SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CHO
HỌC SINH LỚP 7"
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với
cộng đồng quốc tế, đặc biệt hơn khi nước ta đã chính thức là thành viên của tổ chức
WTO. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng
dân trí được nâng cao. Vì vậy nền giáo dục và đào tạo của nước ta cũng đã thay đổi từ
mục tiêu giáo dục và đào tạo đến phương pháp dạy và học nhằm đóng góp có hiệu quả
vào quá trình chuẩn bị nguồn lực cho đất nước. Đáp ứng mục tiêu giáo dục mới, chương
trình sách giáo khoa phổ thộng đã có sự thay đổi tích cực: tập trung đổi mới phương
pháp dạy học, thực hiện dạy và học dựa vào hoạt động tích cực của học sinh dưới sự tổ
chức và hướng dẫn đúng mực, linh họat của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập
sáng tạo giúp hình thành phương pháp, nhu cầu tự học, hứng thú học tập, tạo niềm tin,
niềm vui trong học tập cho học sinh.
Ngày nay tiếng Anh chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong các mối quan hệ đối ngoại
trên thế giới. Tiếng Anh giúp chúng ta nghiên cứu, giao tiếp với nước ngoài ở nhiều lĩnh
vực. Vì thế người học phải thành thạo các kỹ năng ngôn ngữ nghe, nói, đọc và viết. Một
thực tế không thể phủ nhận khi học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng là học
sinh có thể nghe hiểu tốt nhưng điều này không có nghĩa là các có thể nói tốt. “ Tai
thính” không tương quan với nói tốt. Mục đích của sử dụng ngôn ngữ là giao tiếp các ý
tưởng giữa người với người. Như vậy, nói dường như kỹ năng quan trọng và khó phát
triển nhất. Trong nhiều tiết học tiếng Anh học sinh có rất ít cơ hội để thực hành ngôn
ngữ, giáo viên tập trung dạy danh mục các đơn vị ngữ pháp - từ vựng. Nhiều học sinh
nhớ hàng trăm đơn vị từ vựng và hàng chục quy tắc ngữ pháp nhưng vẫn không thể nói
được. Điều này giải thích một phần tại sao sau khi tốt nghiệp số lượng học sinh có thể
giao tiếp được bằng tiếng Anh ở mức độ căn bản chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn. Thực hiện
chương trình tiếng Anh cấp Trung học cơ sở được biên soạn theo quan điểm giao tiếp, coi
việc hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp: Nghe - Nói - Đọc - Viết là mục tiêu
cuối cùng của quá trình giảng dạy, việc dạy và học môn tiếng Anh ở trường phổ thông
nhằm mục đích giúp cho học sinh có khả năng sử dụng tiếng Anh như một cụng cụ giao
tiếp ở mức độ cơ bản và tương đối thành thạo dưới các hình thức Nghe- Nói - Đọc - Viết,
tiến đến việc hình thành năng lực sử dụng tiếng Anh dễ dàng, có hiệu quả trong giao tiếp
thông thường. Từ yêu cầu bộ môn và thực tế giảng dạy bản thân tôi đã lập kế hoạch “
Luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 7” làm nền tảng cho học sinh lớp 8,9 ở
những năm sau. Đó là lý do tôi viết đề tài này.
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích viết đề tài:
Là giáo viên giảng dạy bộ môn tiếng Anh trường THCS, bản thân tôi không ngừng
nghiên cứu, tích cực, chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học. Tôi viết đề tài này nhằm chia sẻ kinh nghiệm nhỏ của mình với các
đồng nghiệp về các hình thức luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 7 để góp phần nâng cao
kiến thức hiểu biết và chất lượng bộ môn tiếng Anh trong nhà trường.
2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Tìm hiểu thực trạng dạy học kỹ năng nói.
- Xây dựng cơ sở lý luận dạy học môn tiếng Anh về các hình thức luyện kỹ năng nói
tiếng Anh cho học sinh lớp 7.
