SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ KINH NGHIỆM LUYỆN TẬP PHẦN MỞ BÀI VĂN
MIÊU TẢ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC”
I-ĐẶT VẤN ĐỀ :
Ở tiểu học, từ lớp Bốn, học sinh bắt đầu làm quen và thực hiện một bài văn hoàn chỉnh
với đầy đủ cả 3 phần ( Mở bài – Thân bài – Kết bài ). Một bài văn, dù cho có hay đến đâu
nhưng nếu phần Mở bài không hấp dẫn, không lôi cuốn sẽ dẫn đến sự mất tập trung ở
người đọc. Vả lại, đây là một phân môn khó, nếu không khéo sẽ làm cho học sinh mất
hứng thú và sợ khi học phân môn này. Do vậy, đối với tôi, phần mở bài có một vai trò và
tầm quan trọng khá đặc biệt. Vì một mở bài gọn gàng, hấp dẫn sẽ gây được cảm tình ở
người đọc và thường báo hiệu một nội dung tốt.
II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
1. GIỚI THIỆU :
Mở bài là phần đầu tiên (vị trí của nó bao giờ cũng nằm ở phần đầu bài), là phần
trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc ấn tượng ban đầu về bài viết, tạo ra âm
hưởng chung cho toàn bài.
Đối với bài văn miêu tả, ngoài cách mở bài trực tiếp, sách giáo khoa lớp Bốn còn
giới thiệu thêm cho học sinh cách mở bài gián tiếp. Tuy nhiên, phần giới thiệu mở bài
(nhất là gián tiếp) ở sách giáo khoa còn mang tính chung chung. Mà học sinh chúng ta,
mới chuyển từ lớp Ba lên, còn rất bé, chưa hình dung được hết thế nào là mở bài gián tiếp
chỉ với một dẫn chứng trong sách giáo khoa (ở phần văn kể chuyện). Chúng ta cần phải
giới thiệu thêm cho các em nhiều hướng, nhiều cách cụ thể để các em có thể dần tiếp cận,
phân tích, cảm nhận và trình bày được những cách mở bài khác nhau. Trong phần này, tôi
sẽ giới thiệu, hướng dẫn thêm cho học sinh một số cách mở bài gián tiếp cụ thể như sau :
Mở bài gián tiếp : Không giới thiệu ngay vào vật định tả mà gợi mở vào đề bằng
cách đưa ra :
1. Một âm thanh
2. Một câu nói ( câu cảm, câu kể hoặc câu hỏi )
3. Một sự so sánh, lựa chọn.
4. Mẩu đối thoại
5. Một đoạn thơ
6. Một câu hát
7. Một câu đố
8. Một liên tưởng
9. Một mẩu chuyện
10. Một lý do đưa đến bài viết ….………………
* Lưu ý : Đối với cách viết này, nếu viết khéo, mở bài sẽ rất sinh động, gợi cảm, hấp dẫn,
gây hứng thú cho người đọc. Nhưng nếu viết không khéo, mở bài sẽ lan man, vòng vèo,
làm phân tán sự chú ý của người đọc.
2. Ví Dụ: Em hãy tả một món đồ chơi mà em thích nhất .
* Cách 1 : Gợi mở vào đề bằng một âm thanh.
“King…coong ! King…coong! ”.
Tiếng động làm cho tôi đang ngồi học bài giật mình nhìn sang. À, thì ra là nhóc Tuấn
đang nghịch con lật đật - món đồ chơi tôi thích nhất mà chị Hà đã tặng tôi hôm sinh nhật
vừa qua.
* Cách 2 : Gợi mở vào đề bằng một câu nói.
“Ôi ! Đẹp quá!”
Tôi reo lên khi trông thấy con robốt được trưng trong tủ kính ở cửa hàng bán quà lưu
niệm. Biết tôi thích con rôbốt này, mẹ nói sẽ mua cho tôi vào dịp sinh nhật sắp tới với
điều kiện tôi phải giữ gìn nó thật cẩn thận.
* Cách 3 : Gợi mở vào đề bằng một sự so sánh, lựa chọn .
Nhà em, mỗi người đều có một sở thích riêng. Ba em yêu bóng đá, mẹ thích nấu ăn, anh
trai thì mê vi tính, còn em thì thích chơi búp bê. Như bao bạn gái khác, em cũng có một
con búp bê rất đẹp.
* Cách 4 : Gợi mở vào đề bằng mẩu đối thoại.
- Bố ơi, bố mang gì về đấy hả bố ?
- À, đây là quà sinh nhật bố tặng cho con gái cưng của bố đấy, con mở ra xem đi !
