Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ XÂY DỰNG LỘ TRÌNH ÁP DỤNG BASEL III TẠI VIỆT NAM (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.17 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG


BÀI TẬP NHÓM

ĐỀ TÀI 5:
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ
XÂY DỰNG LỘ TRÌNH ÁP DỤNG
BASEL III TẠI VIỆT NAM

Nhóm thực hiện: Nhóm 39
Nguyễn Hồi Đơng – K094040534
Danh Sơ Re Gia – K094040535
Đậu Hùng Khởi Nguyên – K094040576

Mục lục bảng và biểu đồ



LỜI MỞ ĐẦU
Tối đa hóa lợi nhuận và đảm bảo an toàn trong kinh doanh là những mục
tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp, trong đó có ngân hàng thương mại (NHTM).
Do đặc thù và tính “nhạy cảm” trong kinh doanh, hệ thống NHTM luôn tiềm ẩn
rủi ro cao và khi rủi ro phát sinh sẽ tác động sâu sắc tới hoạt động kinh tế - xã hội.
Quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam đang diễn ra ngày càng sâu
rộng trong mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Theo đó, việc áp
dụng các chuẩn mực quốc tế trong quản lý - kinh doanh là xu thế tất yếu. Và việc
áp dụng các chuẩn mực quốc tế để đánh giá an tồn hệ thống NHTM Việt Nam
càng trở nên có ý nghĩa hơn trong bối cảnh mức độ rủi ro trong hệ thống ngân hàng
được đánh giá là khá cao, khó lường trước các hậu quả xảy ra trong giai đoạn hiện


nay. Cùng với quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam, việc đảm bảo an
toàn hoạt động trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế Basel trở thành một vấn đề bức
thiết. Quy mơ vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
mức độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
Tại Việt Nam, sự tăng trưởng vốn của ngân hàng luôn được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà quản trị ngân hàng trong các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện.
Các tổ chức như Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng, Ủy ban Giám sát tài chính
quốc gia (UBGSTCQG) cũng như Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam luôn đưa ra nhiều
cơ chế, chính sách đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng, trong đó nhấn mạnh
việc tăng vốn tự có để đảm bảo an tồn hệ thống tài chính. Vì vậy nhóm quyết định
chọn đề tài “ Đánh giá khả năng áp dụng và xây dựng lộ trình áp dụng Basel III
tại Việt Nam”


Tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Quá trình ra đời của Hiệp ước Basel.
Chương 2: Thực trạng mức đủ vốn (mức đủ vốn tối thiểu) của các NHTM Việt
Nam trên cơ sở đối chiếu với chuẩn mực Việt Nam và chuẩn mực quốc tế Basel.
Chương 3: Các giải pháp áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn Basel nhằm hướng các
NHTM Việt Nam quản lý an tồn vốn theo thơng lệ quốc tế.


5

Chương 1.
1.1.

Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel

Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel:


Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có
những dấu hiệu cạnh tranh khơng lành mạnh giữa các ngân hàng. Nhằm củng cố
hoạt động và tạo ra một cơ chế cạnh tranh bình đẳng của hệ thống ngân hàng, Uỷ
ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision BCBS) được thành lập bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám
sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Ủy ban được nhóm
họp 4 lần trong một năm. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát
hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín
dụng tài chính thành viên.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ
quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất
kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này khơng có tính pháp
lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy
ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát
rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các
tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất
cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp
dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ
thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung
ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm
sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những tiêu chuẩn bao quát một dải
rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban
là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1) không


6

ngân hàng nước ngồi nào được thành lập mà thốt khỏi sự giám sát; và (2) việc
giám sát phải tương xứng.

1.2.

Basel I

Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng Uỷ ban này đã phê duyệt
một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (the Basel Capital
Accord hay Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một
mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối
thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó
mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của
ngân hàng đó. Basel I khơng chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà
còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế.
Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và cơ quan giám
sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức
rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi
ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8%
rủi ro tín dụng của ngân hàng đó. Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm
1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng
lại các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng
thương mại và đến năm 1996, Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí
vốn đối với rủi ro thị trường.
Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường
cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do
có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về
giá trị của một loại tài sản nhất định.Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro
thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khốn và hàng hóa. Rủi ro thị
trường có thể được tính theo 2 phương thức hoặc là bằng mơ hình Basel tiêu chuẩn
hoặc là bằng các mơ hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô



7

hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn
định tính và định lượng được quy định trong Basel.
1.2.1. Mục đích của Basel I:

Chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu tồn cầu hóa nhằm củng
cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
1.2.2. Thành tựu của Basel I:

