Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
mở đầu
Ngành sản phẩm sữa Việt Nam đã hình thành và phát triển từ những năm
1960, cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử phát triển kinh tế
nớc nhà. Trong quá trình này ngành sản phẩm sữa đã có những đóng góp nhất
định cho sự phát triển ngành công nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói
chung, tạo công ăn việc làm cho nhiều ngời lao động, đóng góp tích cực vào ch-
ơng trình xoá đói giảm nghèo của khu vực nông thôn, thực hiện công nghiệp
hoá và hiện đại hóa nông nghiệp. Song từ trớc tới nay ngành sản phẩm sữa nội
địa đợc phát triển trong chế độ bảo hộ của Nhà nớc để thực hiện chiến lợc thay
thế hàng nhập khẩu. Những biểu hiện thuận lợi hiện nay của sản phẩm sữa Việt
Nam không hẳn đã phản ánh đúng bản chất năng lực thực sự.
Trong bối cảnh mới, khi mà Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức quốc tế
nh ASEAN, APEC, AFTA và với xu thế hội nhập của nền kinh tế nớc ta vào nền
kinh tế khu vực và thế giới, môi trờng cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, nền kinh tế thị
trờng sẽ đợc hoàn thiện hơn, chế độ bảo hộ đối với ngành sản phẩm sữa sẽ
không còn phù hợp nữa. Liệu sản phẩm sữa Việt Nam có tìm đợc chỗ đứng cho
mình hay không khi những đặc chế này bị xoá bỏ. Cùng với những giới hạn của
các nguồn lực phát triển không cho phép chúng ta đầu t lãng phí vào những
ngành không có hiệu quả cạnh tranh cao.
Vì vậy, việc đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam là
cần thiết, góp phần quan trọng trong việc định hớng và xây dựng những chính
sách phát triển liên quan đến ngành.
Đứng trớc yêu cầu trên em đã lựa chọn đề tài Đánh giá khả năng cạnh tranh
trên thị trờng nội địa của ngành sản phẩm sữa Việt Nam để làm đề tài cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm có ba chơng, kết cấu nh sau:
Chơng I: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa
Việt Nam.
Chơng II: Đánh giá năng lực cạnh tranh trên thị trờng nội địa của
1
Nguyễn Thị Minh Trang
1
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
ngành sản phẩm sữa Việt Nam.
Chơng III: Một số giải pháp phát triển cho ngành sản phẩm sữa
Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhng do hạn chế về kinh nghiệm và trình độ nên
chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận đợc ý kiến
đóng góp của thầy cô, cán bộ hớng dẫn nơi thực tập và của các anh chị em sinh
viên.
Em xin chân thành cảm ơn ThS. Vũ Cơng cùng tập thể cán bộ Ban nghiên cứu
và phát triển các ngành sản xuất đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực
hiện chuyên đề này
!
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2005
2
Nguyễn Thị Minh Trang
2
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Chơng i
lý luận chung về năng lực cạnh tranh
của ngành sản phẩm sữa Việt nam
I/ những vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh
tranh của một ngành sản phẩm:
Nếu sét về năng lực cạnh tranh, chúng ta phải dặt ngành sản phẩm trong
hai môi trờng cạnh tranh cụ thể để phân tích: đó là cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nớc và cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nớc và doanh nghiệp n-
ớc ngoài. Trong bài này, chỉ lựa chọn đánh giá khả năng cạnh tranh ở tầm vĩ
mô, tức là khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm giữa các đối thủ quốc tế
trên cùng một thị trờng, không đi vào phân tích năng lực cạnh tranh giữa các
sản phẩm trong cùng một nớc.
1.Khái niệm về năng lực cạnh tranh và cách tiếp cận vấn đề :
Vấn đề cạnh tranh, về mặt lý luận, từ lâu đã đợc các nhà kinh tế học trớc
C.Mác và chính các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề cập đến.
Thuật ngữ cạnh tranh đợc dùng ở đây là cách gọi tắt của cụm từ cạnh tranh kinh
tế (Economic Competition ) bằng một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện trong quy trình hình thành và phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của
các quy luật thị trờng, nh quy luật giá trị, quy luật cung cầu do các cách tiếp
cận khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh.
Kế thừa các quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy rằng: cạnh
tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế
thị trờng cùng theo đuổi mục đích, đó là lợi ích (trong đó bao gồm cả vấn đề lợi
nhuận tối đa). Cạnh tranh chính là phơng thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh
tế giữa các chủ thể.
3
Nguyễn Thị Minh Trang
3
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Cạnh tranh có thể đợc phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức
khác nhau, nếu xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể kinh tế trong cạnh
tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. C.Mác đã
dùng cách phân loại trên đây nghiên cứu cơ sở khoa học của các phạm trù giá
trị thị trờng, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. ở đó, C.Mác chỉ rõ trớc hết
để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện sự cạnh tranh trong
nội bộ ngành, kết quả là hình thành giá trị thị trờng. Và sau nữa, để đạt mục tiêu
giành nơi đầu t có lợi, giữa các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh tranh giữa các
ngành, kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Cuối cùng
xét theo phạm vi lãnh thổ ngời ta nói tới cạnh tranh trong nớc và cạnh tranh
quốc tế. Trong trờng hợp này năng lực cạnh tranh của sản phẩm sữa đợc đánh
giá trên góc độ là cạnh tranh trong nội bộ ngành sản phẩm đồng thời xét theo
phạm vi lãnh thổ chúng ta đánh giá và so sánh khả năng cạnh tranh nh là cuộc
cạnh tranh quốc tế, mặc dù vấn đề chúng ta nghiên cứu chủ yếu là cạnh trên thị
trờng trong nớc là chính.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái
niệm nh sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Rõ ràng
các khái niệm trên đều có quan hệ với cạnh tranh nhng không hoàn toàn đồng
nhất với nhau. Trong thực tế, thì sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng
lực cạnh trang đợc sử dụng nh những khái niệm đồng nghĩa. Thuật ngữ năng lực
cạnh tranh đợc sử dụng rộng rãi trong các phơng tiện thông tin đại chúng, trong
các sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế,
các chính khách, nhà kinh doanh Cho đến nay vẫn ch a có một sự nhất trí cao
trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lờng phân
tích năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia, ngành, công ty Lý do là ở chỗ có
nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh.
Trong bài này, trên quan điểm xuất phát của cạnh tranh là bắt đầu từ khi
các doanhh nghiệp phải đơng đầu với những khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị
trờng khi cung lớn hơn cầu. Nên chúng ta có thể hiểu khả năng cạnh tranh của
4
Nguyễn Thị Minh Trang
4
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
ngành sản phẩm của một nớc chính là điểm mạnh mà đối thủ cạnh tranh không
dễ dàng có đợc (đối thủ cạnh tranh ở đây có thể là các cùng đối thủ cạnh tranh
cùng ngành của một nớc khác hoặc các đối thủ cạnh tranh từ các sản phẩm thay
thế ). Điểm mạnh ở đây, theo M.Porter đó là khả năng doanh nghiệp đáp ứng
yêu cầu của khách hàng với chi phí sản xuất thấp nhất. Tức là, khả năng cạnh
tranh của sản phẩm ở đây có đợc thể hiện qua giá, có thể là chất lợng hay là sự
kết hợp của cả hai mà doanh nghiệp hay ngành sản phẩm của một nớc có thể
cung cấp cho khách hàng của mình mà vẫn đảm bảo đợc mức lãi xuất cho
doanh nghiệp hay cho ngành.
