Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ XÂY DỰNG LỘ TRÌNH ÁP DỤNG BASEL III TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 35 trang )

NHÓM 3
1. LÊ THỊ YẾN CHI_K094040521
2. NGUYỄN THỊ HỒNG_k094040500
3. TRẦN THỊ CẨM VIÊN_K094040639
BÀI TIỂU LUẬN
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ XÂY DỰNG LỘ TRÌNH ÁP DỤNG
BASEL III TẠI VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ƯỚC BASEL
1.1 QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA HIỆP ƯỚC BASEL
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có những
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Đồng thời, quy định về vốn
điều lệ của các NHTM ở các nước khác nhau, nên dẫn đến cạnh tranh không công bằng
trong cùng một thị trường, đây là điều cấm kỵ trong cô chế hội nhập. Vì vậy lãnh đạo
các nước phát triển đã ngồi lại với nhau để tìm giải pháp thích hợp vừa khuyến khích
cạnh tranh nhưng đảm bảo công bằng và an toàn cho người gửi tiền, đó là một trong
những lí do quan trọng cho sự ra đời Hiệp ước Basel. Basel la yêu cầu về an toàn vốn do
các ngân hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân
hàng thuộc ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1988,
xuất phát từ những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà
đáng quan tâm nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức vào thời điểm đó. Do
tính thiết thực của nó nên cộng đồng các tổ chức tài chính, ngân hàng của hơn 100 nước
khác cùng hưởng ứng. Để phù hợp với những thay đổi lớn của thị trường, Basel đã được
cải tiến và sửa đổi lần thứ hai (Basel II) vào năm 2001 và có hiệu lực vào năm 2006. Ủy
ban Basel bao gồm Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 và một số nước có
hệ thồng ngân hàng lớn mạnh hàng đầu thế giới bao gồm Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Itaia,
Nhật, Luxembua, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ đã kí Hiệp ước Basel (Basel
Accord), một cơ quan gọi là Hội đồng Basel về giám sát ngân hàng quốc tế cũng đã
được chính thức thành lập để theo dõi và chỉ đạo việc thực thi Hiệp ước. Ngoài ra, hệ
1
thống ngân hàng của nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đã biểu thị đồng thuận
tham gia tuân thủ Hiệp ước.


Ủy ban Basel tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế
(BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel (còn gọi la Basle) – Thụy Sĩ. Ban thư kí
thường trực của Ủy ban này cũng có trụ sở làm việc tại Washington DC – Mỹ.
Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống Ngân hàng của một quốc gia
dù là phát triển hay đang phát triển, đều có thể đe dọa không chỉ đến sự ổn định về tài
chính của quốc gia đó mà còn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy ban Basel thường xuyên
tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác quốc tế để giảm bớt khoảng
cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát hoạt
động ngân hàng trên toàn thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm
hiểu và thực hiện được 3 điều cơ bản:

Trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia.
 Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế.
 Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực ma Ủy ban thực
sự quan tâm.
1.2 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA BASEL I, BASSEL II, BASEL III
1.2.1 BASEL I:

Mục tiêu:
Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) đã xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ an
toàn và hiệu quả trong hoạt động ngận hàng nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng
trong trào lưu toàn cầu hóa. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường
vốn quốc tế là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu – đây là nội dung nền tảng
của Basel I (1988). Ngoài những ảnh hưởng của quá trình tự do hóa tài chính và sự tiến
bộ trong công nghệ ngân hàng cũng như xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm tài chính
diễn ra rầm rộ vào những thập kỷ cuối thế kỷ 20 thì yêu cầu xây dựng một nền tảng so
sánh hiệu quả hoạt động ngân hàng và đảm bảo hạn chế rủi ro trong hệ thống thanh toán
liên ngân hàng toàn cầu là động lực dẫn đến sự ra đời của Hiệp ước Basel I và sau đó
hơn 10 năm là Basel II (1999).


Nội dung:
Basel I nhấn mạnh tầm quan trọng của tỷ lệ vốn an toàn trong hoạt động ngân
hàng. Khái niệm vốn trong Basel I đã chia các nhân tố của vốn thành 2 cấp:
2
 Vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai.
 Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của việc
đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công cụ
nợ cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp.
 Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng.
Dựa trên cách tính vốn tự có này mà Basel 1 đã đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu (CAR).
CAR = [(Vốn tự có hay vốn cơ bản) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%
Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) + Tổng
(Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro)
Từ ngày 1.10.2010 theo thông tư 13/TT-NHNN ngày 20.5.2010 của NHNN thì tỉ
lệ CAR này sẽ được điều chỉnh từ 8% lên 9%. Ngoài ra, hiệp ước Basel I còn xác
định các hệ số rủi ro trong các loại rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động.

Hạn chế:
 Thứ nhất, việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi ro
chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ như khả năng tài chính của khách
hàng) hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ như theo thời hạn). Điều này
chỉ ra rằng có thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đối mặt
với các loại rủi ro khác nhau, ở mức độ khác nhau.

Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết
về
đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Theo Basel
I, quy định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động
kinh doanh đa dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều

rủi ro hơn).
 Thứ ba, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến
các rủi ro khác như rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại tệ, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt
động,
 Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp
ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập
hay hoạt động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi
3
nhánh,

Thứ năm, một số quy định trong Basel I đã không còn phù hợp khi các ngân
hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng
cạnh tranh cao và có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, các ngân hàng không
còn chỉ hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế.
1.2.2 BASEL II:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không
đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng
tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới
thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel
(Basel II) đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính,
Basel II đã buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
 Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để
trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi
ro thị trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với
rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn
là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
 Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những
loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể

đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ
này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
 Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn
của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy
trì mức vốn đó.
 Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn
nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng
giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực
hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của
quy trình này.
4
 Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định.
 Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập
tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
 Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích
đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một
danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông
tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ
nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và
quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
>> Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này
đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một
cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy
vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi ro Phân loại tài sản
0%
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.

Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
20%
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
100%
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các khoản
nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất
động sản,…
5
Bảng 2.
Loại tài sản
Trọng số
rủi ro
Tỷ lệ vốn Số tiền
Tài sản điều
chỉnh theo
trọng số rủi
ro
Yêu cầu về
vốn tối thiểu
Trái phiếu Chính phủ 0% 8% 1.000 USD 0 USD 0 USD
Trái phiếu đô thị 20% 8% 1.000 USD 200 USD 16 USD
Thế chấp nhà ở 50% 8% 1.000 USD 500 USD 40 USD
Vay không bảo đảm 100% 8% 1.000 USD 1.000 USD 80 USD

ƯU ĐIỂM CỦA BASEL II SO VỚI BASEL I:
− Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các
phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát

và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường.
− Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các
biện pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
− Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro
tăng lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và
chính sách rủi ro.
− Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0-100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD - Organisation for Economic Co-
operation and Development). Basel II quy định từ 0-150 hoặc hơn và không có
đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
6
− Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ,
đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).

HẠN CHẾ CỦA BASEL II:
− Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có
thể được chấp nhận rộng rãi.
− Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu lỳ
kinh doanh.
− Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm
dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
1.2.3 BASEL III:
Hiệp ước Basel III được phát triển để đối phó với những thiếu sót trong các
qui định về tài chính bị bộc lộ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Basel III tăng
cường yêu cầu về vốn của ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về
tính thanh khoản ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Tổ chức OECD ước tính rằng việc
thực hiện Basel III sẽ giảm tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 0,05%-0,15%

Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính gần đây, Ủy ban Basel về Giám sát
Ngân hàng (BCBS) đã đưa ra các điều chỉnh trong hướng dẫn đối với các quy định
về vốn và hoạt động các ngân hàng như sau:
 Basel III trình bày các kiến nghị của Ủy ban Basel để tăng cường vốn toàn cầu và các
quy định về tính thanh khoản với mục tiêu thúc đẩy khu vực ngân hàng trở nên linh
hoạt hơn. Mục tiêu gói cải cách của Ủy ban Basel là nhằm cải thiện khả năng của
lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính
và kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài
chính cho các nền kinh tế hiện tại
 Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh
khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các
tiêu chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn
và chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn
bẩy mới và tỷ lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung
các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh
phí được duy trì trong trường hợp xảy ra khủng hoảng
7
 TÓM TẮT CÁC THAY ĐỔI ĐƯỢC ĐỀ XUẤT:
 Chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ
được nâng lên:
 Vốn cấp 1: Chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi
nhuận giữ lại
 Các công cụ vốn cấp 2 sẽ được cân đối hài hòa
 Vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ
 Mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường:
 Tăng cường các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng với khách hàng phát sinh,
các nghiệp vụ bảo đảm cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao
dịch tài chính
 Nâng cao vốn dự phòng cho các rủi ro
 Giảm các chu kỳ

 Cung cấp các ưu đãi bổ sung để di chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị
trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân hàng (trung tâm thanh toán bù
trừ)
 Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng đối ứng
 Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho khung rủi
ro được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ
đòn bẩy nhằm đạt được các mục tiêu sau:
 Xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy trong lĩnh vực Ngân hàng
 Đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro mô hình và sai số đo bằng cách
bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn giản là dựa trên rủi ro tổng
thể.
 Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện pháp thúc đẩy xây dựng các vùng
đệm vốn trong thời điểm tốt và có thể được rút ra khi trong thời kỳ căng
thẳng ("Giảm chu kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ")
 Ủy ban cũng đề xuất hàng loạt các giải pháp để giải quyết tình trạng chu kỳ:
+)
Làm Giảm bất kỳ chu kỳ vượt quá yêu cầu vốn tối thiểu;
+)
Tăng cường hơn nữa các quy định hướng tới tương lai;
+)
Dự trự vốn để xây dựng các vùng đệm tại các ngân hàng tư nhân và khu
8
vực ngân hàng để giải quyết những tình trạng căng thẳng về vốn khi cần
 Đạt được mục tiêu rộng lớn hơn là chính sách thận trọng vĩ mô nhằm bảo vệ
khu vực ngân hàng trong thời kỳ tăng trưởng tín dụng quá mức:
+)
Yêu cầu sử dụng các khoản đầu tư dài hạn để ước lương trước xác suất vỡ
nợ,
+)
Dư toán suy thoái do các khoản lỗ tín dụng gây nên, được đề nghị trong

