thế
được mọi người dùng cho việc nghiên cứu các mục đích thực nghiệm. Sau khi hết thời
hạn bằng độc quyền sáng chế, thông tin đó trở thành thông tin chung và mọi người được
Hành Chính 1- K35 Trang 7
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
tự do sử dụng thương mại những thông tin đó, làm giàu thêm tri thức công nghệ. Thông
qua tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển, việc bảo vệ sáng chế sẽ tạo ra nhiều việc
làm mới, làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, và tạo nguồn thu cho ngân sách thông qua việc nộp
thuế. Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng cũng không thể phủ nhận tầm quan
trọng của việc bảo hộ sáng chế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Cũng

chính vì những lợi ích bằng độc quyền sáng chế đem lại mà tại Việt Nam trong những
năm qua, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đã trở thành một
trong những mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và toàn xã hội. Vì vậy, việc
xây dựng và cùng có hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và đối với
sáng chế nói riêng là yêu cầu cấp bách trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước.
PHẦN 2: Thực tiễn bảo vệ sáng chế ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.
Khái niệm về bằng sáng chế dựa trên cơ sở thỏa hiệp có đi, có lại. Nhà phát minh
hay sáng chế có quyền tối cao trong việc sử dụng phát minh của mình trong một thời gian
nhất định. Và đổi lại, quy định của hầu hết các quốc gia đều yêu cầu nhà phát minh công
khai phương pháp tìm ra phát minh để cho mọi người có thể hiểu và học hỏi được từ
những phát minh này. Nhà sáng chế được khuyến khích về mặt kinh tế để chấp nhận rủi
ro và sáng tạo; xã hội nhận được lợi ích của phát minh và kiến thức của họ được ứng
dụng trong những lĩnh vực khác. Việc bảo hộ chặt chẽ sở hữu trí tuệ không những chỉ
thúc đẩy sức sáng tạo mà còn tạo ra niềm tin vững chắc vào nền kinh tế đó, đủ để thu hút
đầu tư nước ngoài và tăng cường chuyển giao công nghệ.
Hành Chính 1- K35 Trang 8
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
Những thành công cơ bản trong bảo vệ sáng chế ở Việt Nam thời gian qua là khá rõ
nét và đáng được ghi nhận. Theo đó, từ một nền kinh tế khép kín, sản xuất và lưu thông
hàng hoá theo mô hình tự cấp tự túc, khi chuyển sang kinh tế thị trường đã nhanh chóng
tiếp thu được những kiến thức, trong đó quan trọng nhất là các vấn đề thuộc về quy ước
quốc tế. Sau khi chính thức gia nhập WTO, Việt Nam đã quyết tâm thực hiện đầy đủ các
cam kết trong đàm phán trước đây, thể hiện rõ sự cầu thị và nghiêm túc. Cụ thể là đã cho
ra đời hàng loạt các văn bản pháp quy có liên quan đến vấn đề bảo vệ sáng chế theo quy
định của WTO phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đã có những
hoạt động tuyên truyền, phổ biến các văn bản này một cách sâu rộng và thiết thực. Thông
qua đó, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh và cả bản thân từng người dân cũng đã
hiểu và có ý thức đối với nghĩa vụ và quyền lợi trong việc bảo vệ sáng chế. Kể từ khi
Việt Nam chính thức gia nhập WTO, vấn đề bảo vệ sáng chế đã được quan tâm và từng

bước thực hiện nghiêm túc theo yêu cầu chung của tổ chức kinh tế - thương mại lớn nhất
thế giới này. Việc tổ chức thực hiện và giải quyết tranh chấp về sáng chế ở Việt Nam mặc
dù đã có những bước đi cụ thể, song thực tế những năm qua cho thấy đây là khâu yếu
nhất, và cũng chính là sự áp dụng không thành công Luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Có
thể chỉ ra một số những vấn đề nổi cộm sau đây: việc bảo vệ các phát minh sáng chế
không được thực hiện tốt, để xảy ra hiện tượng mất bản quyền vào tay nước ngoài.
Ngược lại, các doanh nghiệp trong nước vì thiếu hiểu biết đã tiếp tay cho các doanh
nghiệp nước ngoài hoặc trực tiếp vi phạm bản quyền của các doanh nghiệp khác, ảnh
hưởng xấu đến uy tín của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế; việc xử lý các tranh chấp
về sáng chế ở Việt Nam những năm qua cũng đã bộc lộ những yếu kém cơ bản, cụ thể là
chưa giải quyết dứt điểm những khiếu kiện kéo dài về quyền sở hữu trí tuệ, nhất là hỗ trợ
trong việc đăng ký các phát minh, sáng chế. Từ đó gián tiếp hạn chế sức sáng tạo và sự
phát huy trong hoạt động nghiên cứu khoa học của con người; việc xử lý tội xâm phạm
sáng chế còn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Các vi phạm xảy ra ngày một gia tăng nhiều
hơn nhưng khó bị phát hiện và khi bị phát hiện thì thường chỉ bị xử lý bằng các biện pháp
dân sự hoặc hành chính. Điều này cho thấy, công tác đấu tranh phòng chống tội xâm
phạm các sáng chế hiện còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền
sáng chế một cách hiệu quả trước các hành vi xâm phạm ngày một gia tăng và phức tạp;
chưa có lực lượng chuyên trách chống tội phạm nhằm phát hiện kịp thời những hành vi vi
phạm nên hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về vi phạm quyền sáng chế
chưa được nâng cao.
Theo bảng xếp hạng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 2012 Việt
Nam bị tụt hạng trên bảng chỉ số đổi mới toàn cầu, xếp thứ 76/141 (năm 2011 xếp thứ
51/125, 2010 là 71/132…). Nghĩa là tính đổi mới, sáng tạo của nước ta thuộc vào loại
kém. Người Việt Nam vẫn luôn tự hào là thông minh và sáng tạo, nhưng chỉ có bình quân
1 sáng chế được đăng ký ở nước ngoài hằng năm, trong khi số này ở hầu hết các nước
khu vực Đông Nam Á đều rất cao. Cụ thể như năm 2011, Singapore có 647 bằng/4,8 triệu
dân, Malaysia 161/27,9 triệu, Thái Lan 53/68,1 triệu, Philippines 27/93,6 triệu… Đáng
nói là tình hình vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ ngày càng gia tăng trong khi việc thực thi
pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam còn kém hiệu quả. Nguyên nhân chính là