- Đánh giá kết quả thực nghiệm và rút ra bài học sư phạm bổ ích.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Do xuất phát từ thực tế dạy và học tiếng Anh của thầy và trò trường tôi nên đề tài
này tôi chỉ nghiên cứu giới hạn ở lớp 7C, 7E theo chương trình sách tiếng Anh 7.
B.NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
Đổi mới phương pháp dạy học hướng đến việc coi trọng người học, coi học sinh là
chủ thể hoạt động, khuyến khích các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo trong
quá trình dạy học. Nói cách khác, đổi mới phương pháp dạy học là qúa trình chuyển từ
phương pháp thầy thuyết trình, phân tích ngôn ngữ - trò nghe và ghi chép thành phương
pháp mới: thầy là người tổ chức, giúp đỡ hoạt động học tập của học sinh, học sinh là
người chủ động tham gia vào quá trình hoạt động học tập. Phương pháp dạy học mới sẽ
phát huy tốt nhất vai trò chủ thể, chủ động, tích cực của học sinh trong việc rèn luyện kĩ
năng ngôn ngữ vì những mục đích thực tiển và sáng tạo. Điều này đã được khẳng định
trong Nghị quyết TW 2 khóa VIII: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục
lối truyền đạt một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước
áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy
học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Trong quá trình giảng dạy, việc vận dụng các phương pháp dạy học nhằm hướng dẫn
học sinh lĩnh hội kiến thức một cách nhanh nhất, vận dụng tốt nhất kiến thức đó là cả một
vấn đề lớn đối với các bộ môn văn hóa nói chung và bộ môn Tiếng Anh nói riêng.
Ngành giáo dục huyện Lệ Thủy đã, đang và sẽ tích cực hướng tới sự hoàn thiện về đổi
mới phương pháp dạy học. Đối với việc phát triển kỹ năng nói, lấy ngôn bản hay chủ đề
làm đơn vị dạy nói và lấy trước khi nói ( Pre-speaking), trong khi nói ( While-speaking)
và sau khi nói ( Post-speaking) làm quy trình chuẩn để rèn luyện những nội dung và ngữ
liệu cần thiết để học sinh có thể nói được một chủ đề nào đó sau một tiết học nói. Ngoài
ra, để học sinh có thêm cơ hội giao tiếp bằng tiếng Anh ở mức độ căn bản và dần hình
thành năng lực sử dụng ngôn ngữ thì giáo viên phải để cho học sinh luyện nói trong các
tiết dạy các kỹ năng khác, trong các tiết học kiến thức ngôn ngữ hoặc đơn giản hơn chỉ là
những lúc làm nóng bầu không khí lớp học ( Warm – up), lúc kiểm tra miệng hoặc chỉ
lúc thầy trò đối đáp bình thường trong lớp học. Tất cả những điều này rất quan trọng
nhằm mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỂN
1. Tình hình thực tế học sinh:
Trong những năm qua, theo chương trình và sách giáo khoa mới, phương pháp mới
trong dạy và học, đặc biệt hơn là khi bài giảng của giáo viên soạn trên phần mềm trình
chiếu PowerPoint sinh động, hấp dẫn, nhiều học sinh được rất yêu thích môn học, năng
động hơn trong mọi hoạt động. Tuy nhiên đối tượng học sinh yếu vẫn còn nhiều. Trong
khi học nói Tiếng Anh các em gặp rất nhiều trở ngại: các em phải đối diện với giáo viên
do đó thấy khó diễn đạt bằng ngôn ngữ, các em sợ mắc lỗi, sợ bị thầy cô chê, xấu hổ khi
phải nói trước các bạn trong lớp nhất là khi các em còn thiếu nhiều yếu tố để có thể nói
được một cách hữu hiệu và tự tin. Bên cạnh được giáo viên yêu cầu nói về một chủ đề
nào đó các em thường không có ý diễn đạt, mặc dù ở một số thời điểm học sinh đã được
chuẩn bị một số ý nhưng khi được yêu cầu nói các em dường như bị quên hết. Chính vì
vậy, khi nói một điều gì đó bằng tiếng Anh các em thường cảm thấy mình buộc phải nói
và do đó không có giao tiếp thực thụ. Một trở ngại nữa là số học sinh trong lớp khá đông
( trên 40 em) nhưng thường chỉ có một học sinh được yêu cầu nói một lần trong nhóm
lớn. Điều này có nghĩa là học sinh sẽ có rất ít thời gian và cơ hội để nói. Ngoài ra, khi học
sinh có hai phương tiện ngôn ngữ là tiếng Anh và tiếng Việt để sử dụng thì xu hướng tự
nhiên là các em sẽ sử dụng phương tiện tốt và dể dàng hơn là tiếng Việt. Đây là hạn chế
không dễ khắc phục đặc biệt là các trường ở nông thôn và vùng sâu vùng xa. Điều này
khiến cho giáo viên đứng lớp suy nghĩ tìm ra những mô thức tương tác hiệu quả hơn.
2. Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học:
Với yêu cầu đổi mới giáo dục, cơ sở vật chất của nhà trường được đầu tư và ngày
càng tăng trưởng. Song do sự thiếu đồng nhất trong nhiều năm liền trước nên cơ sở vật
chất trang thiết bị dạy học còn thiếu như: chưa có đủ bộ tranh cho chương trình tiếng
Anh 7 ; chưa có phòng học mang tính đặc trưng riêng của bộ môn nên giáo viên chưa
thể sắp xếp bàn ghế theo đường hướng người học làm trung tâm, kích thích sự tương tác
hay giao tiếp của học sinh như thảo luận, trò chơi ngôn ngữ, phỏng vấn, hỏi - đáp và các
hoạt động tự làm việc của các cá thể học sinh và giáo viên khó cố định vị trí của các
phương tiện giảng dạy như đèn chiếu, overhead projector, power point để đỡ vận chuyển
dễ gây hỏng hóc, mất thời gian lắp ráp.
3. Thực trạng dạy học kỹ năng nói tiếng Anh ở Trường THCS Hồng Thủy:
Thực hiện đổi mới giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo chúng tôi đã chú trọng
nhiều đến phương pháp dạy học song trong quá trình thực hiện việc tổ chức hoạt động
dạy học tiếng Anh chúng tôi còn rập khuôn với những gì đã được hướng dẫn, thiếu sáng
tạo, thiếu linh hoạt nên hiệu quả tiết học chưa cao. Vì vậy chất lượng dạy học môn tiếng
Anh chưa được như mong muốn. Theo số liệu thống kê điểm kiểm tra miệng kỹ năng nói
02 tháng 9, 10 năm học 2010 - 2011, chất lượng kỹ năng nói tiếng Anh hai lớp 7C, 7
E
tôi giảng dạy được thể hiện như sau:
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Tb Yếu Kém
8.0 -10.0 6.5 - 7.9 5.0 - 6.4 2.1 - 4.9 <,= 2.0
7C 36 2 4 11 17 2
7E 33 3 7 8 14 1
+ 69 5 11 19 31 3
Tỉ lệ
%
7.2% 15.9% 27.5% 44.9% 4.3%
Căn cứ vào bảng thống kê chất lượng trên ta có thể thấy rằng tỉ lệ học sinh yếu kém
khá cao. Điều này chứng tỏ học sinh chưa thể giao tiếp tiếng Anh ở mức độ căn bản. Từ
thực tế đó, là người trực tiếp giảng dạy tiếng Anh tôi đã cố gắng suy nghĩ, tìm tòi các
cách để nâng cao chất lượng kỹ năng nói cho học sinh.