Basel II, để trở thành bắt buộc
+)
Cải thiện hiệu chuẩn các chức năng rủi ro, mà chuyển đổi ước tính thiệt hại
vào vốn pháp quy theo yêu cầu
+)
Ngân hàng phải tiến hành các cuộc kiểm tra bao gồm tăng trưởng tín dụng lan
rộng trong các kịch bản suy thoái
 Tăng mạnh mẽ hơn nữa tỷ lệ trích lập dự phòng:
+)
Ủng hộ sự thay đổi trong các tiêu chuẩn kế toán đối với một khoản tổn
thất dự kiến (EL) phương pháp tiếp cận. Thông thường, số tiền EL = LGD* PD
* EAD
Trong đó:
− EL : Là khoản tổn thất dự kiến
− LGD : Là khoản tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra
− PD : Xác suất mặc định
− EAD : Rủi ro mặc định đối với khách hàng
 Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu
cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản
đảm bảo trong 30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản
dài hạn được gọi là Tỷ lệ dự phòng bình ổn.
Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc các biện
pháp giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan
trọng được thành lập có hệ thống
Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-9,5% (4,5% 2,5% (bảo
tồn vùng đệm) + 0-2,5% (theo thời kỳ đệm) cho cổ phần phổ thông và 8,5-11%
cho Vốn cấp 1 và 10,5-13 cho tổng số vốn.
Bảng 3: So sánh Basel II và Basel III
9
Chỉ tiêu BASEL II BASEL III

Tỷ lệ vốn cấp 1 4%
Tỷ lệ vốn cốt lõi
trong vốn cấp 1
2% 4.5%
CAR CAR >= 8%
CAR >= 8%
Mức vốn tốt: CAR >= 10%
Mức vốn thích hợp: CAR > 8%
Thiếu vốn: CAR < 8%
Thiếu vốn rõ rệt: CAR < 6%
Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%
Vốn bảo tồn
vùng đệm
Không có
= 2.5%
Bảo tồn trước năm 2006 = 0%
01/01/2006 = 0.625% 01/01/2007 = 1.25%
01/01/2008 = 1.1875% 01/01/2009 = 2.5%
Mục đích của bộ đệm bảo tồn vốn là để giúp hấp
thụ các thiệt hại trong giai đoạn căng thẳng tài
chính và kinh tế toàn cầu.
Vốn đệm ngược
chu kỳ
Không có
= 2.5%
Vốn đệm ngược chu kỳ trước năm 2006 = 0%
01/01/2006 = 0.625% 01/01/2007 = 1.25%
01/01/2008 = 1.1875% 01/01/2009 = 2.5%
Mục đích của bộ đệm vốn ngược chu kỳ là để
đảm bảo rằng các NH có đủ khả năng tài chính

đối đầu với các sự kiện ngược chu kỳ kinh tế.
Vốn cho các NH
quan trọng
trong hệ thống
Không có Có
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG BASEL III TẠI VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BASEL TẠI VIỆT NAM
10
Hiện nay, khi các ngân hàng trên thế giới đã đề cập tới việc áp dụng chuẩn mực
Basel 3 thì các ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa chính thức đề cập tới việc áp dụng một
chuẩn mực nào của Basel. Mặc dù các quy định trong những năm gần đây của Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) như Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định
457/2005/QĐ-NHNN, Thông tư số 13, 19 năm 2010 cũng đã đề cập tới một số vấn đề
liên quan tới các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn ở mức rất hạn chế. Trong
khi các ngân hàng thương mại tại Việt Nam chưa áp dụng các chuẩn mực của Basel một
cách chính thức để nhằm nâng cao chất lượng quản lý rủi ro, thì các ngân hàng trên thế
giới đã có những bước phát triển cao hơn. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh
của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính – ngân hàng với
nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel tại
Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro đối
với các ngân hàng thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh trong thị trường tài chính
quốc tế, tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam có thể mở rộng thị trường trong thời
gian tới. Các cơ quan quản lý và các tổ chức tín dụng đã và đang nỗ lực hoàn thiện hệ
thống pháp lý và hoạt động ngân hàng tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực
quốc tế.
2.1.1 VỀ PHÍA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực
quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM, tiến dần từng

bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong đó, NHNN là cơ quan ban hành các
văn bản luật cập nhật các điều khoản của Basel mà cách tiếp cận phù hợp với tình hình
Việt Nam. Đồng thời, NHNN cũng là cơ quan trực tiếp quản lý, giám sát việc thực hiện
các văn bản luật này từ đó có hướng điều chỉnh thích hợp.
Mặc dù, NHNN chỉ mới ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Luật
các Tổ chức tín dụng (TCTD) đầu tiên vào năm 1997. Tuy nhiên, chỉ sau 2 năm sau, tức
năm 1999, NHNN cũng đã nhanh chóng cập nhật những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo
an toàn vốn, nghiên cứu và cụ thể hóa bằng 2 Quyết định: (1) Quyết định số
11
296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về giới hạn cho vay với một khách
hàng của TCTD; (2) Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về
các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD. Tuy nhiên, mặc dù, NHNN đã có
nhiều cố gắng nhưng hai Quyết định này đã không tránh khỏi những hạn chế. Bởi lẽ, khi
NHNN ban hành văn bản luật tiếp cận với Basel I, cũng là lúc BCBS bắt đầu đề xuất
một khung Hiệp ước vốn mới (Basel II). Cho nên, đến ngày 23/4/2003, NHNN có Quyết
định số 381/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Quy định
về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết
định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN. Tiếp theo đến
năm 2005, để cụ thể hơn các quy định của Basel, NHNN đã ban hành các quyết định
nhằm thay thế các QĐ 296 và Quyết định 297, bao gồm: (1) Quyết định số
457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động của TCTD, trong đó quy định về cách xác định: Vốn tự có = vốn cấp I + vốn cấp
II; thông qua đó, xác định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. (2) Quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN ngày 22/4/2005 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Theo đó, nợ của TCTD được chia
làm 5 loại: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu
chuẩn), Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Tương ứng với
từng nhóm nợ có các mức trích lập dự phòng khác nhau: Nhóm 1: 0%, Nhóm 2: 5%,
Nhóm 3: 20%, Nhóm 4: 50% và Nhóm 5: 100%.
Các quy định tại QĐ 457 và 493 tuy đã đề cập đến 1 số vấn đề liên quan đến các

điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn còn ở mức hạn chế.
Chính vì vậy, vào tháng 5/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-
NHNN ngày 20/5/2010 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín
dụng (thay thế QĐ 457 và các sửa đổi có liên quan). Trong đó ngoài việc quy định lại về
việc xác định Vốn tự có= vốn cấp I + vốn cấp II, NHNN đã hướng dẫn cách xác định tỷ
lệ an toàn vốn riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của
tổ chức tín dụng lên 9%.
2.1.2 VỀ PHÍA CÁC TCTD
12
Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng đang
rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù
hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các
chuẩn mực của các Basel. Các NHTM đã chuyển từ quản lý rủi ro thụ động (với các đặc
trưng: Quản lý sau đối với các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Đơn thuần thực
hiện báo cáo các kết quả đã xảy ra) sang quản lý rủi ro chủ động (với các đặc trưng:
Quản lý trước và trong quá trình của các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Thực
hiện giám sát trong quá trình hoạt động, cảnh báo những ngưỡng rủi ro; Đưa ra các báo
cáo rủi ro, phân tích rủi ro). Theo đó: (1) Các NHTM đã có bộ phận quản lý rủi ro
chuyên biệt, ngoài việc quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, các TCTD đã quan tâm
đến rủi ro tác nghiệp, một số NHTM lớn như BIDV, VCB, Vietinbank, Agribank,
Techcombank, ACB… đã thành lập bộ phận quản lý rủi ro tác nghiệp; (2) Xây dựng hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Ví dụ: BIDV đang hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ theo thông lệ quốc tế với 3 nhóm khách hàng: khách hàng doanh nghiệp,
khách hàng cá nhân và khách hàng là các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào các thông tin tài
chính và phi tài chính của khách hàng, BIDV chấm điểm và xếp khách hàng thành 10
loại: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C và D. Đối với mỗi hạng khách hàng,
BIDV có chính sách riêng, cụ thể như: chính sách về tiếp thị, chính sách về cấp tín dụng,
chính sách về tài sản đảm bảo…
Để có cái nhìn cụ thể, chúng ta chia việc thực hiện các văn bản pháp luật về an
toàn vốn theo 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn thứ nhất (1999-2005): Áp dụng Quyết định

297/1999/QÐ-NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của
NHTM. Mặc dù, QĐ 457/2005/QĐ-NHNN được ban hành vào ngày 19/04/2005, tuy
nhiên,do độ trễ của vấn đề, ta vẫn xem xét đến hết năm 2005; (2) Giai đoạn hai (2006-
2010): Giai đoạn thực hiện Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN. Mặc dù, Thông Tư sô
13/2010/TT-NHNN có hiệu lực vào ngày 01/10/2010, tuy nhiên, ta vẫn tính hết năm
2010; (3) Giai đoạn thứ ba (2011- 2012): Thực hiện đảm bảo an toàn vốn tối thiểu 9%
theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN.
 Giai đoạn 1999-2005
13
Vào giai đoạn này, thị phần hoạt động của 5 ngân hàng thương mại nhà nước
(NHTM NN), gồm NHTM NN Ngoại Thương Việt Nam (VCB), NHTM NN Công
Thương Việt Nam (CTG), NHTM NN Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM
NN Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam (AGR), NHTM NN Phát triển Nhà
đồng bằng song Cửu Long (MHB), chiếm đến 70-75 %. Ngoài ra, tại thời điểm năm
2000, trước thực trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, có nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các
NHTM NN, Chính phủ đã trực tiếp cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng cấp trái phiếu đặc biệt
với thời hạn 20 năm để tăng vốn tự có cho 4 NHTM NN đưa tổng mức vốn tự có của
khối này lên mức hơn 18.000 tỷ VND, chiếm 51% vốn tự có của toàn hệ thống. Chính vì
vậy, có thể nói sự an toàn trong hoạt động của nhóm ngân hàng này quyết định sự an
toàn của toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn vào hệ số an toàn vốn
(CAR) của 5 NHTM NN tại thời điểm 31/12/2005, ta thấy, hầu hết các NHTM NN đều
chưa đạt được yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, trừ MHB.
Hình 1: Hệ số an toàn vốn (hệ số CAR) của các NHTM NN thời điểm 31/12/2005
Tuy nhiên, nếu xét trên toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể nhận thấy, trong khi
các NHTM NN gặp khó khăn trong việc đạt chuẩn an toàn vốn thì các NHTMCP thời
điểm này lại đảm bảo được mức an toàn vốn.
Hình 2: Hệ số an toàn vốn của hệ thống TCTD Việt Nam tính đến 31/12/2005
14
Cụ thể, ngoại trừ, nhóm NHTM NN có CAR rất thấp là 4.10%, tất cả các nhóm
còn lại có CAR cao hơn quy định. Trong đó, NHTM CP đô thị có CAR là 8.00%, vừa đủ