Hành Chính 1- K35 Trang 9
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
đa phần người dân, doanh nghiệp thiếu hiểu biết về sở hữu trí tuệ và nhất là về sáng chế,
dẫn đến việc tôn trọng pháp luật sở hữu trí tuệ thấp. Ông Brian Neubert, Trưởng phòng
Kinh tế, Tổng lãnh sự quán Mỹ tại thành phố Hồ Chí Minh, cho biết 27 triệu việc làm tại
Mỹ trực tiếp về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Nếu tính cả những công việc có liên quan sở hữu
trí tuệ thì con số này lên đến 40 triệu, chiếm 1/3 trong tổng số việc làm tại nước này.
Không chỉ thế, các hiệp định tự do thương mại, đặc biệt là các vòng đàm phán Hiệp định
Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam cũng là một thành viên, đều
bao gồm những tiêu chuẩn rất cao về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ không chỉ cho doanh
nghiệp các nước, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát minh và sáng tạo của các
nước. Bằng sáng chế bảo hộ rất nhiều các loại phát minh như kiểu dáng công nghiệp, quy
trình sản xuất, sản phẩm công nghệ cao, hợp chất phân tử. Bằng sáng chế cũng được ghi
nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ giống như bản quyền. Hiến pháp trao cho Quốc hội quyền
thúc đẩy “sự tiến bộ của khoa học và nghệ thuật” bằng cách cho các nhà phát minh được
hưởng độc quyền tối cao trong một thời gian nhất định đối với những “phát minh” của
họ. Người Mỹ luôn tự hào là một dân tộc có nhiều nhà phát minh sáng chế sẵn sàng thử
nghiệm những cái mới trong cả ngành công nghiệp lẫn cả trong chính trị. Vì vậy, bằng
sáng chế là một phần quan trọng trong lịch sử phát triển của Hoa Kỳ. Mặc dù hầu hết học
sinh Mỹ có thể không biết rằng bằng sáng chế được đề cập tới trong Hiến pháp nhưng
nhiều học sinh biết qua các bài học rằng một trong những bằng sáng chế đầu tiên được
cấp cho máy tỉa hột bông của Eli Whitney, chiếc máy có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển
sau này của Hoa Kỳ.
Một nghiên cứu đáng chú ý của Báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu năm 2002
của Ngân hàng Thế giới đã phát hiện ra rằng “dù cho các quốc gia có mức thu nhập khác
nhau nhưng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ luôn gắn liền với phát triển thương mại và
đầu tư nước ngoài, nhờ đó mà tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn”. Một ấn bản
khác năm 2002 của Ngân hàng Thế giới mang tựa đề “Cẩm nang Phát triển, Thương mại
và WTO” đã chú dẫn một số nghiên cứu và chỉ ra được rằng việc bảo hộ mạnh mẽ sáng
chế có thể: gia tăng thương mại toàn cầu; thu hút thêm được đầu tư trực tiếp nước ngoài;

tăng cường việc mua bán công nghệ và do đó có thể tăng năng lực sản xuất trong nước;
góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng. Ngày nay, Giooc-đa-ni có thể là một ví dụ điển
hình cho những kết quả nghiên cứu trên. Tại quốc gia này, việc gia tăng bảo hộ bằng sáng
chế đã đem lại những lợi ích kinh tế hữu hình. Viện Sở hữu Trí tuệ Quốc tế (IIPI) đã công
bố một báo cáo vào tháng 8 năm 2004 nghiên cứu việc thành lập ngành công nghiệp công
nghệ dược và thuốc chữa bệnh từ cây cỏ có khả năng cạnh tranh toàn cầu của Giooc-đa-
ni. Báo cáo phát hiện ra rằng “Kinh tế Giooc-đa-ni đã được hưởng lợi lớn từ việc bảo hộ
sở hữu trí tuệ tốt hơn trong thời gian gần đây” theo như công bố của IIPI và nhấn mạnh
hệ thống bảo vệ sở hữu trí tuệ nghiêm ngặt hơn, đặc biệt là bảo vệ bằng sáng chế, “đã
tăng cường tập trung vào những phát minh dựa trên nghiên cứu cho các công ty dược
phẩm của Giooc-đa-ni”. Điều này đã được thể hiện trong đóng góp tăng đột biến của
ngành chăm sóc y tế, từ 2,8% năm 1997 lên tới 3,5% năm 2001, vào GDP của Giooc-đa-
ni. Kể từ năm 1997 số lượng việc làm trong các lĩnh vực y tế tăng thêm 52%. Báo cáo
Hành Chính 1- K35 Trang 10
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
cũng cho thấy “ngành dược phẩm là ngành lớn thứ hai ở Giooc-đa-ni và từ năm 1999 tới
2002 lượng thuốc xuất khẩu của các công ty Giooc-đa-ni tăng thêm 30%”.
Hiện nay, quá trình quốc tế hóa diễn ra ngày càng nhanh, trong khi đó hệ thống bảo
hộ sáng chế của Việt Nam mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng lại đạt kết quả không như
mong muốn, nếu như không nói là còn quá yếu kém. Tình hình này đã đặt việc thực hiện
của Việt Nam theo Hiệp định TRIPS vào thế khó khăn. Năm 1995, Việt Nam nộp đơn
xin gia nhập tổ chức WTO, khi đó hệ thống bảo hộ bằng sang chế vận hành chủ yếu trên
cơ sở các văn bản dưới luật như: Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Ở thời
điểm đó, biện pháp xử lý các xâm phạm bảo hộ sáng chế chủ yếu là biện pháp hành chính
mặc dù về nguyên tắc, Tòa án sẵn sàng xét xử các tranh chấp và các vụ kiện về bằng sáng
chế nhưng do các quy định pháp luật chưa phải là luật, tòa án lại chưa có kinh nghiệm
trong xét xử các vụ án như thế này nên việc tham gia xét xử của tòa án trên các văn bản
pháp luật đã ban hành còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về bảo hộ bằng
sáng chế còn nhiều điểm chưa phù hợp, ngay cả những đối tượng đã được pháp luật bảo
hộ như sáng chế cũng có những bất cập, ví dụ: thời gian bảo hộ sáng chế của Việt Nam là