2.Phơng pháp phân tích khả năng cạnh tranh của ngành sản
phẩm sữa:
Phơng pháp phân tích này dựa trên cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh
của M.Porter về ngành sản phẩm. Theo M.Porter năng lực cạnh tranh của sản
phẩm có thể dựa vào hai tiêu thức: sản phẩm có giá rẻ hơn so với đối thủ cạnh
tranh hoặc là sản phẩm có giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khách biệt. Nhng xét
đến sau cùng M.Porter vẫn cho rằng bản chất khả năng cạnh tranh của một
ngành sản phẩm đối với một nớc là khả năng giảm chi phí sản xuất loại sản
phẩm ngành đó.
Do vậy chúng ta có thể sử dụng hai chỉ tiêu sau để đánh giá khả năng cạnh
tranh của ngành sản phẩm:
2.1.Các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của sản phẩm:
2.1.1 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá:
Chỉ tiêu này đợc sử dụng với vai trò là một sự so sánh về giá giữa các
doanh nghiệp cạnh tranh. Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng đầu tiên khi xem
xét xem một sản phẩm nào đó có khả năng cạnh tranh hay không. Bởi thông
qua giá, mà doanh nghiệp có khả năng thu hút ngày càng nhiều hơn khách hàng
về phía mình, tất nhiên là trong mối tơng quan với chất lợng sản phẩm mà
doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng nhất là
5
Nguyễn Thị Minh Trang
5
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
đối với các doanh nghiệp hay với ngành sản xuất sản phẩm có ít hàm lợng khoa
học kĩ thuật, nh hàng tiêu dùng thông thờng đặc biệt là hàng lơng thực thực
phẩm. Nhất là trong điều kiện về thu nhập của ngời tiêu dùng còn thấp.
Vấn đề khả năng cạnh tranh về giá còn cho thấy chi phí sản xuất của doanh
nghiệp thấp hơn các đối thủ của nó. Điều này thể hiện các hoạt động tạo ra giá
trị của doanh nghiệp có tính u việt hơn các đối thủ cạnh tranh. Chi phí thấp cho
phép doanh nghiệp có khả năng đơng đầu với những diễn biến bất lợi của có tác
động đến giá cân bằng thị trờng.
2.1.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất l ợng:
Trớc tiên, chất lợng sản phẩm ít nhất phải đợc xác nhận về chất lợng và
quy trình công nghệ của các cơ quan chuyên trách. Đây là nhân tố đầu tiên đảm
bảo doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn cơ bản, đủ t cách sản xuất ra loại
hàng hoá nào đó theo quy định của pháp luật (đối với từng sản phẩm đặc thù
đều có những tiêu chuẩn kiểm định riêng về chất lợng do cơ quan có thẩm
quyền đa ra).
Thứ hai đó là chất lợng đợc khẳng định trong tâm trí ngời mua hàng, đó là
một thứ tài sản vô hình vô cùng quý báu của doanh nghiệp nh uy tín, tên tuổi
sản phẩm. Nó thể hiện sự tin tởng vào sản phẩm của khách hàng, tức là khi lựa
chọn để sử dụng loại sản phẩm đó ngời mua nghĩ ngay đến sản phẩm của doanh
nghiệp, ngay cả khi giá sản phẩm có cao hơn thị trờng. Đó là khi, nếu cùng một
chủng loại sản phẩm giá nh nhau, chất lợng sản phẩm sẽ đợc đo bằng số lợng
ngời mua lựa chọn loại sản phẩm của doanh nghiệp, tức là thị phần của doanh
nghiệp có đợc trên cùng một loại sản phẩm. Chất lợng tạo sự tin cậy lâu dài của
khách hàng vào sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp doanh nghiệp nào có uy
tín hơn về chất lợng sẽ thắng thế trong cạnh tranh.
Chất lợng sản phẩm còn đợc đánh giá theo quy trình sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Nh vậy, chỉ tiêu chất lợng thực ra xét về bản chất nó đã nằm trong chỉ
tiêu về giá. Tuy nhiên, trong một số trờng hợp nó đợc chú trọng nhiều hơn, nhất
là đối với các sản phẩm đợc sản xuất và cung cấp với giá cao hơn bằng cách tạo
6
Nguyễn Thị Minh Trang
6
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
ra sự khác biệt sản phẩm. Để làm đợc nh vậy, công ty phải tạo ra thế mạnh cơ
bản trong một hoặc một số chức năng sáng tạo ra giá trị.
Nhìn chung các đánh giá cạnh tranh thờng sử dụng trong ngắn hạn, nếu
trong điều kiện cạnh tranh tơng đối hoàn hảo thì khả năng cạnh tranh của một
doanh nghiệp hay một ngành sản phẩm của một nớc đợc biểu hiện ở chỉ số thị
phần chiếm lĩnh đợc. Thế nhng trên thực tế, trong lịch sử kinh tế năng lực cạnh
tranh ngành của một số nớc dựa phần lớn vào chế độ bảo hộ của Chính phủ. Nh
việc Chính phủ đa ra hạn ngạch có thể làm hạn chế sự cạnh tranh của các sản
phẩm nhập khẩu do vậy mà sản phẩm trong nớc mới chiếm lĩnh đợc thị trờng
lớn hơn.
2.2.Nội dung phân tích nh sau:
Trong tác phẩm bàn về cạnh tranh toàn cầu, Porter đã tổng hợp phơng pháp
nghiên cứu trong quá khứ, xây dựng mô hình lý luận gồm bốn nhân tố giữ vai
trò mấu trốt đối với sự thành công trong cạnh tranh của một ngành nhất định.
Trong bốn nhân tố này, em kết hợp nhân tố thứ ba và thứ t để thuận lợi hơn
trong quá trình phân tích, nh vậy chỉ còn ba nhân tố cơ bản:
2.Nhu cầu trong nớc.
1.Việc kết hợp các yếu tố sản xuất.
3.Cạnh tranh trong nớc với các doanh nghiệp chủ chốt.
Dựa trên cơ sở lý luận của M.Porter, chúng ta có thể tiến hành phân tích
nh sau:
*Trớc tiên chúng ta phân tích khái quát theo quan sát trên thị trờng xem
ngành sản phẩm đợc sản xuất trong nớc phục vụ cho quy mô thị trờng nh thế
nào. Rõ ràng sản phẩm của một nớc chiếm thị phần lớn, phục vụ đa số khách
hàng của thị trờng thì phải là sản phẩm u điểm nổi trội, tức là có khả năng cạnh
tranh. Từ đây chúng ta có những nhận định ban đầu về khả năng cạnh tranh của
ngành sản phẩm.
*Sau đó, chúng ta đi vào bản chất vấn đề, những biểu hiện khả năng cạnh
tranh trên thị trờng nhờ vào phân tích thị phần có thể tin cậy đợc hay không.
7
Nguyễn Thị Minh Trang
7
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Tức là chúng ta đi vào đánh giá sức cạnh tranh theo các tiêu chí về giá và chất l-
ợng của sản phẩm. Nếu sản phẩm có khả năng cạnh tranh thật sự thì những thì
việc sản phẩm có quy mô thị trờng lớn là hoàn toàn hợp lý. Nếu ngợc lại, tức là
thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo, không phản ánh đợc thực chất vấn đề.