để đáp ứng yêu cầu của quy định. Đối với nhóm chi nhánh NH nước ngoài và NH liên
doanh lần lượt có hệ số CAR là 9.20% và 12.00%. Đặc biệt, NHTM CP nông thôn có hệ
số CAR lên đến 24%. Tuy nhiên, do thị phần lớn cũng như tỷ trọng vốn tự có của nhóm
NHTMNN cao hơn rất nhiều so với tất cả các nhóm còn lại, nên tổng thể, hệ thống
NHTM vẫn có CAR rất thấp là 5.50%. Hơn thế nữa, mặc dù, các NHTM Việt Nam đã
nỗ lực và hầu hết các NHTM CP đều đạt được hệ số an toàn vốn trên 8%, song nếu so
sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel II, tức là mẫu số phải cộng thêm cả vốn dành
cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động thì chắc chắn rất ít NHTM Việt Nam giai đoạn
này đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%.
 Giai đoạn 2005-2010
Trong giai đoạn này, nhìn chung, CAR của các NHTM đạt trên mức quy định là
8%. Tuy nhiên, vẫn là vấn đề của giai đoạn trước: các NHTM NN có ảnh hưởng lớn đến
cả hệ thống nhưng lại không thỏa mãn yêu cầu theo QĐ 457. Trong đó, AGR không đạt
được hệ sô CAR suốt giai đoạn thứ hai này. Thậm chí, CAR ở mức rất thấp. Ngoài ra,
BIVD, CTG, VCB cũng có thời điểm không thỏa mãn yêu cầu về an toàn vốn của QĐ
457 và các sửa đổi, bổ sung có liên quan.
Bảng 4: CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010
15
AR 006 007 008 009 010
CB 2.60 .20 .90 .64
TG .18 1.62 2.02 .06 .02
RG .90 .20 .9 .86 .09
IDV .50 .67 .50 .55 .32
CB 7.28 4.30 3.99 .6 3.11
TB 1.82 1.07 2.16 0.90 0.32
CB 0.89 6.19 2.44 .97 0.4
AB 3.57 4.36 0.75 .a 0.84

Để hiểu rõ hơn về sự biến động của CAR trong giai đoạn này, ta xem xét hình sau:
Hình 3: Hệ số CAR của một số NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010

16
Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn đầy biến động. Thứ nhất, giai đoạn 2006-2008,
nhìn chung, đa số các ngân hàng đều có CAR trên mức quy định và có xu hướng tăng
trưởng. Bởi vì, đây là giai đoạn có sự thuận lợi của môi trường kinh doanh cũng như sự
bùng nổ của thị trường chứng khoán.
Đặc biệt là bối cảnh đã thay đổi kể từ năm 2007, khi hệ thống ngân hàng Việt
Nam gặp phải hai vấn đề lớn gồm: (1) rủi ro về mặt thanh khoản và (2) rủi ro từ các
hoạt động liên quan đến chứng khoán và bất động sản.
Rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng gia tăng do cung tiền được mở
rộng với tốc độ cao cộng với sự nở rộng quá nhanh của một số ngân hàng, nhất là các
ngân hàng nhỏ mà phần đông là mới thành lập hay được nân cấp lên từ các ngân hàng
nông thôn. Điều này đã tạo ra sự mất cân đối trong việc huy động vốn và cho vay của
các ngân hàng.
Những ngân hàng lớn có lợi thế về mặt huy động vốn do mạng lưới và quan hệ
có sẵn, khi cung tiền được mở rộng họ đã huy động được rất nhiều tiền, nhưng khả
năng cho vay chỉ ở một mức nào đó nên các ngân hàng này đã dư ra một lượng vốn
khá lớn. Ngược lại các ngân hàng mới nâng cấp hay mới thành lập cần phải mở rộng
hoạt động nên cần vốn. Cung - cầu gặp nhau và hoạt động vay mượn trên thị trường
liên ngân hàng là khá dễ dàng với lãi suất rất phải chăng.
17
Kết quả là một số ngân hàng đã đi vay các tổ chức tín dụng khác (vay liên
ngân hàng) để cho vay lại khách hàng, trong khi về nguyên tắc vay liên ngân hàng với
lãi suất rất thấp thường chỉ để bù đắp những thiếu hụt tạm thời về mặt thanh khoản
hay yêu cầu dự trữ của ngân hàng nhà nước và nguồn vốn sử dụng để cấp tín dụng
nên là vốn huy động trực tiếp.
Khi lạm phát ở mức báo động, chính sách thắt chặt tiền tệ được đưa ra một quá
mạnh và có phần đột ngột đã làm lộ ra những vấn đề về quản lý cũng như rủi ro
thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thêm vào đó, việc các Ngân hàng thương mạitham gia quá tích cực vào các
hoạt động kinh doanh chứng khoán và bất động sản như cho vay để kinh doanh cổ