15 năm, trong khi WTO quy định là 20 năm. Để phù hợp với các quy định của TRIPS,
Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm đối với hệ thống bảo hộ sáng chế. Cụ thể là việc
ban hành Luật Hải quan và Bộ luật dân sự 1995 gồm 61 điều về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên
Bộ luật dân sự chỉ mới đề cập đến những đối tượng đã nêu trong 2 pháp lệnh là Pháp lệnh
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả (ban hành năm
1994), những đối tượng còn lại trong quy định của TRIPS chỉ được nêu chung chung
trong cụm từ “những đối tượng khác”. Từ đó có thể thấy, dù đã nỗ lực để cải thiện hệ
thống pháp luật cho phù hợp với quy định của WTO, song ngay từ khi ban hành các văn
bản pháp luật, Việt Nam đã thể hiện sự thiếu triệt để trong việc tiếp cận và nội dung thực
hiện hiệp định. Hệ thống văn bản pháp lý Việt Nam về sở hữu trí tuệ và bảo hộ sáng chế
còn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của các quy tắc mang tính quốc tế. Đơn cử như
việc bảo hộ patent còn thiếu tính quy định về việc bên bị coi là xâm phạm quyền patent
đối với quy trình phải chứng minh được quy trình của mình khác với quy trình thuộc
patent. Cho đến nay, Việt Nam vẫn áp dụng cơ chế hai giá về phí và lệ phí, như vậy là
duy trì chế độ phân biệt đối xử trong chính sách về giá sở hữu công nghiệp giữa công dân
Việt Nam với công dân nước ngoài.
Sở dĩ trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng như bảo
hộ bằng sáng chế của Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc là do một số lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, chế độ bảo hộ bằng sáng chế ở Việt Nam mới hình thành và phát triển trong
khoảng 20 năm gần đây nên còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp cũng như nhà sáng
tạo Việt Nam. Nhiều nhà sáng chế thậm chí còn không biết là đã có những văn bản bảo
hộ sáng chế của họ nên chưa khuyến khích được việc tăng cường hoạt động nghiên cứu
khoa học công nghệ. Thứ hai, mặc dù các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ mà chúng
ta đã ban hành và ký kết với các nước về cơ bản là đầy đủ và phù hợp các chuẩn mực
quốc tế nhưng trong thực tế, việc vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ và xâm phạm tài sản
trí tuệ có những biểu hiện đáng lo ngại. Nói cách khác nước ta chưa có một cuộc điều tra
Hành Chính 1- K35 Trang 11
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
tổng hợp nào về tình hình vi phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ cũng như bảo hộ bằng sáng
chế. Cơ chế đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ chưa được hoàn thiện và chưa phát huy

đúng mức. Mặc dù hiện nay trong các văn bản pháp luật của nước ta đã có đầy đủ ba biện
pháp chế tài: dân sự, hình sự, hành chính, nhưng trong các văn bản còn thiếu những quy
định cụ thể để áp dụng các biện pháp đó. Vai trò chủ đạo của biện pháp chế tài dân sự
chưa được phát huy mà chỉ mới thực hiện biện pháp hành chính, khiến cho cơ chế thực
thi chưa phát huy hết tác dụng, cho tới nay, số vụ việc được giải quyết trước tòa còn rất
ít. Thứ ba, sự hiểu biết của toàn xã hội về bảo hộ sở hữu trí tuệ và bảo hộ bằng sáng chế
còn hạn chế, các chủ thể sở hữu chưa thực hiện triệt để việc bảo vệ quyền và tài sản của
mình, trong nhận thức của nhiều người vẫn còn tồn tại quan niệm sở hữu nhà nước, sử
dụng khai thác tập thể, miễn phí, mang nặng tâm lý trông cậy, ỷ lại vào nhà nước, vì thế
chưa có ý thức bảo vệ và khai thác có hiệu quả các sản phẩm sáng tạo của mình như một
tài sản thuộc quyền sở hữu cá nhân. Thứ tư, quan hệ giữa các viện nghiên cứu, trường đại
học và doanh nghiệp thiếu chặt chẽ trong hoạt động nghiên cứu, ứng dụng do còn nặng
tính bao cấp của nhà nước. Nhiều công trình nghiên cứu tốn kém, chi phí lớn, hiệu quả
thấp, đôi khi còn nghiên cứu lại những giải pháp mà thế giới đã làm từ lâu. Thứ năm, hệ
thống tư liệu sáng chế của Việt Nam mới được cập nhật, bổ sung nhưng hầu hết là bằng
tiếng nước ngoài, việc truy cập thông tin để khai thác thương mại còn hạn chế, thiếu các
công cụ tra cứu tương thích. Thứ sáu, Việt Nam còn thiếu những tổ chức có đủ năng lực
làm đầu mối kết hợp giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp cũng
như sự hạn chế các tổ chức có khả năng thực hiện việc xác định giá trị các tài sản sở hữu
trí tuệ nhằm giúp các doanh nghiệp và các nhà sáng tạo thuận lợi hơn trong đàm phán với
nhau cũng như đàm phán và ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài.
Như vậy, từ những sự phân tích, đánh giá ở trên, ta có thể thấy, hoạt động sở hữu trí
tuệ nói chung và bảo vệ sáng chế nói riêng ở Việt Nam đang có những bước chuyển mình
đáng kể qua những gì đã thực hiện trong thời gian vừa qua có liên quan đến bằng sáng
chế như hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chính sách hợp lý,… Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu bước đầu đã đạt được, việc thực thi hiệp định TRIPS và bảo vệ
sáng chế ở Việt Nam còn gặp nhiều bất cập, khó khăn và thách thức, đòi hỏi không chỉ
nhà nước phải đưa ra các biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng trên, mà bản thân
các doanh nghiệp cũng phải có sự năng động, không có thái độ trông chờ, ỷ lại vào nhà
nước. Có như vậy, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam mới được minh