III. CÁC HÌNH THỨC LUYỆN KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CHO HỌC
SINH LỚP 7
Với đường hướng lấy người học làm trung tâm, phương pháp giảng dạy theo đường
hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp thì mục đích của dạy tiếng Anh là để giao tiếp và bản chất
của giao tiếp là tương tác và để giúp học sinh tương tác bằng tiếng Anh có hiệu quả giáo
viên không chỉ rèn kỹ năng nói cho học sinh ở các tiết dạy nói với các thủ thuật dạy nói
trong giai đoạn trước khi nói, trong khi nói và sau khi nói mà con thông qua các hình
thức dưới đây:
1. Luyện thông qua classroom language:
Theo chương sách giáo khoa mới kết hợp phương pháp dạy học mới, học sinh
THCS được khuyến khích sử dụng tiếng Anh càng nhiều càng tốt tùy theo trình độ của
đối tượng. Trong lớp học, giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh giao tiếp bằng nhiều hình
thức: T- Whole class, T-S, S –S. Giáo viên là người hướng dẫn các em làm quen với đàm
thoại từ những tình huống đơn giản là các câu chào hỏi đến đàm thoại theo chủ đề. Ví dụ:
Beginning of the lesson:
*Good morning. How are you?
*Did you have a nice weekend?
*Have you done your homework?
*Let’s play a game now, shall we?
*Are you ready?
Ask for repetition:
*Would you mind repeating…?
*Could you say it again?
*Pardon?
Asking for clarification:
*What is it? Please tell me again.
*What do you mean?
*Could you explain more about ?
Ask for ideas/opinions
*What do you think about that…(name)?
*Do you have any ideas/opinions?
*How about you?
Checking:
*Is that clear?
*Okay so far?
*Have you got it / that?
Trong các hoạt động trên lớp, thường thì giáo viên nên sử dụng toàn bộ tiếng Anh
(mainly English), đôi khi phải sử dụng Tiếng Việt (mainly Vietnamese) và đôi khi sử
dụng cả hai ngôn ngữ ( a mixture of the two languages)
English Vietnames
e
Both
Introducing the lesson
Checking attendance
Organizing
Classroom control / discipline
Giving praise
Presenting new language
Introducing a new text
Asking questions on the text
Correcting errors
Setting homework
2. Luyện nói qua thực hành cấu trúc ngữ pháp:
Hiện nay nhiều học sinh lớp 8 ,9 có vốn từ vựng và ngữ pháp khá tốt nhưng rất ngại
nói tiếng Anh trong giờ học, không có thói quen giao tiếp, các em không tự tin giao tiếp
từ những câu đơn giản như giới thiệu bản thân, …Do vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho
các em rèn luyện kỹ năng nói từ lớp 6, 7.
Để tạo môi trường thuận lợi cho học sinh giao tiếp, tôi đã thực hiện vai trò là người
hướng dẫn và tổ chức thực hiện, uyển chuyển kết hợp nhiều hoạt động trong giờ dạy
nhằm giúp các em tư duy, tham gia thực hành sôi nổi. Từ đó các em tự tin giao tiếp, say
mê hứng thú học bộ môn thông qua các thủ thuật thực hành cấu trúc ngữ pháp trên lớp.
Ví dụ:
* Survey : Tiếng Anh 7 Unit 1 Lesson 5 : B 4,5 - 7
1 2 3
Name
Address
Distance
Means of
transport
*Example exchanges:
S1 : What’s your name ?
S2 : My name’s …….
S1 : Where do you live ?
S2 : I live at ……….
S1 : How far is it from your house to school ?
S2 : It’s about …………
S1 : How do you go to school ?
S2 : I go to school by ………
* Noughts and Crosses : Tiếng Anh 7 Unit 2 Lesson 2 : A 4-5
1)
We / meet / in the street
2)
They / meet / 7 o’clock
3)
He / see / a film
4)
We / go / bike
5)
Hoa / buy / flowers
6)
They / be back / 8.30
7)
She / leave / 5 p.m
8)
Nga / eat / cakes
9)
Phong / call Lan / after
6
1) Where will we meet ?
We will meet in the street.
2) What time will they meet ?
They will meet at 7 o’clock.
3) What will he see ?