Tôi háo hức mở lớp giấy gói quà. Hiện ra trước mắt tôi là một con búp bê tóc vàng tuyệt
đẹp, thứ đồ chơi mà tôi hằng ao ước.
* Cách 5 : Gợi mở vào đề bằng một đoạn thơ .
Con vỏi con voi
Có cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Đó chính là con voi rôbot bằng nhựa màu xám nhạt - món đồ chơi tôi thích nhất
trong hàng loạt đồ chơi mà tôi đã nhận được trong dịp sinh nhật vừa qua.
* Cách 6 : Gợi mở vào đề bằng một câu hát .
“Tạm biệt búp bê thân yêu, tạm biệt gấu Misa nhé ! Tạm biệt thỏ trắng xinh xinh, mai
em vào lớp Một rồi…”
Tôi rất thích bài hát này vì nó làm tôi nhớ đến Misa, chú gấu bông dễ thương mà bố
đã tặng khi tôi vào lớp Một.
* Cách 7 : Gợi mở vào đề bằng một câu đố .………………
3. CÁCH TIẾN HÀNH :
Ở tiết Tập làm văn “LUYỆN TẬP XÂY DỰNG MỞ BÀI TRONG BÀI VĂN
MIÊU TẢ ĐỒ VẬT” , ta có thể tiến hành như sau :
Họat động 1 : Ta sẽ cho học sinh tham gia trò chơi “Ô chữ kì diệu” hoặc “Hái quả” để
thực hiện những yêu cầu nhằm làm tiền đề cho họat động sau và cũng nhằm tạo hứng
khởi cho tiết học với một số hỏi như sau :
- Giải câu đố .(Vd : “Không phải bò – Không phải trâu – Uống nước ao sâu – Lên
cày ruộng cạn” ? Hoặc : “Nhỏ như cái kẹo – Dẻo như bánh giầy - Ở đâu mực dây – Có
em là sạch.”)…v v
- Hát 1 đọan trong đó có nhắc đến 1 món đồ chơi ?
- Hãy bắt chước tiếng của 3 món đồ chơi phát ra tiếng động mà em biết ?
…….
Họat động 2 : Thảo luận, nhận xét .
- Phát phiếu bài tập và yêu cầu hs (thảo luận nhóm 4) nhận biết sự giống và khác
nhau của 2 mở bài sau :
a. Vào ngày sinh nhật lần thứ 9, chị Hà đã tặng cho em một cây bút máy rất đẹp
b. “Reng Reng…!”
Tiếng chuông đồng hồ báo thức rung lên inh ỏi. Tôi giật mình tỉnh dậy. Ồ, đã 6 giờ rồi
ư ? Hôm nay, tôi phải đến trường sớm hơn mọi ngày để còn khoe với nhỏ Thư cây bút
mày mà chị Mai đã tặng cho tôi hôm chủ nhật vừa qua.
- HS nêu sự giống nhau : đều giới thiệu đồ vật định tả .
- Khác nhau : Cách a : Giới thiệu trực tiếp – Cách b : Giới thiệu gián tiếp (và giải
thích tại sao biết).
Họat động 3 : Mở rộng :
o Gợi ý học sinh tìm thêm 1 số cách mở bài gián tiếp (dựa vào trò chơi ở Họat động
1). Gợi mở vào đề bằng cách đưa ra:
- Một âm thanh .
- Một câu đố
- Một câu hát.
- Mẩu đối thọai
- …
(HS nêu thiếu, GV sẽ bổ sung thêm vài cách)
Họat động 4 Thực hành :
Đề : Hãy viết mở bài gián tiếp để tả một món đồ chơi (hoặc dụng cụ học tập) mà em
thích nhất.
- HS suy nghĩ trong 1’ để chọn 1 cách mở bài trong các cách đã nêu .
- HS thực hành viết cá nhân. (GV quan sát và giúp đỡ học sinh yếu)
- Trao đổi, chia sẻ trong nhóm và bình chọn bạn có cách viết mở bài hay nhất.
- Đại diện nhóm trình bày trước lớp và cho biết đã chọn cách nào .
- Các nhóm nhận xét. GV đánh giá và tuyên dương.
Họat động 5 : Củng cố, dặn dò :
- HS nêu lại các cách mở bài gián tiếp vừa học.
- HS được nhóm chọn bài viết hay sẽ viết lại mở bài của mình vào giấy khổ lớn và
dán ở góc Tiếng Việt trong lớp để các bạn tham khảo trong giờ ra chơi
Ta có thể trình bày bảng như sau :
a) Vào sinh nhật lần thứ 9,
chị Mai đã tặng cho em
cây bút máy rất đẹp.
b) “Reng! Reng! ”
Tiếng chuông đồng hồ báo
thức rung lên …….