bạch, rõ ràng, vấn đề bảo vệ sáng chế mới được thực hiện một cách triệt để và có hiệu
quả.
Hành Chính 1- K35 Trang 12
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
Phần III. Hướng giải pháp khắc phục, hoàn thiện để bảo vệ quyền sáng chế.
Trong thời gian qua thì quyền SHTT nói chung và quyền sáng chế nói riêng chưa được
bảo vệ với hiệu quả chưa cao. Nạn xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền
sáng chế nói riêng còn xảy ra khá tràn lan, gây nhiều tổn thất cho những người nắm
quyền sáng chế. Hoạt động chuyển giao công nghệ khó có điều kiện phát triển khi doanh
nghiệp sử dụng sáng chế được bảo hộ của người khác để sản xuất, kinh doanh thu lợi
không chính đáng hoặc dùng những cách thức không lành mạnh để thu thập các bí mật
Hành Chính 1- K35 Trang 13
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
kinh doanh của doanh nghiệp khác, tạo lợi thế cạnh tranh không lành mạnh trên thị
trường. Thực trạng này xảy ra có nhiều nguyên nhân, song có thể do hoạt động kém hiệu
quả của các cơ quan thực thi, chưa có sự phân công rõ ràng về chức năng và thẩm quyền
của các cơ quan này, đồng thời các biện pháp và chế tài ngăn chặn vi phạm còn thiếu,
chưa đủ mạnh và khó áp dụng trên thực tế. Tâm trạng phổ biến của những người nắm
công nghệ là sợ mất công nghệ, hoặc tiền phí chuyển giao công nghệ không đủ bù đắp
được những tổn thất do việc chuyển giao công nghệ có thể gây ra. Thay đổi tâm lý này,
cải thiện hoạt động chuyển giao công nghệ, Luật SHTT không chỉ dành sự quan tâm
thích đáng cho việc điều chỉnh chi tiết hoạt động chuyển giao quyền SHCN, mà còn cần
tập trung làm lành mạnh hóa hoạt động thực thi với trọng tâm là bảo vệ các lĩnh vực khác
trong phạm vi của quyền SHTT. Và pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sáng
chế nói riêng phải là bức tranh rõ ràng, cụ thể và chi tiết về các biện pháp bảo vệ quyền
SHTT(trong đó có cả quyền sáng chế), cách thức xử lý những vi phạm bằng trình tự dân
sự, hành chính, hình sự, cũng như các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu liên quan đến SHTT. Đây là những đảm bảo mạnh cho người nắm quyền SHTT,
trong đó có quyền sáng chế. Những hoạt động sử dụng, khai thác sáng chế, bí mật kinh
doanh… cũng nhờ đó mà lành mạnh hơn, giúp trí tuệ công nghiệp có động lực để tăng

trưởng cả về số lượng lẫn chất lượng. Với những nhận thức hiện có, nhóm em xin đưa ra
một số kiến nghị , nhằm góp phần thúc đẩy và tăng cường việc thực hiện các quyền lợi và
nghĩa vụ đối với việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sáng chế nói riêng
ở nước ta hiện nay. Đầu tiên là hoàn thiện nhóm giải pháp mang tính chất chiến lược, bao
gồm việc nhà nước cần nâng cấp hệ thống pháp luật về bảo vệ sáng chế, tăng cường
năng lực của các cơ quan thực thi, từ tòa án đến các cơ quan bảo đảm thực thi pháp luật
về quyền sở hữu trí tuệ. Thứ hai là nhóm các giải pháp mang tính tạm thời, cấp bách bao
gồm việc các doanh nghiệp, nhà sáng chế phải tự mình đề ra các biện pháp cụ thể để bảo
vệ sáng chế của mình, cùng với đó nhà nước cần tổ chức vận động, tuyên truyền sâu rộng
cho người dân về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc bảo hộ quyền sáng chế.
Nhóm giải pháp mang tính chiến lược đầu tiên mà nhóm đề suất là hoàn thiện hơn nữa hệ
thống pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà đặc biệt là về bảo vệ quyền sáng chế
áp dụng trong điều kiện hiện nay, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sáng chế. Muốn thực hiện được điều trên nhà nước cần đẩy
mạnh việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về bảo vệ sáng chế, sau đó là quy
định các điều kiện bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, đồng thời xây dựng các
chế tài cụ thể đối với hành vi xâm phạm quyền sáng chế. Đầu tiên là hoàn thiện hệ thống
các quy phạm pháp luật bằng cách đầu tư cho công tác nghiên cứu lý luận, khoa học về
sở hữu tài sản trí tuệ nói chung và quyền sáng chế nói riêng nhằm phục vụ cho việc hoạch
Hành Chính 1- K35 Trang 14
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
định chiến lược, chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng như quyền sáng chế. Rà
soát, bổ sung, sửa đổi các quy định trong Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành
về quyền sở hữu trí tuệ cũng như bảo vệ quyền sáng chế để nhằm bảo đảm tính đồng bộ
của hệ thống văn bản pháp luật để tránh tình trạng trùng lặp, chồng chéo nhau trong quy
định giữa các hệ thống văn bản với nhau (Ví dụ: giữa Luật SHTT và Bộ luật Dân sự). Hệ
thống văn bản pháp luật cần quy định đơn giản hóa thủ tục yêu cầu đình chỉ và hủy bỏ
hiệu lực văn bằng bảo hộ. Việc đơn giản hóa các thủ tục yêu cầu đình chỉ và hủy bỏ hiệu
lực bằng độc quyền sáng chế có ý nghĩa quan trọng giúp loại bỏ các bằng độc quyền sáng
chế "không đáng" được tồn tại vì những lý do khác nhau. Khi thủ tục phức tạp, người thứ ba