*Từ việc đánh giá chỉ tiêu cạnh tranh trên sẽ có hai trờng hợp xảy ra:
TH1: Nếu ngành sản phẩm trong nớc có khả năng cạnh tranh chúng ta
phân tích các yếu tố tác động đến sức cạnh tranh của ngành sản phẩm. Từ đó, có
các định hớng giải pháp khắc phục những khó khăn từ các yếu tố tác động.
TH2: Nếu trên tổng thể ngành không có khả năng cạnh tranh, ta có thể
phân tích theo cơ cấu ngành có thể có khả năng phát triển ở những nhóm sản
phẩm nào, nguyên nhân tại sao và có những định hớng gì để khắc phục nếu
không thể khắc phục đợc thì có những chuyển sang hớng đến sản phẩm mới.
Phơng pháp phân tích ở đây chúng ta phân tích theo hớng đặt ngành trong
mối quan hệ cạnh tranh công bằng trên thị trờng, tức là không công nhận khả
năng cạnh tranh nhờ vào chế độ bảo hộ của Nhà nớc. Bên cạnh đó phải chỉ ra đ-
ợc khả năng cạnh tranh của ngành trong tơng lai là có hay không, tức là khả
năng giảm giá sản phẩm của ngành có thể thực hiện đợc hay không.
Cách phân tích khả năng giảm giá của sản phẩm trong điều kiện có đóng
góp của các yếu tố sản xuất từ nớc ngoài, ta dựa vào tỷ lệ phần đóng góp của
các yếu tố đầu vào và quy trình tạo ra giá trị sản phẩm. Trong đó phần nào
chiếm tỷ lệ cao nhất và khả năng nội địa hoá là bao nhiêu. Phần nội địa hoá
càng có góp phần tạo giá trị mới cho sản phẩm càng cao thì khả năng cạnh tranh
của ngành sản phẩm đó càng cao. Vấn đề này càng phải đợc phân tích chặt chẽ
khi sản phẩm có chứa những yếu tố sản xuất từ nớc ngoài mà khả năng cạnh
tranh hiện tại cha có hay cha thể hiện rõ.
Chú ý là khi đa ra phơng hớng phát triển ngành nên đặt ngành trong mối
quan hệ tổng thể giữa cả các mục đích kinh tế và xã hội.
8
Nguyễn Thị Minh Trang
8
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
3.Các yếu tố ảnh hởng đến năng lực cạnh tranh của ngành sản
phẩm:
Theo phơng pháp phân tích trên của M.porter ta có thể chia các yếu tố ảnh
hởng đến năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm nh sau:
4.1.Các nhân tố từ phía thị trờng:
Phân tích đánh giá nhóm điều kiện về cầu phản ánh bản chất cầu thị trờng
trong nớc đối với sự sản phẩm của ngành. Nhóm này sẽ cho ta thấy chu kỳ sống
sản phẩm của ngành, ngành nào có cầu càng lớn, đơn giản, ngành đó càng có
khả năng cạnh tranh nhờ giản chi phí, giảm giá nhng lại tăng doanh thu. Nhu
cầu trong nớc lớn, khiến ngành sản phẩm trong nớc có điều kiện phát triển vững
hơn, không phải đối phó vất vả để giành giật những khoảng thị trờng nhỏ bé và
sự tốn kém để cạnh tranh với các đối thủ mạnh mẽ nớc ngoài trên thị trờng quốc
tế.
4.2.Các yếu tố về điều kiện nguồn lực:
Một nớc muốn phát triển ngành thuỷ sản không thể không có vùng biển
rộng, nguồn thuỷ sản phong phú, muốn phát triển ngành sản phẩm mỹ nghệ
không thể không có nguồn nhân công có kĩ thuật và kinh nghiệm, Các yếu tố
về nguồn lực sẽ tạo cho ngành sản phẩm của nớc đó có lợi thế cạnh tranh so
sánh, là tiền đề để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Dựa vào những lợi thế so sánh này,
các doanh nghiệp sẽ có các phơng thức kết hợp đầu vào hợp lý, có nhiều điều
kiện cho ra sản phẩm có chất lợng cao, chi phí thấp hơn so với những doanh
nghiệp ở các nớc không có những thuận lợi về nhân tố đầu vào sản xuất. Bên
cạnh đó chúng ta luôn biết rằng bất kỳ một nớc nào, một ngành nào, một doanh
nghiệp nào cũng đều bị hạn chế bởi sự khan hiếm tài nguyên. Do vậy luôn phải
có sự lựa chọn để phát triển ngành đen lại lợi ích tối u nhất.. Phân tích đánh giá
nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất: điều này đem lại tiềm năng phát triển
ổn định chủ động cho ngành, đồng thời tạo điều kiện cơ sở cho lợi thế cạnh
tranh trong tơng lai. Nhóm gồm:
1.Nguồn nguyên liệu.
2.Lao động.
3.Khoa học công nghệ.
9
Nguyễn Thị Minh Trang
9
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
4.3.Các nhân tố từ môi trờng cạnh tranh trong nớc với doanh
nghiệp chủ chốt:
Phân tích nhân tố này cho thấy khả năng của các công ty trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh ngành nh: số lợng công ty tham gia vào ngành, vị thế
đàm phán của bên cung ứng, thị phần và tình hình sản xuất kết hợp các yếu tố
đầu vào cho ra sản phẩm. Sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ ngành có thể sẽ
làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp nhng lại khiến ngành ở nơi sở tại ấy
đi trớc đối thủ cạnh tranh là ngời nớc ngoài. Hay nói cách khác đó là đánh giá
trình độ quản lý, quy trình để có đợc sản phẩm đầu ra. Có thể chia mục này
thành hai phần cơ bản sau:
1. Các công ty tham gia vào ngành, thị phần và hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các công ty hiện nay.
2. Vị thế đàm phán của bên cung ứng.
II/Ngành sản phẩm sữa và sự cần thiết phải đánh giá
khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt
Nam:
1.Đặc điểm của ngành sản phẩm sữa:
Ngành sản phẩm sữa Việt Nam đợc hình thành từ những năm 1960, nhng
chỉ thực sự phát triển từ năm 1986 khi đất nớc thực hiện công cuộc đổi mới.
Trong những năm trở lại đây, thu nhập bình quân ngời dân Việt Nam tăng lên,
do vậy mới phát triển mạnh mẽ nhu cầu sử dụng sữa, và khả năng mở rộng thị
trờng tiêu thụ sản phẩm sữa ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhiều hơn nữa trong
thời gian tới. Có thể coi hiện ngành sữa Việt Nam đang nằm trong giai đoạn đầu
của chu kỳ sống của ngành. Do vậy, rất thuận lợi cho ngành sữa có điều kiện
phát triển, giảm tính cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nội bộ
ngành để phân chia thị trờng.
Do sản phẩm sữa là sản phẩm có liên quan đến sức khoẻ, chế độ dinh d-
ỡng, an toàn thực phẩm của con ngời nên ngành công nghiệp chế biến sữa hiện
10
Nguyễn Thị Minh Trang
10
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
đang rất đợc các nớc trên thế giới đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nớc.