MT trực tiếp
MT gián tiếp
Giới thiệu ngay đồ
vật định tả
Gợi mở vào đề bằng
cách đưa ra :
Một âm thanh
Một câu nói
Một câu đố
Một so sánh
Mẩu đối thọai
Một câu hát
4. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ :
* Ưu điểm :
Với cách hướng dẫn chi tiết, cụ thể như trên có những ưu điểm sau :
- Đối với giáo viên : Chúng ta chỉ cần hướng dẫn kĩ cho học sinh bài đầu tiên. Và khi
học sinh đã nắm được tinh thần các cách mở bài, thì ở những dạng sau, giáo viên chúng
ta chỉ cần đưa ra những gợi ý là học sinh đã có thể làm được ngay.
- Đối với học sinh : Rất hứng thú khi đặt được một mở bài theo ý mình và có nhiều
ý tưởng mới lạ, sáng tạo đến bất ngờ.
- Với cách hướng dẫn này, ngoài dạng tả đồ vật như đã giới thiệu, học sinh còn có
thể vận dụng cho các dạng văn miêu tả khác như : miêu tả cây cối, tả loài vật (ở lớp 4), và
dạng tả người, tả cảnh (ở chương trình lớp 5).
* Hạn chế :
- Có thể sẽ mất nhiều thời gian cho bài học đầu tiên.
- Cần chú ý nếu không khéo sẽ lan man, dài dòng, không giới thiệu đúng trọng tâm của
đối tượng cần miêu tả.
III- PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ KẾT QUẢ :
Về phạm vi áp dụng, như đã trình bày ở trên, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng cho
chương trình lớp Bốn và lớp Năm.
Viết là quá trình cần phải rèn luyện không chỉ đối với người lớn mà đặc biệt đối với học
sinh, việc rèn viết càng khó khăn hơn. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm kiếm
những phương pháp và mong muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp nhằm giúp các em hứng
thú khi học phân môn tập làm văn, một phân môn đòi hỏi kỉ năng viết.
Khi thực hiện theo phương pháp này, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi rất thích học phân
môn tập làm văn. Giờ học Tập làm văn đã trở nên nhẹ nhàng. Những học sinh yếu kém, ít
nhiều cũng biết làm được một bài văn và ngày càng tiến bộ hơn. Không còn hiện tượng
để vở trắng, không còn hiện tượng copy văn mẫu. Và đã có những bài làm với những mở
bài rất dễ thương, rất hấp dẫn.
IV- NHẬN ĐỊNH – KẾT THÚC VẤN ĐỀ :
Việc sử dụng và hướng dẫn cụ thể thêm những cách mở bài trên đã giúp cho học
sinh dễ dàng sáng tạo, diễn đạt ý của mình. Trước đây, chúng ta còn bị gò ép trong việc
dạy theo phân phối chương trình và thời khóa biểu đã được định sẵn nên việc phân bố bài
học đôi khi còn rời rạc, còn hạn chế thời gian. Hiện nay, với phương thức khoán nội dung
chương trình và giảng dạy theo hướng chuyên sâu đã tạo điều kiện cho giáo viên chủ
động và sáng tạo hơn trong việc hướng dẫn các em trong học tập. Mà học sinh chúng ta
(lớp 4), vừa bắt đầu tập viết một bài văn hoàn chỉnh, đây là giai đoạn khó khăn, rất cần sự
mở đường, hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết để các em có thể tự tin trong việc học
phân môn này.
Qua việc thực hiện đề tài này, tôi mong rằng bản thân mỗi giáo viên chúng ta khi
đánh giá học sinh, chúng ta cần đánh giá trên nền tảng về sự nhận thức, tư duy của học
sinh 9 – 10 tuổi, không nên đặt yêu cầu quá cao khiến cho học sinh cảm giác chán nản và
cuối cùng là học bài mẫu, mất dần sự sáng tạo của các em. Hãy hướng dẫn các em học
Tập làm văn đúng với tên gọi của phân môn này là Tập cho các em làm văn .
Tục ngữ có câu “Vạn sự khởi đầu nan”. Do vậy, khi đã có thể tự viết được một mở bài
hay, từ đó, sẽ tạo hứng thú cho các em làm tốt phần thân và kết bài. Và đó cũng là mục
tiêu cuối cùng của đề tài này.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ cho việc thực hiện phần mở bài theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh để giúp các em có thêm tự tin, tạo hứng khởi cho việc học
phân môn tập làm văn. Trong quá trình viết và thực hiện vẫn còn nhiều sai sót, mong Quý
thầy cô nhiệt tình đóng góp ý kiến để việc thực hiện được thuận lợi và hiệu quả hơn ./.