(i)Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc
tế chung nhất về vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2
loại: Vốn cấp 1, Vốn cấp 2. Trong đó: Vốn tự có = Vốn cấp 1+Vốn cấp 2.
Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phịng được
cơng bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh
viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các
cơng ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm tất cả các vốn khác như: Lợi nhuận giữ lại không
công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phịng thất thu nợ
chung; Cơng cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con
tài chính và các tổ chức tài chính khác.
(ii) Đưa ra tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng: tỉ lệ này được phát triển bởi
BCBS với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là
những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100
quốc gia.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia
quyền (RWA)



8

Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức
vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi
CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
1.2.3. Những hạn chế của Basel I:

Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm
1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.Trong đó, điểm hạn chế cơ bản của Basel I là
không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày
càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp (khơng có u cầu vốn dự phịng rủi ro tác
nghiệp).
Ngồi ra, cịn một số điểm hạn chế khác, như: Khơng phân biệt theo loại rủi
ro; Việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản vay; Chưa tính đến lợi ích từ
việc đa dạng hóa hoạt động (theo lý thuyết thì rủi ro sẽ giảm thơng qua đa dạng
hóa danh mục đầu tư…).
1.3.

Basel II:

Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề
xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước
quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn
bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy
nhiên, rủi ro được tính tốn theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro
tín dụng, rủi ro tác nghiệp (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel
I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị
trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hồn tồn là phiên bản mới đối với rủi ro tác

nghiệp.Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và
rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel
II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “cơng cụ” tốt hơn so với


9

Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân
hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh
khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại
(residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của cơng tác rà sốt giám sát: Thứ nhất,
các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ
theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức
vốn đó. Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ
vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo
tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát
phù hợp nếu họ khơng hài lịng với kết quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát
viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy
định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của
ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi
ngay lập tức nếu mức vốn khơng được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thơng tin một cách
thích đáng theo ngun tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu
buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn,
mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân
hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của
ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này

đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một
cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy,
hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.


10

1.3.1. Mục tiêu của Basel II:

Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập
và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc
tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý
rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel
I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế
điều tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự
điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thơng lệ và các mơ hình.
1.3.2. Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
 Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy

nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các
phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát
và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường.
 Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện
pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
 Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn
với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên
và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi
ro.

 Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Cooperation and Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có
đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngồi.
 Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận
về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm
bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).


11

1.3.3. Những hạn chế của Basel II:

Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng
cố tồn bộ cơng tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng
tài chính hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Đó là:
 Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có

thể được chấp nhận rộng rãi.
 Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu lỳ
kinh doanh.
 Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch
vụ có khoa học cơng nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
Mới đây, lãnh đạo hàng đầu của các nền kinh tế thuộc G20 đã hối thúc Ủy ban
Basel đưa ra biện pháp cải thiện chất lượng và số lượng vốn của các ngân hàng và
thắt chặt yêu cầu thanh khoản (Basel III) để các ngân hàng ứng phó tốt hơn với
khủng hoảng và ngăn khủng hoảng tài chính lặp lại mà không cần đến hỗ trợ từ
chính phủ. Theo dự thảo đưa ra tại G20, đến cuối năm 2012, Basel khuyến cáo các
nước cần áp dụng tiêu chuẩn mới về vốn và đưa ra các biện pháp linh hoạt hơn để
khuyến khích các ngân hàng thay đổi. Hiệp định Basel III được thống đốc các ngân
hàng trung ương và các cơ quan quản lý ngân hàng 27 thành viên (gồm Argentina,

Úc, Bỉ, Brazil, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Ý,
Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg, Mexico, Hà Lan, Nga, Ả Rập Xê Út, Singapore,
Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ) ký kết hôm
12/9/2010 tại Thành phố Basel, Thụy Sỹ. Basel III với những quy định mới về khái
niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu cao hơn, cùng phương pháp giám sát an tồn vĩ mơ
được đánh giá là sự thay đổi lịch sử trong quy định về hoạt động ngân hàng. Trong
đó, hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) được giữ nguyên ở mức 8%, nhưng Basel III
yêu cầu vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1) của các ngân hàng phải nâng từ 4% lên 6%.
Trong 6% vốn cấp 1 đó, 4,5% phải là vốn của các cổ đông phổ thông. Thời hạn để


12

thực hiện riêng quy định này là ngày 1/1/2015.Lộ trình để thực hiện Basel III bắt
đầu từ tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018.
1.4.