Đối với các nớc phát triển chăn nuôi bò sữa, sự kiểm soát này đợc Bộ Nông
nghiệp và các Hiệp hội sữa thực hiện thông qua các điều luật chặt chẽ. Ngay từ
đầu thế kỷ 20 (1908) các nớc trên thế giới đã có các quy định thống nhất về quy
trình kỹ thuật, an toàn thực phẩm cho việc sản xuất và chế biến sữa. ở Việt
Nam những vấn đề này hầu nh cha đợc Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà
nớc quan tâm và vẫn ở trình trạng buông lỏng. Điều này có tác động không tốt
tới cạnh tranh bình đẳng trong nớc, có thể một số doanh nghiệp sử dụng công
nghệ chế biến kém, nguyên liệu chất lợng xấu để cạnh tranh về giá. Đồng thời
sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa trong nớc đối với hàng nhập
khẩu (vì sản phẩm nhập khẩu thờng đã đợc chứng nhận về chất lợng).
2.Sự cần thiết phải đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sữa
Việt Nam:
Trớc hết, trong quá trình phát triển, ngành công nghiêp sữa Việt Nam đã
có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của ngành công nghiệp
cả nớc. Trong ngành công nghiệp chế biến sữa, đơn vị nòng cốt là Công ty Sữa
Việt Nam (Vinamilk). Từ năm 1994 có thêm công ty Foremost (nay là Dutch
Lady) là công ty liên doanh giữa Công ty suất nhập khẩu Sông Bé với Công ty
Friesland Vietnam Holding B.V đợc cấp giấy phép hoạt động (tháng 4/1994) và
Công ty Nestle Việt Nam- doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài. Thực trạng đóng
góp và phát triển của ngành công nghiệp chế biến sữa đợc thể hiện trong bảng
sau:
Bảng1: Giá trị sản xuất công nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng
1995 1997 1998 1999 2000 2001
Công nghiệp toàn
quốc
103.374 134.420 150.685 168.749 195.225 223.578
11
Nguyễn Thị Minh Trang
11
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Bộ Công nghiệp
quản lý
24.783 32.080 34.956 36.284 41.793 48.159
Công ty Sữa VN 1.065,3 1.119,4 1.420 1.896,1 2.316 3.648
(Nguồn: Số liệu của Bộ Công nghiệp)
So sánh về giá trị sản xuất công nghiệp, tỷ trọng của Vinamilk so với Bộ
Công nghiệp chiếm 4,30% trong năm 1995 đã tăng lên 5,54% trong năm 2000
(so với toàn ngành công nghiệp, con số tơng ứng là 1,03% và 1,19%). Nhìn
chung, tốc độ tăng trởng của ngành sữa cao hơn tốc độ tăng trởng của toàn
ngành công nghiệp. Tính theo giá trị sản xuất công nghiệp, ngành sữa có mức
tăng trởng trung bình là 20%/năm trong giai đoạn 1996-2000. Trong khi đó,
mức tăng trởng cùng thời kỳ của toàn ngành công nghiệp là 13,57%/năm (theo
giá cố định 1994). Điều này cho thấy ngành công nghiệp chế biến sữa trong quá
trình phát triển, ngành đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung
của toàn ngành công nghiệp cũng nh cả nớc. Bên cạnh đó, còn có những lý do
sau cần phải đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh sau để có đợc định hớng
nhập khẩu hay phát triển ngành một cách hợp lý.
Thứ hai, thu nhập bình quân đầu ngời của Việt Nam ngày càng cao, ngành
công nghiệp chế biến sữa đang phải đáp ứng nhu cầu sử dụng sữa và các sản
phẩm từ sữa của ngời dân ngày một nhiều hơn. Theo thống kê, dự báo sẽ đạt 8
lít vào năm 2005 và 10-12 lít vào năm 2010. Phát triển sản xuất sản phẩm sữa
với chiến lợc thay thế hàng nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu.
Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa có tác động tích
cực đến phát triển một số ngành khác nh ngành chăn nuôi bò sữa, ngành công
nghiệp đờng, ngành công nghiệp dầu luyện Những ngành phụ trợ này phát
triển tạo điều kiện cho các ngành sản xuất hàng thực phẩm tiêu dùng khác phát
triển nh sản xuất nớc quả, sản xuất bánh kẹo. Đặc biệt, hiện nay hai ngành công
nghiệp đờng và công nghiệp dầu luyện đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu
thụ sản phẩm đầu ra. Phát triển công nghiệp chế biến sữa cũng là một trong
những giải pháp để phát triển hai ngành sản xuất này.
12
Nguyễn Thị Minh Trang
12
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Thứ t, ngành công nghiệp sữa phát triển sẽ tạo thên việc làm cho xã hội ,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, tăng thu nhập
cho ngời nông dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Có lẽ đây là một trong
những vấn đề quan trọng nhất trong vai trò phát triển của ngành sữa Việt Nam.
Theo dự báo trong Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp sữa Việt Nam, năm
2005 tạo đợc việc làm cho 200.000 lao động, năm 2010 sẽ có 380.000 lao động
làm việc trong ngành sữa. Nh đã nói ở trên, phát triển ngành công nghiệp sữa có
tác động tích cực cho phát triển ngành chăn nuôi bò sữa trong nớc. Nhất là
trong điều kiện hiện nay, đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp, nông dân ít vốn,
hình thức chăn nuôi bò sữa tỏ ra có hiệu quả tốt trong việc xoá đói giảm nghèo.
Các mô hình này đặc biệt hiệu quả ở các vùng ngoại thành thành phố, nơi đất
trồng trọt ngày càng thiếu thốn, sức ép lao động cao, có nhiều điều kiện tiếp thu
kĩ thuật hơn so với các vùng nông thôn xa thành phố, xa nơi sản xuất, đã tạo ra
việc làm cho nhiều ngàn hộ nông dân. Hiện tại do còn gặp nhiều khó khăn trong
vấn đề bảo quản tiêu thụ nguyên liệu sữa, nên ngời nông dân còn chịu nhiều
thiệt thòi, mới chỉ chăn nuôi theo quy mô gia đình nhỏ, lấy công làm lãi. Tuy
nhiên hình thức này lại tơng đối thành công so với các hình thức xoá đói giảm
nghèo khác đã đợc thực hiện. Thúc đẩy quá trình phát triển chăn nuôi đàn bò
sữa đối với các nông hộ sẽ đóng góp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng
vật nuôi trong nông nghiệp. Hiện nay, vấn đề này đã đợc các Ban ngành có
thẩm quyền quan tâm, nh Chơng trình phát triển đàn bò sữa 135 của Nhà nớc để
thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo.