He will see a film.
4) How will we go ?
We will go by bike
5) What will Hoa buy ?
She will buy some flowers
6) When will they be back ?
They will be back at 8.30
7) What time will they leave ?
They will leave at 5 p.m
8) What will Nga eat ?
She will eat cakes
9) When will Phong call Lan ?
He will call Lan after six
* Picture drill : Tiếng Anh 7 Unit 4 Lesson 1 A 1-2
Talk about Lan’s schedule
* Noughts and crosses : Tiếng Anh 7 Unit 5 Lesson 4 B1-2
What are they doing ?
1) They are playing blindman’s buff
2) They are playing marbles
3) They are playing games
4) They are skipping rope
5) They are eating and drinking
6) They are reading comics
7) They are playing catch
8) They are studying and reading in the library
9) They are playing soccer
*Find someone who …. Tiếng Anh 7 Unit 6 lesson 1 A 1-2a
Find someone who … after school Name
Watches TV
Plays soccer
Goes swimming in the pool
Reads books in the library
Example exchanges :
S1 : Do you [watch TV] after school ?
S2 : Yes, I do / No, I don’t
3 .Luyện nói ở giai đoạn Pre- & Post- của tiết dạy kỹ năng nghe, đọc, viết:
Như đã trình bày, học sinh được luyện nói không chỉ trong tiết dạy kỹ năng nói mà
còn được luyện phối hợp các kỹ năng (sub skill) ở giai đoạn Pre- và Post-Ví dụ:
* Tiếng Anh 7 Unit 1 Lesson 3 : A 2
- Pre-reading : What do you know about Hoa ?
- Post-reading : Có thể chọn một trong 2 hoạt động sau :
+ Interview : Students work in pair :
S1 : Hoa
S2 : Interviewer
+ Roleplay : Students work in pair :
S1 : Hoa
S2 : Hoa’s new friend
Suggested dialogue :
S2 : Hello
S1 : Hi
S2 : What’s your name ?
S1 : My name is Pham Thi Hoa
S2 : Where are you from ?
S1 : I’m from Hue
S2 : Do you have many friends in Hanoi ?
S1 : No. I don’t have any friends in Hanoi. But I have a lot of friends in Hue.
S2 : Is your old school big ?
S1 : No. It’s small.
S2 : Why are you unhappy ?
S1 : I miss my parents and my friend in Hue very much.
* Tiếng Anh 7 Unit 3 Lesson 4 B1-3
- Post- reading : Chain game : Students work in groups of 5 Ss
*Talk about Hoa’s family
There / 4 people / Hoa’s family
Father / farmer
He / work / farm / countryside
He / grow vegetables / raise cattle
Mother / housewife
She / do / housework / help / farm
Younger sister / 8 / student
S1 : There are four people in Hoa’s family. Her father is a farmer.
S2 : There are four people in Hoa’s family. Her father is a farmer.
S3 : There are four people in Hoa’s family. Her father is a farmer. He works on the farm
in the countryside.
S4 : There are four people in Hoa’s family. Her father is a farmer. He works on the farm
in the countryside. He grows vegetables and raises cattle.
S5 : There are four people in Hoa’s family. Her father is a farmer.He works on the farm
in the countryside. He grows vegetables and raises cattle.Her mother is a housewife.
S1 : There are four people in Hoa’s family. Her father is a farmer. He works on the farm
in the countryside. He grows vegetables and raises cattle. Her mother is a housewife. She
does the housework and helps on the farm.
S2 : There are four people in Hoa’s family. Her father is a farmer. He works on the farm
in the countryside. He grows vegetables and raises cattle. Her mother is a housewife. She
does the housework and helps on the farm. Her younger sister is 8 and she is a student.
* Talk about Lan’s family
There / 4 people / Lan’s family
Father / doctor
He / work / hospital
He / take care / sick children
Mother / teacher
She / teach / primary school
Lan / have / elder brother
He / journalist
He / write / Hanoi newspaper
S1 : There are four people in Lan’s family.