có quyền và lợi ích liên quan sẽ không có khả năng yêu cầu hủy bỏ hiệu lực các bằng độc
quyền sáng chế được cấp cho những sáng chế không đáp ứng điều kiện bảo hộ (không có
tính mới hoặc trình độ sáng tạo). Các văn bản quy phạm pháp luật nên hạn chế đưa các
quy định chung chung, thiếu cụ thể gây khó khăn trong việc thi hành pháp luật hoặc ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, khiến cho hệ thống pháp luật trở nên cồng kềnh,
phức tạp, chậm triển khai. Đặc biệt là việc Luật SHTT điều chỉnh chung tất cả các đối
tượng của quyền SHTT trong đó bao gồm cả quyền sáng chế nhưng một bất cập ở đây đó
là có nhiều đối tượng mang bản chất khác biệt nhau đã khiến cho nội dung của Luật trở
nên phức tạp, khó theo dõi, chủ thể có quyền và các cơ quan bảo vệ quyền gặp khó khăn
khi vận dụng pháp luật. Do vậy cần nghiên cứu khả năng xây dựng các đạo luật riêng để
điều chỉnh tốt hơn đối với từng đối tượng của quyền SHTT trong đó có cả quyền sáng
chế. Ví dụ như xây dựng Luật sáng chế, Luật Nhãn hiệu, Luật về giống cây trồng…nhằm
tạo thuận lợi cho chủ thể có quyền và các cơ quan bảo vệ quyền có thể nắm bắt và vận
dụng các quy định của pháp luật vào trong thực tiễn một cách tốt hơn và hiệu quả cao
hơn. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, rất nhiều công nghệ mới
được tạo ra mà trong số đó có những công nghệ có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của con
người, cũng như thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Nhà nước cần quy định chi tiết
các đối tượng loại trừ không được bảo hộ sáng chế, đặc biệt là sáng chế dạng sử dụng, các
sáng chế vi phạm trật tự công cộng, đạo đức xã hội theo nghĩa rộng, phù hợp với sự phát
triển của khoa học, công nghệ. Việc quy định cụ thể các đối tượng không được bảo hộ là
sáng chế này sẽ giúp cho cơ quan sở hữu trí tuệ bảo đảm thi hành đúng pháp luật, bảo vệ
được lợi ích chính đáng của các nhà sáng tạo, đồng thời bảo vệ được lợi ích của xã hội
nói chung. Nhà nước cũng cần sửa đổi quy định về bảo hộ sáng chế được tạo ra từ ngân
sách nhà nước, trong đó giao quyền đăng ký, quản lý và khai thác cho tổ chức trực tiếp sử
dụng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu, triển khai (như các trường đại học, viện
nghiên cứu v.v ). Đây là một yêu cầu cấp thiết để góp phần tạo ra một cơ chế quản lý
nghiên cứu khoa học và công nghệ có hiệu quả hơn, giúp xác định rõ ràng chủ thể khi
trao quyền đăng ký, dễ dàng quản lý các kết quả nghiên cứu được tạo ra do sử dụng ngân
Hành Chính 1- K35 Trang 15
Luật Sở Hữu Trí Tuệ

sách nhà nước. Hệ thống các quy phạm cần bổ sung quy định yêu cầu người nộp đơn phải
bộc lộ cách thức thực hiện tốt nhất đối với sáng chế được yêu cầu bảo hộ. Thực tế trên
thế giới, nhiều nước (trong đó có Hoa Kỳ) yêu cầu người nộp đơn phải bộc lộ cách thức
thực hiện sáng chế tốt nhất mà người nộp đơn biết. Yêu cầu này nhằm giúp cho xã hội có
thể được hưởng lợi ích tối đa khi sáng chế không còn được bảo hộ. Thứ hai, pháp luật
Việt Nam ngoài hoàn thiện hệ thống các quy định pháp quy cho phù hợp thì cũng cần quy
định rõ hơn các điều kiện bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế
(BBCGQSDSC). Trong quá trình hội nhập kinh tế, chúng ta cần nhận thấy rằng, giữa các
quốc gia luôn tồn tại quan hệ tương trợ lẫn nhau, cùng giải quyết các thách thức của thời
đại. Do đó, sẽ không tránh khỏi những trường hợp đòi hỏi phải xuất khẩu sản phẩm được
sản xuất từ sáng chế được cấp phép bắt buộc giữa các quốc gia. Thực tiễn, theo Quyết
định ngày 30/8/2003, các thành viên của TRIPs đã thống nhất cho phép xuất khẩu thuốc
chữa bệnh HIV/AIDS được sản xuất từ những quốc gia nhận được giấy phép sử dụng
sáng chế bắt buộc sang những nước thành viên không có và không đủ khả năng sản xuất,
nhằm giúp những nước này vượt qua khó khăn. Chính vì vậy, để sau khi gia nhập tổ chức
WTO (cơ quan quản lý Hiệp định TRIPs) khai thác có hiệu quả các quyền lợi, chúng ta
phải thể hiện rõ thiện chí thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn
đề toàn cầu trên nguyên tắc “có đi có lại”. Thông qua chế định BBCGQSDSC, chúng ta
nên thừa nhận cho phép khai thác quyền sử dụng được chuyển giao để cung cấp cho thị
trường nước ngoài, trên cơ sở nguyên tắc “có đi có lại” giữa các quốc gia. Khi gia nhập tổ
chức WTO, việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tất yếu sẽ
tăng cao. Để vừa tạo được điều kiện đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài
nước, vừa kiểm soát được tình hình khai thác sáng chế được cấp phép, thiết nghĩ, Luật
SHHT nên ghi nhận thêm những trường hợp cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng
sáng chế được cấp phép. Theo đó, tương tự như Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ, nhà làm luật có thể ghi nhận cả hai trường hợp chuyển nhượng cùng với cơ sở kinh
doanh của mình hoặc uy tín gắn với việc sử dụng sáng chế được chuyển giao. Khi hội
nhập vào quá trình toàn cầu hóa, chúng ta phải hòa nhập với luật chơi chung. Điều này
yêu cầu chúng ta phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan vốn có thuộc về cơ chế
vận hành của nền kinh tế thị trường. Cơ quan chức năng không thể can thiệp vào toàn bộ