3.Quan điểm đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản
phẩm sữa Việt Nam:
Thực tế thấy rằng ngành công nghiệp Sữa của Việt Nam sinh sau đẻ muộn
và vô cùng nhỏ bé so với các đại gia trên thế giới, trong khi đó nhu cầu tiêu
dùng của thị trờng nội địa mới phát triển và còn nhiều tiềm năng lớn bởi mức
tiêu dùng sữa của ngời dân Việt Nam còn quá thấp so với thế giới và còn phải
mất rất nhiều năm phấn đấu để ngành này đáp ứng đợc mức tiêu dùng của ngời
13
Nguyễn Thị Minh Trang
13
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
dân Việt Nam bằng các nớc trong khu vực chứ cha nói gì theo kịp mức các nớc
công nghiệp phát triển. Đặc biệt là nếu ngành sản phẩm Việt Nam muốn thâm
nhập vào thị trờng xuất khẩu mới, ngoài các yếu tố về giá cả và chất lợng mà
phải có uy tín về thơng hiệu của mình, đây chính là điểm yếu của sản phẩm sữa
Việt Nam so với các hãng hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, trong mấy năm qua,
các sản phẩm sữa Việt Nam cũng đã xuất khẩu đợc sang thị trờng thế giới, nhng
phải nhìn nhận rằng thực chất việc xuất khẩu đó là do ta đã tận dụng đợc hoàn
cảnh chính trị đặc biệt của thế giới, và cũng chủ yếu là đối với thị trờng Irăk
(Trung Đông). Nh vậy thị trờng hiện nay và trong tơng lai tới của ngành sản
phẩm sữa Việt Nam chủ yếu tập trung khai thác là thị trờng nội địa. Vì lý do đó,
trong khuôn khổ bài viết này, em chỉ tập trung phân tích khả năng cạnh tranh
của ngành sản phẩm sữa Việt Nam trên thị trờng nội địa. Do vậy khi nói đến thị
trờng trong bài chúng ta có thể ngầm hiểu ở đây là thị trờng nội địa.
chơng ii
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
sản phẩm sữa việt nam
i/điều kiện về cầu thị trờng trong nớc:
Cùng với sự chuyển biến chung của nền kinh tế cả nớc, năm 1986, từ khi
đất nớc thực hiện công cuộc đổi mới thị trờng sữa mới thực sự phát triển. Ngời
mua không chỉ dùng nhiều sữa hơn, mà cơ cấu, chủng loại sản phẩm sữa cũng
đa dạng phong phú hơn. Trớc đây sản phẩm sữa tiêu thụ phổ biến là sữa đặc có
đờng và sữâ bột cho đến nay cơ cấu sản phẩm đã tăng lên nhanh chóng thành
nhiều nhóm sản phẩm phong phú. Lợng sữa tiêu thụ tăng hàng năm:150 triệu lít
năm 1991 (quy ra sữa tơi), 200 triệu lít năm 1993, năm 1997 tăng lên 275 triệu
lít và năm 2000 khoảng 460 triệu lít. Trong đó, thị phần nội địa của sữa sản xuất
14
Nguyễn Thị Minh Trang
14
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
trong nớc tăng từ 57% trong năm 1991 lên 92% trong năm 1995. Còn cơ cấu
sản phẩm hiện nay có thể chia thành 8 nhóm sản phẩm cơ bản:
1.Nhóm sản phẩm sữa tơi thanh trùng.
2. Nhóm sản phẩm sữa tơi tiệt trùng.
3. Nhóm sản phẩm sữa đặc có đờng.
4. Nhóm sản phẩm sữa bột.
5. Nhóm sản phẩm bột dinh dỡng.
6. Nhóm sản phẩm sữa chua.
7. Nhóm sản phẩm các loại kem cao cấp.
8. Nhóm các sản phẩm khác từ sữa (nh bơ, phomát ).
Hiện tại các sản phẩm sữa tiêu thụ trên thị trờng nội địa có thể phân biệt
tơng đối rõ nh sau:
*Sữa đặc chiếm lĩnh thị trờng nông thôn và miền núi, những đối tợng sử
dụng chủ yếu là chẻ nhỏ, ngời ốm, ngời già yếu; một phần dùng làm nguyên
liệu trong các nhà máy bánh kẹo.
*Sữa bột tiêu thụ chính tại khu vực thành thị, đối tợng chính là trẻ thơ, ngời
ốm và già yếu tại khu vực dân c này.
*Sữa tơi và sữa chua cho mọi lứa tuổi trong khu vực thành thị vầ công
nghiệp.
Nh phân tích ở chơng I, sữa nói chung là sản phẩm tiêu dùng thông thờng
khi thu nhập tăng sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng về loại hàng này, hiện nay hệ số
co dãn của loại hàng hoá này theo thu nhập của nhóm chuyên gia của tổ chức
phát triển liên hợp quốc giúp Việt Nam nghiên cứu năm ngành công nghiệp
(công nghiệp chế bién thực phẩm, công nghiệp dệt may, công nghiệp điện tử,
công nghiệp ôtô và công nghiệp cơ khí) thời kỳ 1990 - 1995 hệ số này là 1,42
(do xuất phát điểm năm1990 của Việt Nam quá thấp, lợng tiêu thụ chỉ đạt 31
triệu lít). Thời kỳ 1996 - 2000 con số này là 0,75 và hiện nay con số này đạt
khoảng 0,95 và tơng đối ổn định, tất nhiên là sẽ không cao đợc nhiều nh thời kỳ
15
Nguyễn Thị Minh Trang
15
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
1990 - 1995, nhng cũng không thấp nh thời kỳ 1996 - 2000 do chịu nhiều biến
động kinh tế nh cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998.
Xét về sự thay đổi trong cơ cấu về chủng loại sản phẩm : Việt Nam là nớc
nghèo, có mức thu nhập bình quân đầu ngời thuộc loại thấp nhất thế giới, vì lẽ
đó trong nhiều năm qua ngời dân cha có điều kiện tiêu dùng sữa một cách rộng
rãi. Sau những năm đổi mới kinh tế tăng trởng đều và ở mức cao, thu nhập bình
quân đầu ngời khá hơn nhất là đối với khu vực thành thị và các khu tập trung
công nghiệp, nhu cầu tiêu dùng trong dân đã có mức tăng đột biến, thể hiện rõ
nhất trong giai đoạn 5 năm 1990 - 1995 và 1996 - 2000. Nh vậy là tăng trởng
thu nhập quốc dân có liên quan chặt chẽ đến mức tiêu dùng sữa của ngời dân.
Từ năm 1976, sản phẩm sữa chế biến của ngời dân chủ yếu là sữa bột và
sữa đặc có đờng, đối tợng tiêu thụ chủ yếu là trẻ em, ngời già, ngời ốm. Đến
năm 1982, danh mục các sản phẩm chế biến từ sữa bắt đầu đợc mở rộng phuc
vụ cho nhiều đối tợng tiêu dùng. Trong cơ cấu thu nhập, khoảng các thu nhập
cũng dẫn đến đòi hỏi về hàng hoá là khác nhau. Ngời nông thôn có thu nhập
thấp hơn không những số lợng sữa tiêu thụ thấp hơn mà loại sản phẩm họ mua
cũng khác, chủ yếu là sữa đặc có đờng. Sản phẩm này giá rẻ, thuận tiện cho việc
phân phối bảo quản tiêu dùng ở nông thôn và vùng sâu vùng xa.
Trên thị trờng những ngời có thu nhập cao hơn, họ dùng nhiều sữa hơn và
những họ cũng đòi hỏi nhiều chủng loại để lựa chọn hơn. Những sản phẩm đợc
a chuộng chủ yếu là: sữa tơi tiệt trùng, sữa chua, các loại ken cao cấp và các sản
phẩm khác từ sữa nh bơ, phomat
Khoảng cách thu nhập đa tạo ra sự phong phú cho các chủng loại của sản
phẩm sữa để đáp ứng những mảng thị trờng khác nhau.