phiếu hay mua bán bất động sản cũng như một số nghiệp vụ khác của ngân hàng
đầu đã tạo ra những tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hệ thống tài chính.
Một số chính sách có tính chữa cháy như Chỉ thị 03 vào tháng 5/2007 khống
chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ cho vay
đã không những không có tác dụng, mà còn gây ra những tác động tiêu cực khác.
Hơn thế, khi Việt Nam gặp nhiều khó khăn do lạm phát tăng cao chưa từng có kể từ
những năm đâu thập niên 1990, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tồi tệ nhất kể từ
cuộc đại khủng hoảng và suy thoái 1929 – 1933 ở Mỹ xảy ra mà một trong những
nguyên nhân chính là việc dỡ bỏ quy tách bạch giữa hoạt động của các Ngân hàng
thương mại và ngân hàng đầu tư, đã làm cho nhu cầu có một quy định chặt chẽ về đảm
bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tài chính trở nên cấp thiết hơn. Đề án Cải
cách tổ chức và hoạt động Thanh tra Ngân hàng (Quyết định số 1976/QĐ-NHNN)
đã nêu lên 7 nội dung cơ bản trong đó nhấn mạnh việc chuyển hướng từ thanh tra
tuân thủ sang thanh tra - giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất kết hợp với thanh
tra - giám sát tuân thủ phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Uỷ ban
Giám sát ngân hàng Basel nhằm nâng cao năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt
động ngân hàng”.
Tuy nhiên, giai đoạn thứ hai, từ năm 2008 đến năm 2009, do tác động của chính
sách kích cầu cũng như việc thực hiện nới lỏng tiền tệ của NHNN nên tín dụng tại các
NHTM đã tăng đột biến. Ðiều này dẫn đến hệ lụy tổng tài sản rủi ro của các NHTM tăng
lên và kết quả là các NHTM trong nhóm trên đều có xu hướng sụt giảm tỷ lệ an toàn
18
vốn. Trong đó, VCB từ tình trạng đạt tiêu chuẩn trên 8%, giảm xuống chỉ còn 7.64%.
Sau đó, giai đoạn 2009-2010, CAR của hầu hết các ngân hàng đều tăng trưởng đáng kể.
Tháng 5/2010 NHNN đã chính thức ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN có
hiệu lực từ 01/10/2010 về Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của
tổ chức tín dụng.
Thông tư 13 đề cập đến các tỷ lệ bảo đảm an toàn chính yếu như sau:
o Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu;
o Giới hạn tín dụng;

o Tỷ lệ khả năng chi trả;
o Giới hạn góp vốn, mua cổ phần;
o Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động;
 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:
“1. Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín
dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ)”
2. Tổ chức tín dụng phải thực hiện Báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định
của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ quy định tại Khoản 1
Điều này, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất
vốn, tài sản của tổ chức tín dụng và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất)”
Tỷ l

ệ an toàn vốn riêng l

ẻ đư ợ

c xác đ ị

nh như sau:
Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ = Vốn tự có/Tổng tài sản “Có” rủi ro
Trong đó:
 Vốn tự có là tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ đi các khoản phải trừ.
− Vốn từ có Cấp 1 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 1 trừ đi các khoản phải trừ
− Vốn từ có Cấp 2 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 2

Các khoản phải trừ khi tính vốn tự có
 Tổng tài sản “Có” rủi ro
( Điều 5, Mục 1, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
Tỷ l


ệ an toàn vốn hợp nhất đư ợ

c xác đ ị

nh như sau:
Tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất = Vốn tự có hợp nhất/Tổng tài sản “Có” rủi ro hợp nhất
Trong đó;
 Vốn tự có hợp nhất được xác định bằng tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ đi các
khoản trừ:
19
− Vốn từ có Cấp 1 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 1 (bao gồm chênh lệch tỷ giá
hối đoái phát sinh trong quá trình hợp nhất Báo cáo tài chính) trừ đi các khoản
phải trừ
− Vốn từ có Cấp 2 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 2
 Tổng tài sản “ Có “ rủi ro hợp nhất
( Điều 6, Mục 1, Thông tư 13/2010/TT – NHNN ngày 20/05/2010)
 Giới hạn tín dụng:
 Tổ chức tín dụng căn cứ quy chế nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng để xây
dựng, ban hành quy định về các tiêu chí xác định một khách hàng và nhóm khách
hàng có liên quan, chính sách tín dụng đối với khách hàng và các giới hạn tín dụng
áp dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan, trong đó tối
thiểu phải có các nội dung sau đây:
 Tiêu chí cụ thể xác định một khách hàng, nhóm khách hàng có liên quan.
 Giới hạn tín dụng đối với một khách hàng, nhóm khách hàng có liên quan.
 Kế hoạch đa dạng hóa hoạt động tín dụng, phương pháp theo dõi và quản lý
đối với các khoản cấp tín dụng ở mức từ 5% vốn tự có của tổ chức tín
dụng trở lên. Từng khoản cho vay hoặc bảo lãnh, cho thuê tài chính và tổng
các khoản cho vay hoặc tổng các khoản bảo lãnh, tổng các khoản cho thuê
tài chính vượt quá 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng phải được Hội đồng