quá trình vận hành quy luật giá trị đối với sáng chế. Ngoài ra, do bản chất quan hệ
BBCGQSDSC vừa mang tính chất quan hệ pháp luật hành chính vừa mang tính chất
quan hệ pháp luật dân sự, cho nên, bên cạnh việc tạo môi trường cho các quan hệ tư diễn
ra lành mạnh, đồng thời có thể giúp cơ quan chức năng linh hoạt giải quyết bồi thường
hợp lý cho chủ sở hữu, Luật SHTT cần ghi nhận nhiều phương án phản ánh đúng bản
chất quy luật giá trị hơn nữa để xác định tiền đền bù thực sự thỏa đáng cho người nắm
độc quyền khi áp dụng BBCGQSDSC đối với chủ thể này.Đối với thẩm quyền chuyển
Hành Chính 1- K35 Trang 16
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
giao quyền sử dụng sáng chế theo quyết định bắt buộc, vấn đề này thuộc thẩm quyền của
Cơ quan quản lý cạnh tranh. Khoản 2, Điều 49 Luật Cạnh tranh ghi nhận cơ quan này có
nhiệm vụ, quyền hạn kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, điều tra các vụ việc cạnh tranh
liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy
nhiên, hiện nay, Điều 147 Luật SHTT vẫn chưa xác định vai trò, địa vị pháp lý của Cơ
quan quản lý cạnh tranh khi BBCGQSDSC nhằm ngăn chặn sự lạm dụng của chủ sở hữu.
Thiếu sót này tất yếu sẽ phải được bổ sung khi Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn
thi hành Luật SHTT và vấn đề mấu chốt cần làm sáng tỏ đó là sự tham gia của cơ quan
này. Phương án thứ nhất, giao luôn quyền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo
quyết định bắt buộc cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về cạnh tranh. Mặc dù điều này
giúp giải quyết nhanh chóng yêu cầu cấp phép sử dụng sáng chế bắt buộc, nhưng có thể
là không hợp lý. Bởi trên nguyên tắc quản lý vừa có sự phân chia nhưng đồng thời phải
đảm bảo sự tập trung thống nhất, trong tất cả các cơ quan hữu quan cần phải có một cơ
quan chủ quản với quyền hạn và trách nhiệm quản lý đối với sáng chế nói riêng và khoa
học công nghệ nói chung. Do tình thế cấp thiết, nên thẩm quyền chuyển giao quyền sử
dụng sáng chế theo quyết định bắt buộc trong từng lĩnh vực cụ thể được trao cho các bộ
và cơ quan ngang bộ quản lý lĩnh vực tương ứng trên cơ sở tham khảo ý kiến của Bộ
Khoa học và Công nghệ. Phương án thứ hai, xét chức năng, quyền hạn của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về cạnh tranh và của Bộ Khoa học và Công nghệ, chúng tôi cho rằng
vấn đề đặt ra có thể giải quyết. Khi người có ý định sử dụng sáng chế nộp đơn đến cơ
quan có thẩm quyền xin cấp phép sử dụng sáng chế bắt buộc dựa trên căn cứ là sự lạm

dụng độc quyền của chủ sở hữu, hiển nhiên chủ thể này phải có nghĩa vụ chứng minh
hành vi vi phạm của chủ sở hữu. Việc chứng minh này sẽ phải được thực hiện thông qua
quá trình điều tra bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền về cạnh tranh trên cơ sở đơn
khiếu nại của cá nhân, tổ chức cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm hại. Đây là quá
trình thể hiện rõ ràng và đầy đủ nhất vai trò, vị trí của Cơ quan quản lý cạnh tranh trong
chuỗi các thủ tục phức tạp liên quan đến BBCGQSDSC, nhằm ngăn chặn sự lạm dụng
độc quyền của chủ sở hữu. Vai trò của Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ kết thúc sau khi đã
ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo Điều 117 Luật Cạnh tranh (trừ trường hợp
quyết định đó bị khiếu nại). Những quyết định này có thể chia thành hai nhóm: Một là,
các biện pháp cần thiết để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm
(điểm đ Điều 117); hai là, những biện pháp khác còn lại thuộc Điều 117. Do đó, khi ra
quyết định áp dụng nhóm biện pháp thứ hai, tức là không cưỡng chế chủ sở hữu chuyển
giao quyền sử dụng sáng chế bắt buộc, đồng thời Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng phải
ra văn bản đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ ra quyết định bác đơn yêu cầu cấp phép
sử dụng sáng chế bắt buộc của người nộp đơn. Ngược lại, khi ra quyết định áp dụng các
biện pháp cần thiết để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm, tức là
Hành Chính 1- K35 Trang 17
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
có thể BBCGQSDSC đối với chủ sở hữu, thẩm quyền của Cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ
nên ra văn bản khuyến nghị Bộ Khoa học và Công nghệ chấp nhận đơn yêu cầu cấp phép
sử dụng sáng chế bắt buộc của người nộp đơn. Sau khi chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan
cho Bộ Khoa học và Công nghệ, thủ tục điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh của cơ quan
này cũng chấm dứt. Như vậy, trước khi ra quyết định BBCGQSDSC dựa trên căn cứ là
sự lạm dụng độc quyền của chủ sở hữu, thiết nghĩ giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về cạnh tranh cần có sự phân chia nhiệm vụ, quyền hạn
như trên để có thể ngăn chặn triệt để hành vi lạm dụng độc quyền của chủ sở hữu, đồng
thời khắc phục được thiệt hại do hành vi này gây ra. Từ khi xây dựng các quy định
BBCGQSDSC đến nay, thực tiễn tại Việt Nam chưa có bất kỳ trường hợp nào
BBCGQSDSC. Trong thời gian tới, khi nước ta gia nhập WTO, tình hình này chắc chắn
sẽ có nhiều thay đổi. Số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ và được khai thác tại Việt Nam

sẽ gia tăng rất nhiều. Trước những thời cơ và thách thức mới, Việt Nam cũng như các
nước đang phát triển khác không thể không sử dụng công cụ BBCGQSDSC để bảo vệ an
ninh, quốc phòng, sự ổn định kinh tế – xã hội, chính trị của dân tộc mình. Chính vì vậy,
chúng ta phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Luật SHTT nói chung và chế định
BBCGQSDSC nói riêng. Thứ ba, để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về sáng
chế, nhà nước cần quy định các chế tài cụ thể và phù hợp hơn. Phải có các chế tài đủ
mạnh để quản lý và điều tiết các hành vi vi phạm quyền SHTT nói chung và quyền sáng
chế nói riêng, cụ thể là phải xử lý quyết liệt mọi hành vi vi phạm quyền sáng chế cũng
như quyền SHTT. Thiết lập các đường dây nóng giữa các cơ quan của nước ta với các cơ
quan hữu quan các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm ngăn chặn kịp thời các hành
vi vi phạm quyền SHTT cũng như quyền sáng chế. Trình tự dân sự phải được áp dụng
triệt để và phổ biến nhằm điều chỉnh các quan hệ liên quan đến loại tài sản vô hình này,
mà việc đầu tiên là chấn chỉnh lại toàn bộ các quy phạm về chế tài bảo đảm thực thi theo
hướng lấy trật tự dân sự làm biện pháp chủ yếu, còn chế tài hành chính chỉ được áp dụng
như một biện pháp bổ sung cho chế tài dân sự khi mà sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
vượt quá mức dân sự. Đặc biệt, cần phải có các biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời
giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có
tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án của chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ là một trong những ưu điểm của biện pháp dân sự so với các biện
pháp hình sự và hành chính. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về biện
pháp khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng
như quyền sáng chế nói riêng còn chưa thực sự hữu hiệu. Các biện pháp khẩn cấp tạm
thời được quy định tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự, gồm “giao người chưa thành
niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; buộc thực
hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi
Hành Chính 1- K35 Trang 18
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm; buộc người sử dụng lao động tạm
ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp cho người lao động; tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động;

kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang
tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cho thu hoạch, cho bán hoa
màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác; phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng
khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài sản của người có
nghĩa vụ; cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định”. Trong số các biện pháp
nêu trên thì trong quan hệ tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sáng
chế nói riêng, chủ thể có quyền chỉ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng một số biện pháp khẩn
cấp tạm thời như kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối
với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong toả tài
khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi
gửi giữ; phong toả tài sản của người có nghĩa vụ; cấm hoặc buộc đương sự thực hiện
hành vi nhất định. Điều 207 Luật Sở hữu quy định bổ sung một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nguyên
liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó, bao gồm thu giữ, kê biên,
niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển, cấm chuyển dịch quyền sở hữu.
Như vậy có thể thấy các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật hiện
hành có thể áp dụng trong các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cũng như bảo vệ
quyền sáng chế là tương đối ít, đặc biệt là các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định trong
Bộ luật tố tụng dân sự chưa được cụ thể hóa đối với các tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ, còn mang tính chung chung. Điều này đã gây không ít khó khăn cho chủ thể có
quyền trong việc yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Các quy định của pháp luật hiện hành về áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời chưa góp phần làm ngăn chặn một cách nhanh chóng, kịp thời các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc ưu thế về
quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của biện pháp dân sự chưa được phát
huy trên thực tiễn. Thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trong
những năm qua có rất ít trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nào từ
phía các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy, với thời gian giải quyết kéo dài cộng với
việc các hành vi xâm phạm chưa được ngăn chặn một cách kịp thời có thể là nguyên nhân
dẫn đến việc các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ e ngại việc khởi kiện ra Tòa án để xử lý

bằng biện pháp dân sự mà thay vào đó, họ chọn việc xử lý hành vi xâm phạm bằng biện
pháp hành chính. Biện pháp chiến lược thứ hai để khắc phục tình trạng vi phạm sáng chế
hiện nay mà nhóm đề suất là sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi,
từ tòa án đến các cơ quan bảo đảm thực thi nội địa. Hoàn thiện và nâng cao năng lực và
Hành Chính 1- K35 Trang 19
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hơn nữa.
Thanh tra (nhà nước và chuyên ngành), ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý thị
trường, cảnh sát kinh tế phải được tạo điều kiện áp dụng các biện pháp nhằm thực thi có
hiệu quả, khắc phục sự chồng chéo, phân công rõ ràng chức năng quyền hạn của từng cơ
quan theo hướng một cơ quan đầu mối. Tòa án giải quyết các vụ kiện dân sự, ủy ban
nhân dân, thanh tra, quản lý thị trường quyết định xử phạt (tùy theo hình thức và mức
phạt), cảnh sát kinh tế chỉ có chức năng điều tra các vi phạm, hải quan kiểm soát ở biên
giới về quyền sáng chế. Cơ quan đăng ký sáng chế phải được tăng cường năng lực để công
bố đơn, văn bằng bảo hộ và cấp bằng độc quyền sáng chế đúng thời hạn, bảo đảm quyền và
lợi ích chính đáng của cả chủ sở hữu sáng chế và quyền lợi của công chúng. Hiệu quả của
hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế cũng cần được tăng cường.
Cần phải cân nhắc việc thành lập tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ để xử lý các vụ
việc xâm phạm quyền đối với sáng chế, có như thế mới thực sự nêu lên vai trò quan trọng
của bảo vệ sáng chế cũng như bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Để hoạt động xác lập và
bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế có hiệu quả, cũng cần phải xây dựng
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sở
hữu sáng chế và lợi ích của công chúng. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xây
dựng và thực hiện các biện pháp để người dân có thể tiếp cận có hiệu quả hệ thống thông
tin sáng chế (xây dựng cơ sở dữ liệu, phần mềm dịch tự động v.v ). Ngoài ra, các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cũng cần chủ động thực hiện các thẩm quyền của mình để
thực hiện các biện pháp cân bằng lợi ích theo quy định của pháp luật, đặc biệt là việc xem
xét và cấp li-xăng cưỡng bức trong những trường hợp cần bảo vệ sức khỏe của người dân
hoặc phục vụ mục đích quốc phòng và an ninh quốc gia.
Về nhóm giải pháp cấp bách, tạm thời. Doanh nghiệp, người sáng chế nên đăng ký bản

quyền sách chế, đó là cơ sở để bảo vệ sáng chế của mình. Khi phát hiện vi phạm sáng
chế, nên có cách giải quyết phù hợp. Có thể tham khảo các nhà tư vấn luật, luật sư để có
thể có biện pháp phù hợp, đem lại lợi ích tốt nhất cho mình. Ngoài ra, chúng ta cần tổ
chức vận động, tuyên truyền sâu rộng trong dân chúng về quyền lợi và nghĩa vụ trong
việc bảo hộ quyền sáng chế. Nâng cao nhận thức của xã hội về quyền SHTT nói chung và
quyền sáng chế nói riêng, là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của trí tuệ công nghiệp.
Pháp luật phải được triển khai trong cuộc sống sẽ giúp làm tăng cường sự hiểu biết về
quyền SHTT và quyền sáng chế của các cán bộ quản lý, cán bộ KH&CN, giới doanh
nghiệp. Thông qua việc phổ biến Luật SHTT, các cá nhân và tổ chức trong toàn xã hội có
ý thức bảo hộ quyền sáng chế của mình và tôn trọng quyền tương ứng của người khác.
Đặc biệt, các cán bộ KH&CN có thể dựa vào Luật để xây dựng ý thức khai thác thông tin
SHCN phục vụ hoạt động nghiên cứu các công nghệ mới. Tăng cường các hoạt động dịch
vụ thông tin về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sáng chế nói riêng, đồng thời củng cố
Hành Chính 1- K35 Trang 20
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
và nâng cao vai trò của các hội nghị về quyền sáng chế trong việc nâng cao nhận thức của
xã hội về sở hữu trí tuệ. Cần mở rộng đội ngũ những người tham gia hoạt động này, bằng
cách nhanh chóng tổ chức các hình thức bồi dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ (cũng như
quyền sáng chế) cho đội ngũ luật sư và những người khác. Tiếp tục cải cách hệ thống
thông tin về quyền sáng chế với mục tiêu nâng cao năng lực tài nguyên thông tin và năng
lực vận hành của cả hệ thống. Mở rộng diện những người dùng tin, tạo sự gần gũi, hấp
dẫn đối với toàn xã hội. Thành lập các trung tâm bảo vệ bản quyền cho các loại hình nghệ
thuật. Các tổ chức về quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như các tổ chức về bảo vệ
quyền sáng chế nói riêng cần kết hợp “nhịp nhàng” và “ăn ý” với các cơ quan quản lý
nhà nước và các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp
luật và thông tin, hướng dẫn nhận thức bằng những vụ việc cụ thể trong hoạt động thực
thi bảo vệ quyền sáng chế. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, động
viên các đối tượng trong xã hội, nhất là thu hút các doanh nghiệp - chủ thể quyền sở hữu
công nghiệp tham gia tích cực hơn vào bảo vệ quyền sáng chế. Xây dựng mối quan hệ có
tính chất cân bằng cùng có lợi giữa chủ sở hữu và người tiêu dùng. Tích cực tìm kiếm các