Basel III

Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế tồn cầu năm bắt đầu từ năm 2008
cho thấy thiếu sót trong các quy định về tài chính trong hoạt động ngân hàng. Nếu
Cơng ước Basel II chủ yếu tập trung khía cạnh “tài sản” thì Basel III phần lớn tập
trung vào khía cạnh “nợ” của các ngân hàng. Trong đó, Cơng ước mới Basel III
u cầu tăng cường về vốn của ngân hàng, giới thiệu các yêu cầu mới quy định về
tính thanh khoản ngân hàng và địn bẩy ngân hàng. Mục tiêu chính của quy định
mới nhằm cải thiện khả năng chịu đựng của lĩnh vực ngân hàng khi đối mặt cú sốc
bắt nguồn từ những căng thẳng tài chính và kinh tế, từ đó làm giảm nguy cơ khủng
hoảng lan truyền của khu vực tài chính cho nền kinh tế.
Về cơ bản, Cơng ước Basel III đề cập đến 05 nội dung thay đổi đáng kể so
với Basel II, cụ thể như sau:

 Chất lượng, tính nhất quán và sự minh bạch của nguồn vốn được nâng lên, xây

dựng quy định mới về định nghĩa vốn cấp 1 và cấp 2.
 Yêu cầu tăng vốn tối thiểu để đảm bảo sự an toàn khi đối mặt các rủi ro phát sinh.
 Đưa ra tỷ lệ đòn bẩy bổ sung khung rủi ro so với Basel II để bổ sung lớp bảo vệ

đòn bẩy thứ 2 và bảo vệ chống lại rủi ro mô hình, sai số đo.
 Biện pháp thúc đẩy xây dựng vùng “vốn đệm” trong thời kỳ thuận lợi để phòng

ngừa trong điều kiện thị trường xấu.
 Triển khai tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu cho ngân hàng quốc tế

bằng tỷ lệ thanh khoản ngắn hạn trong 30 ngày và tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài
hạn.
Theo kế hoạch, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng thực hiện triển khai
Basel III tại các ngân hàng quốc tế từ năm 2012 đến năm 2018. Việc thực hiện
Basel III sẽ tạo áp lực lớn với các ngân hàng tuy nhiên đây là cơ sở vững chắc cho


13

các ngân hàng quốc tế đối mặt thách thức rủi ro càng ngày càng phức tạp trong bối
cảnh nền kinh tế hiện tại.
1.5.

Nhiệm vụ các NHTM khi triển khai áp dụng Basel III

Như vậy, nếu triển khai áp dụng Basel III, các NHTM sẽ cần thay đổi trên 4
nội dung chính như sau:
 Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn. Trước hết, Basel III sẽ giúp nâng cao chất


lượng vốn của các ngân hàng một cách đáng kể. Đây là đặc điểm chính của Basel
III. Chất lượng vốn tốt hơn đồng nghĩa với việc bù đắp các khoản lỗ tốt hơn, điều
này giúp cho ngân hàng “khỏe” hơn, do đó có khả năng chống đỡ tốt hơn trong
thời kì khó khăn.
Theo quy định hiện tại, những tài sản có chất lượng kém sẽ phải khấu trừ vào
vốn (vốn cấp 1 + vốn cấp 2). Còn theo Basel III, việc khấu trừ sẽ nghiêm ngặt hơn,
khấu trừ thẳng vào vốn cổ phần thông thường. Hơn nữa, định nghĩa vốn cấp 1 cũng
quy định chặt chẽ hơn bao gồm vốn thường và các cơng cụ tài chính có chất lượng
theo những tiêu chuẩn chặt chẽ.
 Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn. Theo quan điểm của Basel, chất

lượng vốn tốt hơn vẫn chưa đủ. Rút kinh nghiệm từ bài học của cuộc khủng hoảng
tài chính, Ủy ban Basel cho rằng khu vực ngân hàng cần nhiều vốn hơn nữa. Do
đó, những tiêu chuẩn về hạn mức tối thiểu về vốn của các ngân hàng sẽ tăng mạnh
trong những năm tới. Theo quy định này, các ngân hàng phải duy trì mức vốn phù
hợp trên mức vốn tối thiểu tùy vào mức độ rủi ro, mơ hình kinh doanh, điều kiện
kinh tế.
Theo Basel III, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng tỷ lệ của loại vốn có
chất lượng cao được nâng lên, cụ thể: tỷ lệ vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên
6% trong Basel III, đồng thời tỷ lệ vốn của cổ đông thường (common equity) cũng
được tăng từ 2% lên 4,5%. Basel III yêu cầu áp dụng bổ sung tỷ lệ đòn bẩy tối
thiểu thử nghiệm ở mức 3%. Đây là tỷ lệ của vốn cấp 1 so với tổng tài sản hiện có


14

cộng với các khoản mục ngoại bảng. Việc áp dụng thử nghiệm tỷ lệ này cho phép
Ủy ban Basel theo dõi biến động tỷ lệ đòn bẩy thực của các ngân hàng theo chu kỳ
kinh tế và mối quan hệ giữa các yêu cầu về vốn với tỷ lệ đòn bẩy.

 Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an tồn vĩ mơ hệ thống để các ngân hàng

áp dụng. Theo BIS, có hai việc cần làm để hạn chế rủi ro hệ thống hiệu quả: (1)
giảm mức độ khuyếch đại của khủng hoảng theo chu kỳ kinh tế. Xu hướng hệ
thống tài chính này có thể làm khuyếch đại giai đoạn thăng trầm của nền kinh tế
thực; (2) mối quan hệ phụ thuộc và những rủi ro chung của các tổ chức tài chính,
đặc biệt đối với những ngân hàng có vai trị quan trọng trong hệ thống. Như vậy,
Basel III là một bước ngoặt trong việc xây dựng các quy định tài chính và là lần
đầu tiên đề cập tới các thước đo giám sát an toàn vĩ mô được sử dụng để bổ sung
cho phương pháp giám sát an tồn vi mơ của từng tổ chức tín dụng. Ủy ban Basel
đang nghiên cứu các thước đo đối với những tổ chức có tầm quan trọng đối với hệ
thống.
 Thứ tư, quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng. Basel III đưa ra
tiêu chuẩn về thanh khoản. Đây là điều đặc biệt quan trọng chưa có tiêu chuẩn
quốc tế nào quy định về vấn đề này. Tỷ lệ thanh khoản sẽ được ban hành, giúp
ngân hàng có khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với những căng thẳng thanh
khoản. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản
cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những trường hợp khó
khăn.
1.6.

Đánh giá khả năng áp dụng Basel III tại Việt Nam

Trích từ bài báo điện tử “thực thi Basel III, các ngân hàng Việt Nam đáp ứng
đến đâu?” của Kinhte24h.com.
Với nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới,
ngày 12/9/2010, Hiệp định Basel III với những quy định nghiêm ngặt hơn dành


15


cho các ngân hàng thuộc 27 thành viên đãđược Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel
ban hành.
Trong đó, hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) được giữ nguyên ở mức 8%,
nhưng Basel III yêu cầu vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1) của các ngân hàng phải nâng
từ 4% lên 6%. Trong 6% vốn cấp 1 đó, 4,5% phải là vốn của các cổ đông phổ
thông.
Với quy định như vậy, một số ý kiến cho rằng, các NHTM Việt Nam hồn
tồn có thể áp dụng theo Basel III. Bởi theo quy định của Thông tư 13/2010/TTNHNN, kể từ ngày 1/10/2010, các tổ chức tín dụng phải đảm bảo CAR là 9%, cao
hơn so với quy định cũ là 8% và các NHTM chỉ phải điều chỉnh tăng tỷ lệ này vào
các năm tiếp theo từ năm 2018 trở đi để đạt được tỷ lệ vốn tối thiểu 10,5%, kể cả
phần vốn đệm dự phịng tài chính.
Tuy nhiên, tại hội thảo Rủi ro Việt Nam 2011 (RiskVietnam) được AsiaRisk
tổ chức ngày 26/4 tại Hà Nội vừa qua, ông Chhagla Suleman, Giám đốc rủi ro
Techcombank cho rằng, một số ngân hàng của Việt Nam chưa sẵn sàng với Basel II
ngay tại thời điểm này, chứ chưa nói đến Basel III.
Theo ơng Suleman, để đạt được Basel III đòi hỏi phải đặt ra nhiều cơ chế
mới nhưđầu tư về công nghệ, cơ sở hạ tầng có chất lượng, cơ sở dữ liệu thực sự
phát triển trước khi bắt đầu suy nghĩ về mơ hình tiên tiến để tối ưu hố vốn của
ngân hàng. "Chấp nhận khn khổ Basel III cho tồn hệ thống ngân hàng Việt
Nam tới thời điểm năm 2015 là hơi khó", ơng Suleman nhận định.
Đồng quan điểm trên, ơng Hendra Tan, Giám đốc Quản lý rủi ro dịch vụ tài
chính Ernst&Young cho rằng, Việt Nam dự định thực thi Basel III vào năm 2015 là
hơi gấp, nếu căn cứ vào kinh nghiệm của các nước khác trong việc quản lý rủi ro
tín dụng. Basel III là giải pháp tối ưu, nhưng nếu hệ thống ngân hàng Việt Nam
khơng có yếu tố căn bản về cơ sở hạ tầng thì không thể tiếp cận.