quản trị hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc người được Hội đồng quản trị,
Chủ tịch Hội đồng quản trị ủy quyền thông qua theo phân cấp, ủy quyền
quy định tại chính sách tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng.
 Quy định nội bộ về các tiêu chí xác định một khách hàng và nhóm khách hàng có
liên quan, các giới hạn tín dụng áp dụng đối với một khách hàng và nhóm khách
hàng có liên quan phải được sửa đổi, bổ sung phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung
các quy định nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng, chính sách tín dụng đối với
khách hàng khi hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được sửa đổi, bổ sung hàng năm.
( Điều 7, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
 Giới hạn cho vay, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá:
Dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng bao gồm dư nợ cho vay theo hợp đồng
tín dụng; số dư nợ tổ chức tín dụng ủy thác cho tổ chức tín dụng khác cho vay; số dư
các khoản tổ chức tín dụng đã trả thay do thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với khách
hàng.
20
− Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt
quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
− Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách
hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng
dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (15%
vốn tự có).
− Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên
quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng
dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (15%
vốn tự có).
− Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm
khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức tín
dụng, trong đó tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh đối với một khách hàng
không được vượt quá tỷ lệ quy định (25% vốn tự có).

( Điều 8, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
 Giới hạn cho thuê tài chính
− Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá
30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
− Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một nhóm khách hàng có liên quan
không được vượt quá 50% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trong đó
mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy
định (30% vốn tự có).
( Điều 9, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
 Tỷ lệ về khả năng chi trả:
Cuối mỗi ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo
các tỷ lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm sau như sau:
 Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “ Có “ thanh toán ngay và tổng Nợ phải
trả
− Tổng tài sản “ Có” thanh toán ngay
− Tổng Nợ phải trả được xác định bằng số dư trên khoản mục Tổng Nợ phải trả
 Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp
theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày
21
tiếp theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và
đồng đô la Mỹ (bao gồm đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi
sang đô la Mỹ theo tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày).

Tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau
− Tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau
( Điều 12, Mục 3, Thông tư 13/2010/ TT – NHNN ngày 20/05/2010)
 Giới hạn góp vốn, mua cổ phần:
Mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong một doanh nghiệp, quỹ đầu
tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của
doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác đó, trừ trường hợp góp

vốn, mua cổ phần thành lập công ty trực thuộc theo quy định của pháp luật.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng và các công ty con, công ty
liên doanh, công ty liên kết của tổ chức tín dụng trong cùng một doanh nghiệp, quỹ
đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của
doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác đó.
( Điều 16, Mục 4, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
 Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động:
Tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều
kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ
bảo đảm an toàn khác quy định tại Thông tư này và không được vượt quá tỷ lệ dưới
đây:
− Đối với ngân hàng: 80%
− Đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 85%

Tiền gửi của cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kì hạn
− Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức (trừ Kho bạc Nhà nước), bao gồm cả tiền gửi
có kỳ hạn của tổ chức tín dụng khác và chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
− Tiền vay của tổ chức trong nước (trừ Kho bạc, tiền vay của tổ chức tín dụng
khác trong nước) và tiền vay của tổ chức tín dụng nước ngoài;
− Vốn huy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá
( Điều 18, Mục 5, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
Đồng thời cũng trong giai đoạn này NHNN cũng đã ban hành thêm thông
tư 19 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 cho sát với thực tiễn
hơn:
− Các tỷ lệ đảm bảo an toàn quy định tại Thông tư này gồm: Tỷ lệ an toàn vốn tối
22
thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng chi trả; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ
lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động.( Nội dung cũ là tỷ lệ cấp tín dụng so với
nguồn vốn huy động.)
− Số dư tiền gửi không kỳ hạn, trị giá sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn gửi tại các

tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng chính sách Xã hội; Số dư tiền gửi có kỳ hạn,
trị giá sổ sách của vàng gửi có kỳ hạn đến hạn thành toán gửi tại các tổ chức tín
dụng khác, trừ Ngân hàng chính sách Xã hội.
(Nội dung trong thông tư cũ là "Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi
không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn gửi tại các tổ chức tín dụng
khác, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội và số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ
sách của vàng gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín
dụng.
Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của
vàng gửi có kỳ hạn đến hạn thanh toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân
hàng Chính sách Xã hội và số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng có kỳ
hạn đến hạn thanh toán của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng")
− Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động:
Tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với
điều kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ
đảm bảo an toàn khác quy định tại Thông tu này và việc cấp tín dụng từ nguồn vốn huy
động không vượt quá tỷ lệ dưới đây: Đối với ngân hàng : 80%; đối với tổ chức tín dụng
phi ngân hàng 85%.
− Cấp tín dụng quy định tại Khoản 1 Điều này bao gồm các hình thức cho vay, cho
thuê tài chính, bao thanh toán, chiết khấu giấy tờ có giá và công cụ chuyển
nhượng (bỏ cấu phần "bảo lãnh").
− Nguồn vốn huy động được bổ sung một số điều theo hướng nới rộng nguồn vốn huy
động được đem cho vay bao gồm:
• Tiền gửi của cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn;
• Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức, bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức
tín dụng khác và chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (không