Thứ hai là tại sao phần lớn những sản phẩm có chất lợng tốt hơn hay sự đòi
hỏi cao từ phía ngời tiêu dùng chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị phát
triển. Phải nói rằng, một trong những lý do tác động đến sự phân chia chủng
loại sản phẩm đó là kiến thức ngời tiêu dùng, sự tiếp cận của các khách hàng
này tới sản phẩm này là thờng xuyên. Mức sống cao họ đò hỏi chất lợng nhiều
16
Nguyễn Thị Minh Trang
16
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
hơn số lợng, thông tin đại chúng đợc thờng xuyên cập nhập, thông thờng trong
một ngày đêm có ít nhất là 10 lần có mặt sản phẩm sữa đợc quảng cáo trên
truyền hình, các dịch vụ khách hàng giới thiệu sản phẩm của công ty đợc phát
triển rộng rãi.
Đồng thời dân trí cao khiến những ngời tiêu dùng này chở nên khó tính
hơn, hiểu biết hơn trong việc lựa chọn sản phẩm cho bản thân. Nhất là đối với
một số loại sản phẩm đặc biệt đặc biệt từ sữa nh: sữa cho trẻ em, cho phụ nữ
mang thai, cho ngời ốm, ngời bị bệnh tiểu đờng Sản phẩm không chỉ đến tay
ngời tiêu dùng thông qua các đại lý phân phối hay cơ sở bán lẻ mà nó còn xuất
hiện rất nhiều hình thức nh thông qua chuyên gia t vấn dinh dỡng, qua sự hớng
dẫn của bác sĩ, qua các hớng dẫn của giáo viên trong các nhà trẻ. Các sản phẩm
loại này hiện nay tăng rất mạnh về nhu cầu, không những thế giá của nó thuộc
vào loại cao nhất trong những sản phẩm chế biến từ sữa. Nó có khả năng đem
lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp có thế mạnh trong hoạt động Marketing
chăm sóc khách hàng tốt. Điều này cũng phản ánh sự không thuận lợi cho các
sản phẩm nội địa hiện nay còn kém xa về các hoạt động này so với sản phẩm
nhập khẩu của các nớc có thơng hiệu nổi tiếng trên thế giới.
Tóm lại, thị trờng tiêu thụ sữa Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển,
nhu cầu đang ban đầu đợc mở rộng nhanh chóng do có nhiều khách hàng mới
tham gia vào thị trờng. Điều này có tác động đến mức độ cạnh tranh giữa các
đối thủ cạnh tranh trong ngành (ở đây là với sản phẩm nhập khẩu), nó đa đến
nhiều cơ hội cho phát triển ngành, giảm sứa ép cạnh tranh giữa các đối thủ. Do
sự cạnh tranh còn yếu, nên sự tăng mạnh về cầu cho phép các công ty nội địa
tăng doanh số và lợi nhuận mà không cần phải thôn tính thị trờng của đối thủ
cạnh tranh ngay trong nớc cũng nh đối thủ nhập khẩu. Các sản phẩm nội địa
cũng nh nhập khẩu đều có thể mở rộng hoạt động. Đây là khoảng cách cần
thiết cho các công ty trong nớc tận dụng nắm lấy thuận lợi của điều kiện thị tr-
ờng trong giâi đoạn này là sự cạnh tranh tơng đối hoà dịu để chuẩn bị cho sự
cạnh tranh quyết liệt sau này.
17
Nguyễn Thị Minh Trang
17
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
ii/đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa
việt nam:
Nếu nhận định tổng quát theo tình hình tiêu thụ trên thị trờng nội địa, thì
hiện nay sản phẩm sữa Việt Nam có những biểu hiện khả năng cạnh tranh rất
cao, dựa vào các chỉ tiêu về thị phần và tốc độ tăng thị phần của sản phẩm sữa
nội địa.
Dựa theo số liệu của hai bảng dới đây, cho thấy sản phẩm nội địa nhanh
chóng chiếm lĩnh thị trờng từ 57% năm1991 cho đến nay đã chiếm lĩnh áp đảo
sản phẩm nhập khẩu là 92% thị trờng nội địa. Trong khi đó, sản phẩm nhập
khẩu ngày càng giảm từ 43% thị phần hiện nay chỉ còn chiếm có 3 - 5% thị
phần nội địa.
Bảng 2: Thị phần sữa năm 1991 trên thị trờng Việt Nam
(Đơn vị:%)
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa Thị phần
Tổng 100%
Các sản phẩm sản xuất trong nớc 57%
Các sản phẩm nhập khẩu 43%
Bảng 3: Thị phần sữa hiện nay trên thị trờng Việt Nam (từ năm 1995 )
Đơn vị:%
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa Thị phần
Tổng 100%
Công ty Vinamilk 70 - 75%
Dutch Lady, Nestle, các doanh nghiệp khác và các cơ sở
bán lẻ
Khoảng 22%
Các sản phẩm nhập khẩu 3 - 5%
18
Nguyễn Thị Minh Trang
18
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
(Nguồn của cả hai bảng: Theo đánh giá của Viện Quy hoạch và thiết kế nông
nghiệp)
Đồng thời, dựa vào bảng 3, cho thấy sản phẩm của Công ty Vinamilk là có
sức cạnh tranh cao nhất, thị phần của công ty này luôn chiếm đến 70 - 75% thị
trờng tiêu thụ cả nớc. Tức là, nếu quan sát qua thị phần nh vậy ta có thể cho
rằng khả năng cạnh tranh cao nhất là thuộc về sản phẩm sữa của các công ty nội
địa, trong đó mạnh nhất là Vinamilk, còn sản phẩm nhập khẩu chỉ chiếm một số
phân đoạn thị trờng nhỏ hẹp, hay nói cách khác sức cạnh tranh của sản phẩm
nhập ngoại là rất thấp.
Bây giờ chúng ta xét đến thị phần theo nhóm sản phẩm để thấy đợc sản
phẩm nào chúng ta có thế mạnh nhất và sản phẩm nào chúng ta còn bị hạn chế
trong cạnh tranh trên thị trờng nội địa.
Bảng 4: Thị phần theo sản phẩm
Đơn vị:%
Thị phần
Sữa đặc có đờng Sữa bột Sữa tơi
Tổng 100% 100% 100%
Vinamilk 66-70% 40% 90 - 98%
Dutch Lady, Nestle và các
doanh nghiệp trong nớc khác
30 - 35% 35-40% 2 - 6%
Sản phẩm nhập khẩu <1% 20% 2 - 3%
(Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Viện Quy hoạch và thiết kế nông
nghiệp)
Theo số liệu trên thì Vinamilk gần nh độc quyền đối với sản phẩm sữa tơi,
chiếm phầm lớn thị phần của sản phẩm sữa đặc và sản phẩm sữa bột cũng chiếm
đến một nửa thị trờng. Tức là trong cơ cấu sản phẩm, sản phẩm nội địa cũng
chiếm thế áp đảo đối với mọi nhóm sản phẩm ngành sữa, trong đó có mạnh nhất
có lẽ là sản phẩm sữa tơi.
19
Nguyễn Thị Minh Trang
19
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Nh vậy, nếu chỉ quan sát qua thị trờng tiêu thụ sữa mà đánh giá khả năng
cạnh tranh của sản phẩm sữa thì rõ ràng sản phẩm sữa nội địa hiện nay của Việt
Nam rất cao, nhất là đối với các sản phẩm sản xuất từ doanh nghiệp Nhà nớc.