16


Minh chứng cho khó khăn này, nhiều chuyên gia tài chính ngân hàng cho
biết, ngay cả những NHTM lớn của Việt Nam như Vietcombank, Vietinbank,
BIDV, mặc dù hiện đều đảm bảo CAR 8% theo Quyết định 457 và các quyết định
bổ sung, nhưng là được tính tốn theo chuẩn mực kế tốn Việt Nam, nên có sự sai
lệch khá xa khi tính lại theo chuẩn mực kế tốn quốc tế. Bên cạnh đó, vốn cấp 2
của các ngân hàng Việt Nam hiện còn hạn chế; vốn vay mượn dài hạn để tính vào
vốn tự có là hạn chế.Mặt khác, việc đánh giá lại tài sản cố định của các ngân hàng
Việt Nam hàng năm để tính lại vốn tự có là chưa được thực hiện.
Mặc dù vậy, ông John V Nguyễn, Phó giám đốc rủi ro, tuân thủ và tác
nghiệp của VinaCapital nhận xét, việc buộc các ngân hàng áp dụng Basel III sẽ là
thách thức, nhưng khả năng có thể thực hiện được. Muốn vậy, các NHTM cần phải
có chiến lược rõ ràng, phải đánh giá cụ thể tình hình hiện tại, xác định những vấn
đề có thể triển khai ngay để thực hiện cũng như thay đổi việc quản lý. "Sẽ mất thời
gian khoảng 4 - 5 năm, nhưng làm được sẽ là điều tốt cho nền kinh tế Việt
Nam.Đặc biệt, trong con mắt các nhà đầu tư nước ngồi, thị trường tài chính ngân
hàng Việt Nam n tâm hơn", ơng John nói.
Thế nhưng, ơng Philippe Carrel, Phó chủ tịch điều hành, quản lý rủi ro của
Thomson Reuters lại nêu quan điểm hồn tồn khác: Khơng nên coi Basel II, Basel
III như là những biểu tượng chất lượng đảm bảo an toàn. Basel I được tạo ra những
năm 90 của thế kỷ trước để đối phó với tác động của sự sụp đổ TTCK.Sau đó là
Basel II nhưng vẫn xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và giờ đây là
Basel III.
Vấn đề là sắp tới sẽ là gì? Các nhà quản lý cần quan sát, theo dõi đâu là tập
quán tốt để áp dụng trên thị trường trong nước. "Việt Nam sẽ còn đi xa hơn, chứ
không phải là câu hỏi: liệu năm 2015, Việt Nam thực hiện Basel III không? Quan
trọng là ngân hàng tốt nhất, chứ không phải là ngân hàng tuân thủ tốt nhất", ơng
Philippe nói.


17


Kết luận
Nhìn vào những nhận xét của các chuyên gia ta thấy Hiệp ước vốn Basel III
là giải pháp tối ưu trong quản trị rủi ro của NHTM. Tuy nhiên, hiện hệ thống ngân
hàng Việt Nam cịn gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng Basel III. Nhưng khả
năng áp dụng là có thể nếu NHNN Việt Nam đưa ra các giải pháp, chính sách
nhằm khắc phục những khó khăn, thiếu sót của hệ thống ngân hàng.


18

Chương 2.

Thực trạng mức đủ vốn của các NHTM Việt

Nam trên cơ sở đối chiếu với chuẩn mực Việt Nam và
chuẩn mực quốc tế Basel
2.1.

Thực trạng mức đủ vốn của các NHTM Việt Nam trên cơ sở đối

chiếu với chuẩn mực Việt Nam
Xét trên giác độ quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tình hình thực
hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng Việt Nam có thể chia theo 3 giai
đoạn như sau:
(i) Giai đoạn thứ nhất: Áp dụng Quyết định 297/1999/QÐ-NHNN5 quy định
về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM. Thời kỳ này, khối
NHTM Nhà nước không đảm bảo được mức an toàn vốn tối thiểu. Tại thời điểm
năm 2000, trước thực trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, có nguy cơ dẫn đến sự phá sản
của các NHTM Nhà nước, Chính phủ đã trực tiếp cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng

cấp trái phiếu đặc biệt với thời hạn 20 năm để tăng vốn tự có cho 4 NHTM Nhà
nước đưa tổng mức vốn tự có của khối này lên mức hơn 18.000 tỷ VND, chiếm
51% vốn tự có của tồn hệ thống. (Xem Bảng 1)
Ðơn vị : Tỷ VND
Bảng 2.. Vốn tự có và hệ số CAR (hệ số an toàn vốn) của các NHTM NN thời
điểm 31/12/2005
STT
1
2
3
4
5