S2 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor.
S3 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor. He works in a hospital.
S4 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor. He works in a hospital.
He takes care of sick children.
S5 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor. He works in a hospital.
He takes care of sick children. Her mother is a teacher.
S1 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor. He works in a hospital.
He takes care of sick children. Her mother is a teacher. She teaches in a primary school.
S2 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor. He works in a hospital.
He takes care of sick children. Her mother is a teacher. She teaches in a primary school.
Lan has an elder brother.
S3 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor. He works in a hospital.
He takes care of sick children. Her mother is a teacher. She teaches in a primary school.
Lan has an elder brother. He is a journalist.
S4 : There are four people in Lan’s family. Her father is a doctor. He works in a hospital.
He takes care of sick children. Her mother is a teacher. She teaches in a primary school.
Lan has an elder brother. He is a journalist. He writes for a Hanoi newspaper.
* Unit 4 Lesson 3 A 6
- Pre-reading : Open prediction : What do you know about schools in the USA ?
- Post-reading : Talk about the differences between schools in the USA and schools in
Vietnam.
In the USA In Vietnam
School uniform x
Classes start 8.30 7.00
Classes end 3.30 – 4.00 11.00
Lessons on Saturday x
Lunch at school
x
- In Vietnam there is school uniform but in the USA there is no school uniform.
- In Vietnam, classes start at 7 o’clock but in the USA they start at 8.30.
- In Vietnam, classes end at 11.00 in the morning but in the USA they end at 3.30 or 4.00
in the afternoon.
- In Vietnam students have to go to school on Saturday but in the USA they don’t go to
school.
- In Vietnam students have lunch at home but in the USA they have lunch at school.
* Unit 7 Lesson 2 : A 2-3
- Post-listening : Talk about public holidays in the USA
- Thanksgiving : turkey , good food
- Independence Day : fireworks display
- New Year’s Day : new clothes , stay up late until midnight
- Christmas : Christmas tree, many gifts
* Unit 8 Lesson 5 B 4-5
- Post-listening : Ask and answer about the price
Items Price
A packet of envelope 2,000 dong
A pen 1,500 dong
A writing pad 3,000 dong
Five stamps 2,500 dong
A phone card 50,000 dong
Example exchange :
S1 : How much is [ a packet of envelope ] ?
S2 : It’s [ 2,000 dong ]
IV.MỘT SỐ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU
Sau một học kỳ thực nghiệm đề tài “Luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 7”
tôi ghi nhận kết quả thống kê điểm kiểm tra miệng kỹ năng nói như sau:
Lớp Sĩ số Giỏi
8.0 -10.0
Khá
6.5 - 7.9
Tb
5.0 - 6.4
Yếu
2.1 - 4.9
Kém
<,= 2.0
7C 36 5 10 11 10 0
7E 33 7 13 5 8 0
+ 69 12 23 16 18 0
Tỉ lệ 17.4% 33.3% 23.2% 44.9% 0%
%
Kết quả trên cho thấy tỉ lệ học sinh đạt điểm trung bình trở lên tăng lên rõ rệt, tỉ lệ
học sinh đạt điểm yếu giảm hẳn và không còn học sinh bị điểm kém. Điều này chứng tỏ
việc vận dụng các cách luyện kỹ năng nói cho học sinh bước đầu đã có kết quả. Đây là
nỗ lực không ngừng của thầy và trò 2 lớp 7C, 7E tôi đảm nhận giảng dạy. Thiết nghĩ, nếu
chúng ta áp dụng các hình thức luyện nói này ở các khối lớp khác chắc cũng sẽ có hiệu
quả nhất định.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Thực hiện đề tài trên tôi rút ra được những bài học sư phạm bổ ích sau đây:
1. Cũng như những môn học khác, để đạt kết quả cao trong việc giảng dạy bộ môn
tiếng Anh người giáo viên phải có tấm lòng thương yêu, tôn trọng học sinh, nắm bắt và
hiểu được tâm lí, năng lực cũng như hoàn cảnh của mỗi học sinh để từ đó có các phương
pháp tác động, khích lệ và phương pháp dạy học phù hợp.