Vậy điều đó có thể hiện đúng bản chất của sức cạnh tranh của ngành sản phẩm
sữa Việt Nạm hay không. Để làm đợc thế, chúng ta phải sử dụng các tiêu chí
phản ánh khả năng cạnh tranh của nhóm sản phẩm này để đánh giá, đó là tiêu
chí về giá và chất lợng. Từ đó mới có kết luận chính xác là ngành sản phẩm sữa
Việt Nam thực sự có khả năng cạnh tranh thuần thuý và lâu dài hay không, hay
là nó chỉ cạnh tranh đợc nhờ sự thuận lợi không bền vững từ các yếu tố ngoài
ngành khác, đặc biệt là sự bảo hộ từ phía Chính phủ.
1.Khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm sữaViệt Nam:
Nhìn chung, trên thị trờng sữa hiện nay, giá sản phẩm sữa sản xuất trong n-
ớc luôn rẻ hơn giá sữa sản phẩm nhập khẩu cùng loại từ 50 - 60%.
Ta chia sản phẩm sữa ra làm ba nhóm sản phẩm gồm: sản phẩm sữa bột,
sản phẩm sữa đặc có đờng và sản phẩm sữa tơi để phân tích giá.
Sản phẩm sữa bột, bột dinh dỡng: Đối thủ cạnh tranh của chúng ta gồm có
Pháp, Hà Lan, Bỉ, Nhật Bản, Mỹ. Các sản phẩm nhập khẩu này đợc bán trên thị
trờng với giá cao hơn giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nớc từ 50-100% tập
trung tiêu thụ chủ yếu ở các thành phố lớn nh Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải
Phòng,
Sản phẩm sữa đặc có đờng: Đối với sản phẩm sữa đặc có đờng nhập ngoại
đã giảm nhiều trong những năn gần đây vì khó cạnh tranh đợc với sản phẩm của
Vinamilk và Dutch Lady. Do giá sản phẩm này trong nớc luôn thấp hơn nhập
khẩu 30%. Hiện nay sản phẩm này gần nh không nhập khẩu vào đợc Việt Nam.
Sản phẩm sữa tơi: Đối thủ cạnh tranh mặt hàng nay gồm có Pháp và New
Zealand, hiện nay giá một lít sữa tơi của sản phẩm nội địa khi bán cho ngời tiêu
dùng vào khoảng 11.000đ/lít, giá bán của hàng nhập khẩu vào khoảng
17.000đ/lít
20
Nguyễn Thị Minh Trang
20
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Nếu xét về giá nh trên thì sản phẩm sữa trong nớc có khả năng cạnh tranh
về giá. Nhng thực ra, trong cơ cấu giá trên có đến 30% là thuế Chính phủ đánh
vào sản phẩm nhập khẩu. Nh vậy, nếu tính ra giá sản phẩm sữa bột, bột dinh d-
ỡng nhập khẩu sẽ cao hơn từ 20-60%, giá sản phẩm sữa tơi nhập khẩu sẽ cao
hơn khoảng 1.000 đ/lít, sản phẩm của chúng ta vẫn có thể có cạnh tranh về giá
ngay cả khi bỏ qua việc bảo hộ của Chính phủ, nhng sức cạnh tranh về giá là rất
thấp, bấp bênh và không ổn định nhất là khi giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu
đang có xu hớng tăng nh hiện nay. Liệu trong mối tơng quan với chất lợng
chúng ta có thể cạnh tranh đợc hay không.
2.Khả năng cạnh tranh về chất lợng của sản phẩm sữaViệt
Nam:
Mặc dù với công nghệ sản xuất tơng đối hiện đại đủ khả năng để chế biến
các sản phẩm sữa đảm bảo chất lợng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Sản phẩm của Công
ty Sữa Việt Nam đợc các cơ qua chuyên trách về chuyên trách trong và ngoài n-
ớc xác nhận về chất lợng (Vinacontrol, Viện Kiểm tra Đo lờng chất lợng của áo
). Tuy nhiên xét về tổng thể, Việt Nam vẫn cha xây dựng đợc bộ tiêu chuẩn
hoàn chỉnh cho các sản phẩm sữa từ sữa nguyên liệu nhập khẩu đến sữa thành
phẩm. Tức là, chất lợng sản phẩm nội địa đợc thả nổi, không đợc đảm bảo bởi
bất kỳ một tổ chức có uy tín nào, mà phụ thuộc vào cách làm của từng công ty.
Hơn nữa sản phẩm sữa trong nớc chủ yếu đơc sản xuất từ sữa bột nhập khẩu, mà
để sản phẩm chế biến từ nguồn sữa bột nhập đạt đợc chất lợng nh sản phẩm tạo
ra từ nguồn sữa tơi tại chỗ thì trong quá trình chế biến phải bổ xung thêm vi l-
ợng vi lợng các khoáng chất, vitamin, béo
Trong khi chúng ta so sánh với các đại gia sản xuất sữa trên thế giới, chất
lợng sản phẩm luôn đợc đảm bảo bởi các hiệp hội có uy tín trên thế giới. Từ trớc
đến nay đã luôn đợc ngời tiêu dùng tin cậy, ngay cả ngời tiêu dùng trong nớc,
đối với các sản phẩm nhập ngoại này giá rất cao ngay cả khi bị chịu thuế vẫn có
ngời tiêu dùng, nếu không bị hạn chế bởi thuế và hạn ngạch của Chính phủ thì
sản phẩm sữa trong nớc có khả năng sẽ bị đè bẹp ngay trên thị trờng nội địa.
21
Nguyễn Thị Minh Trang
21
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Kết luận nhỏ: Từ phân tích trên ta đánh giá tổng quát về sức cạnh tranh
chung của toàn ngành nh sau: chúng ta có khả năng cạnh tranh về giá nhng là
rất thấp và không ổn định do không chủ động đợc nguồn nguyên liệu đầu vào,
còn khả năng cạnh tranh về chất lợng thì chúng ta không có. Tức là nhìn chung
khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa Việt Nam so với hàng nhập khẩu là rất
thấp. Do vậy chúng đi sâu vào phân tích khả năng cạnh tranh của từng nhóm
ngành nhỏ để có những nhận định chi tiết và chính xác hơn. Nếu không có khả
năng cạnh tranh chung để phát triển toàn ngành chúng ta có thể đi vào định h-
ớng đầu t phát triển vào những nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh.
*Phân tích khả năng cạnh tranh theo từng nhóm sản phẩm
trong ngành sản phẩm sữa:
Kết hợp cả việc phân tích về giá và chất lợng teo nhóm sản phẩm, chúng ta
có xét những nhóm sản phẩm chủ yếu sau:
1.Sữa tơi thanh trùng: sản phẩm này chế biến từ sữa bò tơi đợc gia nhiệt
thanh trùng ở nhiệt độ 70
0
C, sau đó đóng gói bằng bao BBIST và đa ra thị tr-
ờng. Đặc điểm của sản phẩm là luôn phải bảo quản lạnh.