Ðơn vị : Tỷ VND

Tên ngân hang Tổng TS Có
Vốn tự có
CAR (%)
Vietcombank
136.721
4.279
Vietinbank
116.373
3.405
BIDV
121.404
3.971
Agribank
179.281
6.411

MHB
12.676
910

7,32
5,35
5,51
4,79
8,48


19

Do thị phần hoạt động của 5 NHTM trên chiếm đến 70-75%; vì vậy, có thể
nói sự an tồn trong hoạt động của nhóm ngân hàng này quyết định sự an toàn của
toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, xem xét Bảng 1, chúng ta có thể
thấy hầu hết các NHTM NN đều chưa đạt được yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu 8% (trừ MHB - Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng song Cửu Long). Nếu
xét trên tồn bộ hệ thống ngân hàng có thể nhận thấy, trong khi các NHTM NN
gặp khó khăn trong việc đạt chuẩn an tồn vốn thì các NHTMCP thời điểm này lại
đảm bảo được mức an toàn vốn.
Bảng 2.. Bảng tổng hợp vốn tự có của hệ thống NHTM đến 31/12/2005
Ðơn vị : Tỷ VND

Các định chế tài chính

Tổng
vốn

Hê thống NHTM

NHTM Nhà nước
NHTMCP đơ thị
NHTMCP nơng thơn
NH liên doanh
Chi nhánh NH nước ngồi

nguồn Vốn tự CAR (%)

872.062
44.030
5,5
617.786
23.581
4,1
156.140
11.198
8,0
3.043
667
24,0
13.192
1.522
12,0
81.899
7.059
9,2

Mặc dù các NHTM Việt Nam đã nỗ lực và hầu hết các NHTM cổ phần đều
đạt được hệ số an toàn vốn trên 8%, song nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn
của Basel II, tức là mẫu số phải cộng thêm cả vốn dành cho rủi ro thị trường và rủi

ro hoạt động (RRHÐ) thì chắc chắn rất ít NHTM Việt Nam giai đoạn này
đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%.
(ii) Giai đoạn hai: Giai đoạn thực hiện Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN
quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%
Trong giai đoạn này, vốn tự có của các NHTM đã gia tăng nhanh chóng nhờ sự
thuận lợi của môi trường kinh doanh cũng như sự bùng nổ của thị trường chứng


20

khoán thời kỳ 2006-2008. Nếu xem xét trên số liệu của các NHTM có quy mơ hoạt
động lớn trong Bảng 3 có thể nhận thấy nhiều NHTM đạt được yêu cầu về hệ số an
toàn vốn 8%.
Bảng 2.. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của một số NHTM
CAR
2005
2006
2007
2008
2009

VCB
9,57
12,60
9,20
8,90
7,64

CTG
4,36

5,18
11,62
1,02
8,06

ARG
0,41
4,90
7,20
7,90
4,86

BIDV
3,36
5,50
6,67
6,50
7,55

TCB
15,72
17,28
14,30
13,99
9,60

STB Ðơn vị : % EAB
ACB
15,40
11,82

11,07
12,16
10,90

12,10
10,89
16,19
12,44
9,97

8,94
13,57
14,36
10,75
n.a

Nguồn: website NHNN
Bên cạnh đó, làn sóng chuyển đổi từ NHTMCP nông thôn sang NHTMCP
đô thị trong giai đoạn này đã khiến cho bức tranh toàn hệ thống ngân hàng về an
toàn vốn tồn tại nhiều gam màu xám. Nếu căn cứ theo Nghị định 141/2006/NÐ-CP
(ngày 22/11/2006), thì đến cuối năm 2010, các NHTMCP phải đạt mức vốn pháp
định tối thiểu là 3.000 tỷ VND. Một số ngân hàng đã thực hiện tăng mức vốn pháp
định theo qui định để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nhưng còn nhiều ngân
hàng vẫn đang trong quá trình triển khai kế hoạch tăng vốn pháp định. Do đó, tỷ lệ
an tồn vốn tối thiểu của tồn hệ thống ngân hàng có tăng lên, nhưng vẫn chưa
đảm bảo mức tăng theo tiêu chuẩn tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Vấn đề đáng lưu ý ở
giai đoạn này là do tác động của chính sách kích cầu cũng như việc thực hiện nới
lỏng tiền tệ của NHNN nên tín dụng tại các NHTM đã tăng đột biến. Ðiều này dẫn
đến hệ lụy tổng tài sản rủi ro của các NHTM tăng lên và kết quả là các NHTM
trong nhóm trên đều có xu hướng sụt giảm tỷ lệ an tồn vốn, trong đó, VCB đã tụt

xuống dưới mức an toàn tối thiểu 8% trong năm 2009.
(iii) Giai đoạn 3: Thực hiện đảm bảo an toàn vốn tối thiểu 9% theo tinh thần của
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. Trong giai đoạn này, bức tranh về đảm bảo an