lo ạ i


trừ

t

i ền

gửi
của

Kho bạc Nhà nư ớ

c như trong Thông tư 13 chưa sửa đổ i

) .
Vốn huy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá.
23
− Trong khoản 3.3 điều 18 mục 5 về “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động”,
thông tư 19 bổ sung khoản nguồn vốn huy động được đem cho vay bao gồm 25%
tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) và tiền vay của tổ
chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên(trừ tiền vay của tổ chức tín dụng
khác trong nước để bù đắp thiếu hụt tạm thời đối với các tỷ lệ về khả năng chi trả
theo quy định tại Khoản 1 điều14) và tiền vay của tổ chức tín dụng nước ngoài.
(Nội dung này không có trong thông tư 13 và được bổ sung thêm)
 Giai đoạn 2011-2012
Trong giai đoạn này, bức tranh về đảm bảo an toàn vốn là khá phức tạp. Nếu nhìn
vào mức tính toán cho toàn hệ thống, hệ thống NHTM Việt Nam đã đảm bảo được hệ số
an toàn vốn tối thiểu 9% theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. Đầu tiên, có những tín
hiệu tốt khi hầu hết các NHTM đều đạt CAR trên 9%, mặc dù AGR chỉ đạt được 8%
nhưng đây cũng là dấu hiệu đáng mừng vì nếu so với tiêu chuẩn của cả Basel I, II và III
thì AGR cũng thỏa mãn quy định

Hình 4: Hệ số CAR của các NHTM năm 2011
Dấu hiệu đáng quan tâm thứ hai là, nếu xét trên toàn hệ thống ngành Ngân hàng
thì CAR có xu hướng tăng lên, từ 11.92% vào thời điểm tháng 9/2011 đến 13.7% vào
ngày 31/10/2012. Một trong những nguyên nhân là các NHTM CP đều cố gắng thực hiện
24
theo NĐ 141/2006/NĐ-CP về việc tăng vốn điều lệ trên 3000 tỷ đồng. Tính đến
31/10/2012, không còn ngân hàng nào có mức vốn điều lệ thấp hơn 3000 tỷ đồng.
Bảng 5: Tỷ lệ an toàn vốn của ngành Ngân hàng
Đơn vị tính: %
9/2011 31/10/2012
CAR(%) 11.92 13.7
Nguồn: tổng hợp từ NHNN
Tuy nhiên, với hai dấu hiệu trên, chúng ta vẫn chưa thể kết luận các NHTM Việt
Nam đã sẵn sang đối phó với những nguy cơ từ các loại rủi ro bởi các nguyên nhân sau:
(1) Mặc dù là ngân hàng lớn nhất VN cả về vốn, tài sản lẫn đội ngũ nhân viên,
mạng lưới hoạt động, số lượng khách hàng, Agribank vẫn không thể đạt được quy định
về mức an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2011. Mặc dù, sau đó, CAR của Agribank
lên mức 9,5% vào tháng 3/2012 nhờ vốn Chính phủ, nhưng cũng chỉ mới cao hơn chút
đỉnh so với yêu cầu tối thiểu. Ngoài ra, chất lượng vốn vay suy giảm vẫn là một rủi ro
lớn đối với vốn của Agribank xét tới viễn cảnh yếu kém về chất lượng tài sản và khả
năng sinh vốn nội tại hạn chế của ngân hàng này. Ðiều này là đáng lo ngại nếu xét trên
phương diện rủi ro hệ thống. Bởi lẽ, sự sụp đỗ của AGR sẽ dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ
thống ngân hàng.
(2) Ðối với khối NHTMCP,các ngân hàng quy mô lớn đều có xu thế đạt được yêu
cầu mới của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ thực sự gặp khó
khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn. Cụ thể đến thời điểm
31/6/2011, tỷ lệ CAR của nhiều các ngân hàng cổ phần như ACB, Sacombank,
Eximbank, Techcombank, Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9% theo tinh thần của Thông
tư số 13/2010/TT-NHNN. Trong khi đó, đến tháng 11/2011, vẫn còn 5 NHTM cổ phần
vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nếu xem xét theo tinh thần Nghị định 141/NÐ-CP

ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì tính đến thời điểm hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15
NHTMCP có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở khoảng 2.000 tỷ đồng. Như vậy,
dù giãn tiến độ 1 năm nhưng một số ngân hàng nhỏ của Việt Nam vẫn không thể đạt
được các quy định đảm bảo mức vốn pháp định. Mặc dù, sau đó, đến 31/10/2012, tất cả
25

×