Loại sản phẩm này hiện nay trên thị trờng chỉ có các công ty trong nớc,
gần nguồn nguyên liệu tại chỗ cung cấp. Nh đã nói ở trên sản phẩm từ sữa bò t-
ơi giá trị dinh dỡng cao, chỉ thanh trùng ở nhiệt độ 70
0
C nên rất chóng hỏng,
hạn sử dụng ngắn, phơng pháp chế biến đơn giản nhng bảo quản không thuận
tiện. Tơng tự nh điều kiện sản xuất, thị trờng tiêu thụ sản phẩm này cũng phải
gần thị trờng thì mới không làm tăng giá do chi phí bảo quản. Do vậy, không có
mặt hàng này nhập khẩu.
Giá sản phẩm này trên thị trờng đợc bán với giá khoảng 9.500 đồng/lít
(gồm cả chi phí bán hàng ) và cha kể thuế giá trị giá tăng. Nếu lấy giá nguyên
liệu sữa hiện nay trong nớc là 3.550 đồng/lít thì giá thành 1 lít sữa tơi đã qua
chế biến là 8.176 đồng/lít. Tức là so với giá bán ở trên thì các cơ sở chế biến
gần nh cha có lãi ở loại sản phẩm này.
2.Sữa tơi tiệt trùng (UHT) và Sữa chua:
22
Nguyễn Thị Minh Trang
22
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Hai loại sản phẩm này về cơ bản có thể biểu diễn lu trình công nghệ sản
xuất nh sau:
Hình 1: Lu trình công nghệ sản xuất sữa tơi tiệt trùng và sữa
chua dạng uống.
(Nguồn: Theo quy hoạch phát triểnngành công nghiệp sữa Việt Nam).
Trao đổi nhiệt
Hoà trộn
Hoà trộn
Làm lạnh
Thùng chứa
Thanh trùng
Đồng hoá
Tiệt trùng UHT
Lu 3 giây
Làm nguội
Rót & đóng gói
Rót & đóng gói
Kho chứa
Lên men sữa chua
Nớc Bột sữa
Sữa tiệt trùng
Sữa chua dạng uống
23
Nguyễn Thị Minh Trang
23
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Sữa tơi tiệt trùng (UHT) Sản phẩm đợc chế biến từ sữa bò tơi, gia nhiệt tiệt
trùng ở nhiệt độ cao 150
0
C trong thời gian từ 1-2 giây sau đó đóng bằng bao
BBIST. Đặc điểm của sản phẩm có thời hạn sử dụng lâu (có thể đợc 12 tháng)
trong điều kiện nhiệt độ bình thờng, thuận tiện khi vận chuyển phân phối và sử
dụng nên các nớc Châu á trong đó có Việt Nam rất a chuộng loại sản phẩm
này. Sản phẩm sữa tơi tiệt trùng nếu đợc sản xuất từ nguồn nguyên liệu sữa tơi
tại chỗ thì bỏ qua công đoạn hoà trộn
Sữa chua: sản phẩm đợc chế biến sữa bò (sữa bột hoặc sữa tơi) + dầu bơ +
đờng đợc đồng hoá - thanh trùng - làm nguội - cấy men- ủ - làm lạnh - đóng
hộp PE. Sản phẩm đợc bảo quản ở nhiệt độ 5
0
C. Đặc điểm của sản phẩm có
nhiều chất bổ dỡng, kích thích tiêu hoá, thích hợp cho mọi tầng lớp ngời tiêu
dùng tại mọi thị trờng.
Hai loại sản phẩm này hiện nay là sản phẩm chủ lực của công ty Vinamilk,
Dutch Lady, hiện đợc tiêu thụ rộng rãi và rất đợc ngời tiêu dùng a chuộng. Canh
tranh với các doanh nghiệp trong nớc ở nhóm sản phẩm này có sản phẩm sữa t-
ơi tiệt trùng của Pháp và New Zealand. Các sản phẩm này có hơng vị thơm ngon
hơn sản phẩm của chúng ta, do đợc sản xuất từ sữa cha tác bơ tại bản địa, cũng
vì vậy nên có thành phần dinh dỡng tơng đối đầy đủ tơng tự nh sữa tơi nguyên
chất. Giá của các sản phẩm nhập khẩu này luôn có giá cao hơn sản phẩm trong
nớc 50%. Nên các sản phẩm cùng loại của chúng ta cạnh tranh đợc chủ yếu về
24
Nguyễn Thị Minh Trang
24
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
giá. Song sản phẩm nhập khẩu có mức giá cao nh vậy phần lớn là do thuế, thuế
này đánh 30% vào sản phẩm sữa nhập khẩu. Nói chung hiện nay, sản phẩm
nhập khẩu hơn hẳn chúng ta nếu xét về chất lợng sản phẩm, chúng hiện chỉ có
khả năng cạnh tranh về giá mà một phần lớn là dựa vào sự bảo hộ của Chính
phủ. Nếu sản trong nớc chế biến từ nguồn sữa bột nhập đạt đợc chất lợng nh sữa
nhập khẩu thì trong quá trình chế biến phải bổ xung thêm vi lợng các chất
khoáng, vitamin, béo Điều đó sẽ làm giảm đáng kể lợi nhuận cho nhà sản
xuất. Nếu Nhà nớc ban hành Tiêu chuẩn chất lợng thống nhất cho sản phẩm sữa
thì quá trình bổ xung thêm vi lợng các chất khoáng, vitamin, béo trong chế biến
từ nguyên liệu sữa bột mới đợc coi trọng, điều này sẽ làm tăng chi phí sản xuất
dẫn đến làm tăng giá sản phẩm trong nớc. Khi đó, sản phẩm của chúng ta chất
lợng cao hơn sẽ không còn khả năng cạnh tranh về giá nữa.
Trong tình trạng chất lợng nh hiện giờ khi không có thuế can thiệp, sản
phẩm nhập ngoại chỉ cao hơn của chúng ta gần 10%. Tức là nếu tính theo giá
bán 1 lít sản xuất trong nớc là 11.000 đồng/lít thì sản phẩm nhập khẩu là 12.000
đồng/lít, với tơng quan chất lợng nh vậy liệu sản phẩm sản xuất trong nớc có
còn chỗ đứng ngay trên thị trờng nội địa hay không.
Xét trong cơ cấu giá thành của sản phẩm này, chi phí trong nớc chỉ chiếm
có 24%, trong khi đó chi phí ngoại tệ chiếm đến 76%, thế nhng một điều thật
ngạc nhiên là không phải phần lớn chi phí ngoại tệ dùng để nhập khẩu nguyên
liệu sữa bột gầy mà là chi phí bao bì, chi phí này chiếm 62,5% trên tổng chi phí,
tức là nguyên liệu sữa nhập khẩu chỉ chiếm 13,5%. Vậy chúng ta phân tích xem
nhóm sản phẩm này của chúng ta có khả năng giảm giá hay tăng chất lợng hay
không.
Nếu muốn giảm giá, thì giải pháp tốt nhất là phải có hớng giảm chi phí bao
bì xuống, tức là chuyển hớng tìm nhà cung cấp bao bì trong nớc. Đây là phơng
hớng khả quan, hiện đã có nhiều công ty tham gia vào lĩnh vực sản xuất này.
Nếu muốn nâng cao chất lợng, chúng ta có hai cách: sử dụng nguyên liệu
sữa tơi trong nớc hoặc sử dụng nguyên liệu sữa bột ngoại nhập. Sữa nhập khẩu
25
Nguyễn Thị Minh Trang
25