21

tồn vốn là khá phức tạp. Nếu nhìn vào mức tính tốn cho tồn hệ thống, hệ thống
NHTM Việt Nam đã đảm bảo được hệ số an toàn vốn tối thiểu 9%.
Bảng 2.. Tỷ lệ an toàn vốn của toàn ngành Ngân hàng năm 2010 – 2011
Năm 2010
11,02%

Tỷ lệ an tồn vốn

9/2011
11,92%
(Nguồn: UBGSTCQG)

Tuy nhiên, tình hình đảm bảo an tồn vốn tối thiểu của các NHTM có xu
hướng phân nhóm rõ rệt. Trong các NHTM NN lớn, Agribank và Vietinbank vẫn
khơng thể đạt được quy định về mức an tồn vốn tối thiểu 9% trong năm 2010.
Ðiều này là đáng lo ngại nếu xét trên phương diện rủi ro hệ thống.
Bảng 2.. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của một số NHTM năm 2010
Ðơn vị : %

CAR
2010

VCB

9

CTG
8,02

ARG
6,09

BIDV
9,32

TCB
13,11

STB
10,32

ACB
10,4

EAB
10,84

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các báo cáo thường niên của các NHTM)
Ðối với khối NHTMCP, các ngân hàng quy mô lớn đều có xu thế đạt được
yêu cầu mới của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ thực sự
gặp khó khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an tồn. Cụ thể đến thời
điểm 31/6/2011, tỷ lệ CAR của nhiều các ngân hàng cổ phần như ACB,
Sacombank, Eximbank, Techcombank, Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9% theo
tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. Trong khi đó, đến tháng 11/2011,

vẫn cịn 5 NHTM cổ phần vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nếu xem xét theo
tinh thần Nghị định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì tính đến thời
điểm hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15 NHTMCP (chiếm tỷ trọng 36,59%) có vốn
điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở khoảng 2.000 tỷ đồng. Như vậy, dù giãn tiến
độ 1 năm nhưng một số ngân hàng nhỏ của Việt Nam vẫn không thể đạt được các
quy định đảm bảo mức vốn pháp định.


22

Biểu đồ 2.. Vốn điều lệ của các NHTM đến 30/6/2011
Như vậy, nếu xem xét về hình thức, các NHTM Việt Nam có thể đạt được
các chuẩn mực của Basel I với mức an toàn vốn tối thiểu 8%. Tuy nhiên, vấn đề
đặc biệt đáng lưu ý là những NHTM có quy mơ lớn nhất hệ thống lại khơng đảm
mức an tồn và có thể đe dọa an tồn hệ thống. Ngồi ra, các NHTMCP chuyển từ
NHTM nơng thơn dường như gặp nhiều khó khăn để đáp ứng yêu cầu an toàn vốn
tối thiểu 9%.
2.2.

Thực trạng mức đủ vốn của các NHTM Việt Nam trên cơ sở đối

chiếu với chuẩn quốc tế Basel II & III
Căn cứ theo các số liệu được cơng bố chính thức, hệ số an tồn vốn của toàn
hệ thống NHTM đạt ở mức trên 8% (theo Quyết định 457/2005/NHNN) và trên
9% (theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN). Tuy nhiên, nếu căn cứ đúng những quy
định của Ủy ban Basel về an tồn vốn tối thiểu thì sự an tồn của hệ thống NHTM
về vốn cần có những đánh giá lại.