2. Giáo viên phải chuẩn bị thật kĩ cho bài dạy của mình bằng cách nắm vững nội dung,
trọng tâm kiến thức của bài học, soạn thảo khoa học các bài tập trên trình PowerPoint, s-
ưu tầm tranh ảnh, chuẩn bị thẻ, bìa, vật thật để sử dụng thật hợp lý vào bài dạy, lựa
chọn phương pháp, các thủ thuật phù hợp với nội dung bài học. Giáo viên cần biết sử
dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn thông tin hiện đại nh Internet, báo, đài , sử
dụng và khai thác tốt các thiết bị dạy học như: máy chiếu, vật thật, tranh ảnh, bìa, bảng
phụ, sách giáo khoa
3. Giáo viên phải là người giữ vai trò hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Ngoài ra giáo viên
phải giảm tối đa thời gian nói trên lớp, tăng thời gian sử dụng ngôn ngữ cho học sinh.
Giáo viên cần có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của học sinh, chấp nhận lỗi như
một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp học sinh học tập được từ chính lỗi
của bản thân và bạn bè, giáo viên nên biết động viên khích lệ học sinh bằng những lời
khen, cho điểm hoặc tuyên dương để các học sinh khác noi theo, cần coi trọng việc học
theo nhóm hợp tác.
4. Do khó khăn để thực hiện việc kiểm tra kỹ năng nói một cách riêng biệt giáo viên
nên đánh giá kỹ năng nói của học sinh thông các phần kiểm tra nói ở đầu tiết học, các
phần kiểm tra nói 15 phút, đặc biệt là khả năng tham gia vào giao tiếp nói của các em
trong tiết học nói. Lý tưởng hơn để đổi mới phương pháp giảng dạy tiếng Anh một cách
triệt để ,tro ng bài kiểm tra hết học kì hoặc hết năm học nên có một mục dành cho việc
kiểm tra kỹ năng nói của học sinh.
5. Học sinh phải phát huy cao độ tính tích cực của các em trong luyện tập, thực hành,
phải tự giác tham gia thực hành không sợ mắc lỗi. Sự chuẩn bị của học sinh cũng rất cần
thiết như: học thuộc từ, soạn từ mới, đọc trước những gợi ý trong sách giáo khoa, làm bài
tập về nhà.
C. KẾT LUẬN
Tiếng Anh – môn học giúp chúng ta ngày càng hoà nhập vào thế giới hiện đại. Sự
thành thạo ngôn ngữ này ở mức độ căn bản trong trường THCS sẽ giúp cho học sinh học
lên bậc THPT tốt hơn hay có thể tìm được một công việc tốt sau khi ra trường. So với
những năm trước đây, tình hình dạy học môn tiếng Anh có nhiều khả quan, kỹ năng nghe
- nói được đặc biệt chú trọng, học sinh đang ngày càng quen dần với việc sử dụng
phương tiện ngôn ngữ thứ hai này. Để tạo thói quen tốt và dần hình thành năng lực ngôn
ngữ cho học sinh, giáo viên luôn phải tích cực, chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy,
tìm tòi, sáng tạo cách thức tổ chức dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh và điều
kiện giảng dạy ở địa phương. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều khía cạnh cần phải bàn tiếp để
tìm được nhiều biện pháp khả thi hơn trên cơ sở lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn
để công tác giảng dạy tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Những nội dung tôi trình bày trên đây chỉ là kết kinh nghiệm của bản thân, phạm
vi nghiên cứu hẹp, thời gian ngắn, tư liệu ít do đó chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót. Song
với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục, tôi hy vọng đề tài nhỏ này có thể góp thêm
kinh nghiệm giảng dạy kỹ năng nói cho học sinh. Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng
góp quý báu từ các bạn bè đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!