giải pháp thay thế cho các loại sản phẩm/hàng hóa có nhu cầu sử dụng lớn hoặc liên quan
đến nhiều người, Cần khuyến khích mở các cuộc thương lượng giữa những người có nhu
cầu khai thác với các chủ sở hữu nhằm giảm giá hàng hóa, tăng lượng hàng cung cấp cho
xã hội. Đối với những sản phẩm/hàng hoá có nhu cầu sử dụng lớn hoặc có liên quan đến
lợi ích công cộng (như thuốc chữa bệnh) ngoài các biện pháp trên cần lưu ý đến công cụ
giấy phép, cũng như Nhà nước cần tập trung đầu tư và nhập khẩu nguồn sản phẩm giá rẻ
để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng thay thế các sản phẩm giá quá cao do bị khống chế
bởi chủ sở hữu.
Tổng Kết:
Từ các phân tích, đánh giá ở trên về sáng chế nhóm xin rút ra kết luận sau. Bảo hộ sáng
chế không chỉ mang lại lợi ích cho chủ sở hữu sáng chế, mà còn tác động đến cả nền kinh
tế xã hội. Có bảo hộ sáng chế, chúng ta mới có thể khuyến khích sáng tạo ra công nghệ
mới, như đã nói ở trên sáng chế không dễ dàng được tạo ra mà đòi hỏi sự đầu tư nghiên
cứu, thời gian, công sức của nhà sáng chế nhưng lại rất dễ bị sao chép, dễ bị bắt chước và
đưa vào khai thác để sinh lời. nếu không có bảo hộ thì ai cũng có thể khai thác sáng chế
đó mà không phải hao phí cho việc đầu tư nghiên cứu. Bị đối thủ cạnh tranh cướp đoạt
thành quả lao động và lợi nhuận, nhà sáng chế và người đầu tư kinh phí sẽ không còn
động lực để lặp lại quy trình sáng tạo, bởi vì họ đầu tư lớn mà thành công lại nhỏ. Điều
Hành Chính 1- K35 Trang 21
Luật Sở Hữu Trí Tuệ
này sẽ gây tổn thất không chỉ cho bản thân nhà sáng chế mà làm ảnh hưởng đến cả xã
hội. Do đó, tăng cường bảo hộ sáng chế sẽ ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm khoa
học công nghệ một cách bất hợp pháp giúp chủ sở hữu có thể bảo vệ được thành quả sáng
tạo của mình và tiếp tục đầu tư phát triển tạo ra sáng chế mới. Bên cạnh đó, việc bảo hộ
sáng chế còn tạo môi trường kinh doanh lành mạnhhơn nếu không có hệ thống bảo hộ
sáng chế, các đối thủ cạnh tranh trên thị trường sẽ không cần đầu tư sáng tạo mà đơn giản
chỉ cần bắt chước, sao chép các sáng chế của người khác với chi phí rẻ hơn nhiều. Kết
quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn để bù đắp những chi
phí cần thiết trong quá trình triển khai, chứ chưa nói đến việc tiếp tục đầu tư, lặp lại quá
trình sáng tạo. Và rất có thể họ sẽ bị chính các đối thủ cạnh tranh của mình loại ra khỏi

thị trường. Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế cũng như các đối
tượng sở hữu công nghiệp khác một cách không thỏa đáng bị coi là rào cản đối với thị
trường tự do và mở cửa. Ngược lại, bảo hộ sáng chế có hiệu quả chính là nhằm giữ gìn
một môi trường trong sạch cho các hoạt động sáng tạo và kinh doanh, từ đó đảm bảo khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Cuối cùng, việc bảo hộ sáng chế tạo điều kiện cho
hoạt động chuyển giao công nghệ và đầu tư – một hệ thống bằng độc quyền sáng chế
mạnh và thực thi phù hợp còn là điều kiện tiên quyết cho hoạt động chuyển giao công
nghệ và đầu tư, thông qua việc tạo ra một môi trường an toàn cho các doanh nghiệp tiến
hành kinh doanh và tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Chính vì vậy việc bảo vệ sáng chế
tạo ra và giữ gìn một môi trường trong sạch cho hoạt động kinh doanh và sáng tạo.
Việc bảo vệ các sản phẩm sở hữu nói chung, bảo vệ sáng chế nói riêng không chỉ là trách
nhiệm của nhà nước, xã hội mà ngay chính bản thân mỗi người cũng phải tự nâng cao ý
thức tôn trọng các sản phẩm này. Chính bảo vệ sáng chế mới có thể giúp cho kinh tế phát
triển, hoạt động đầu tư sẽ ngày càng được đẩy mạnh. Nhiều người sẽ ngày càng có động
lực để tạo ra nhiều sản phẩm sáng chế có giá trị hơn nữa, nhà đầu tư an tâm áp dụng mà
không lo sợ bị sao chép. Hành động ngay hôm nay chính là đầu tư có lợi nhất cho sự
thịnh vượng của Việt Nam sau này!
Hành Chính 1- K35 Trang 22

×