23


Biểu đồ 2.. Các chỉ tiêu tài chính hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008
– 9/2011
Thứ nhất, đối với khối NHTMCP, giai đoạn từ năm 2008 đến nay, đã chứng
kiến sự mở rộng mạnh mẽ về quy mô tổng tài sản của hệ thống NHTM Việt Nam,
đặc biệt là ở nhóm NHTMCP với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản trung bình vào
khoảng 45%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn tự có của nhóm NHTMCP lại khơng
theo kịp tốc độ mở rộng tổng tài sản. Ðiều đó dẫn đến hiện tượng hệ số an tồn vốn
của nhóm ngân hàng này có xu thế giảm, đặc biệt trong năm 2010 và 2011. Hơn
thế, như khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số an tồn vốn ổn định
nhưng tỷ lệ địn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn trong hệ


24

thống NHTM. Ðối với khối NHTMCP, xu hướng hệ số địn bẩy tài chính cao có
thể nhận thấy khá rõ. Trên đà tăng như hiện nay (hình 3), khả năng chống đỡ của
NHTMCP trước rủi ro là rất đáng lo ngại.

Biểu đồ 2.. Các chỉ tiêu tài chính của nhóm NHTMNN giai đoạn 2008 – 9/2011
(bảng trái), Các chỉ tiêu tài chính của nhóm NHTMCP giai đoạn 2008 – 9/2011
(bảng phải)
Bên cạnh đó, danh mục tài sản có của các NHTMCP trong giai đoạn 20102011 đang có sự thay đổi đáng chú ý: tỷ trọng tiền gửi tại các NHTM và chứng
khoán đầu tư tăng lên đáng kể trong khi tỷ trọng tín dụng giảm xuống. Bên cạnh
tác động khách quan từ nền kinh tế và hạn mức tăng trưởng tín dụng 20%, việc
NHNN yêu cầu các NHTM giảm tín dụng phi sản xuất xuống còn 16% vào cuối
năm 2011 có thể đã hạn chế năng lực mở rộng các khoản cho vay đối với các ngân
hàng này, đặc biệt là các NHTMCP nhỏ vốn có tỷ lệ dư nợ cho vay kinh doanh bất
động sản trên tổng dư nợ ở mức cao. Do thị trường bất động sản đang rơi vào tình
trạng trầm lắng, nhiều khoản vay đến hạn không trả được nợ ảnh hưởng tiêu cực



25

tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng (ngân hàng buộc phải chuyển nhóm nợ và
trích lập dự phịng rủi ro, tình hình thanh khoản bị suy giảm). Tỷ lệ nợ xấu được
NHNN cơng bố cho tồn ngành Ngân hàng là 3,39%, tương đương với khoảng
20% mức vốn tự có. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chưa phản ánh đúng thực chất
RRTD của hệ thống ngân hàng Việt Nam do tiêu chuẩn phân loại nợ cũng như
công tác phân loại nợ của các ngân hàng còn nhiều bất cập. Nếu như các ngân hàng
phân loại nợ đúng theo chuẩn mực quốc tế và định giá chính xác giá trị tài sản bảo
đảm cho các khoản vay (53% là bất động sản) thì chi phí dự phịng rủi ro sẽ tăng
lên, và vốn tự có của hệ thống ngân hàng sẽ bị ăn mịn đáng kể. Phân tích trên cho
thấy mặc dù hệ số CAR của nhóm NHTMCP cao hơn mức quy định của NHNN
nhưng không đồng nghĩa với việc khả năng chống chịu rủi ro của các ngân hàng
được bảo đảm.
Thứ hai, đối với nhóm NHTMNN, những năm gần đây, các ngân hang này
đã tiến hành IPO và phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ, bán cổ phần cho các tổ
chức nước ngoài cũng như nhận được bổ sung vốn góp từ Chính phủ nên tỷ trọng
vốn tự có trên tổng tài sản đã tăng lên tương đối. Mặc dù vậy, hệ số CAR của một
số ngân hàng trong một số thời kỳ vẫn không đạt mức yêu cầu theo quy định tại
Thông tư 13/2010/TT-NHNN. Ðặc biệt, Agribank - ngân hang có mức vốn điều lệ
và tổng tài sản lớn nhất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ đạt mức 6,09% vào
năm 2010. Chỉ cần đơn giản tính chênh lệch giữa vốn tự có thực có của khối
NHTMNN tại thời điểm tháng 9/2011 với vốn tự có theo quy định an tồn vốn tối
thiểu tại Thơng tư 13/2010/TT-NHNN thì cần phải bổ sung một lượng vốn là
17.638,756 tỷ VND cho khối NHTMNN. Hơn thế, tỷ lệ đòn bẩy của khối này lại ở
mức cao hơn so với khối NHTMCP trong suốt giai đoạn từ 2008 đến nay. Ðặc biệt,
như trên đã phân tích, khối NHTMNN cho vay lại các NHTMCP với một lượng
vốn khá lớn. Do đó, một khi một trong những NHTMCP có vấn đề, hiệu ứng lan

truyền rủi ro sẽ cao.


×