BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH
VỀ KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG VÀ MINH BẠCH THÔNG TIN
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 4 năm 2013
LỜI MỞ ĐẦU
2
GVHD : NGUYỄN THỊ HAI HẰNG
NHÓM : 6
HỌ TÊN SINH VIÊN MSSV
Dương Thị Hiền K094040543
Bùi Kim Ngân
K094040572
Nguyễn Thị Trang K094040618
Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO và đang trong tiến trình hội nhập quốc
tế. Với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay, kinh doanh Ngân
hàng được xem là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm, phải mở cửa gần như
hoàn toàn theo các cam kết quốc tế. Trong bối cảnh chung đó, đòi hỏi hệ thống NHTM
Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể
biến thách thức thành cơ hội, biến những khó khăn thành lợi thế.
Để hệ thống NHTM Việt Nam tham gia tốt hơn vào sân chơi chung quốc tế, nâng
cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, cần phải tuân thủ theo một số điều ước
quốc tế, để từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá và xếp hạng giữa các ngân hàng Việt Nam
với các ngân hàng nước ngoài của các quốc gia khác trên thế giới.
Một trong những điều ước quốc tế được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt quan
tâm chính là hiệp ước quốc tế về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng - còn được biết
thông dụng với tên gọi Hiệp ước Basel. Ra đời từ cách đây hơn 20 năm, hiệp ước này
được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng làm chuẩn mực để đánh giá và giám sát
hoạt động của hệ thống ngân hàng nước mình. Hiện nay hiệp ước Basel đã có phiên bản
hai (được biết đến với tên gọi The New Basel Capital Accord) cập nhật, đổi mới một số
nội dung hơn so với phiên bản thứ nhất trước đó.
Ớ Việt Nam, việc ứng dụng hiệp ước Basel này trong công tác giám sát và quản trị
ngân hàng vẫn còn nhiều vướng mắc, nên chỉ mới dừng lại ở việc lựa chọn một số tiêu
chí đơn giản trong Hiệp ước Basel I để vận dụng và vẫn chưa tiếp cận nhiều với Basel II.
Việc tuân thủ 3 trụ cột chính của Basel II vẫn chưa được triển khai mạnh mẽ, và đặc biệt
là các quy định về tuân thủ quy luật thị trường và vấn đề minh bạch thông tin của các
NHTM Việt Nam.
1. BASEL
1.1 Lịch sử ra đời của Ủy ban Basel và các thành viên
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision -
BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ
quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách
3
ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80, trong đó đáng chú ý
nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức lúc bấy giờ. Hiện nay, các thành
viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động
ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật,
Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 3 - 4 lần trong
một năm.
Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc
tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp
được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên. Ủy ban Basel và các
tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng
ở tất cả các nước.
Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ
ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân
hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những
hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ
vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù
hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc
áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ
thuật giám sát của các nước thành viên.
Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động
ngân hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy
ban. Những tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan
trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai
nguyên lý cơ bản là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi
sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm
1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến vấn đề
này.
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được
đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này
cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không
4
chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các
nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với
rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất
khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa
Basel I; (ii) sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ
chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ
luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Đến ngày 26/6/2004, bản
Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
1.2 Những điểm cơ bản của Basel I và Basel II
1.2.1 Basel I
- Mục đích của Basel I: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc
tế; Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
- Tiêu chuẩn của Basel I:
(1) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ lệ Cook”: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với
mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng
hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu
chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính
toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia
quyền (RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn
thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và
thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
(2) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định
nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an
toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
5
Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là
khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố
(Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất
báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng đánh
giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay
với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Vốn cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
(3) Vốn tính theo rủi ro gia quyền:
RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân đối
kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)
Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh
nghiệp 100% Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại này.
- Những thiếu sót của Basel I: Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm
1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các
hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến
năm 1996, Basel I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị
trường.
Mặc dù vậy, Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế
cơ bản củaBasel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp
với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành (không có yêu cầu vốn dự phòng
rủi ro vận hành). Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: không phân biệt theo
loại rủi ro, không có lợi ích từ việc đa dạng hóa…
1.2.2 Basel II
- Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng
quốc tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên
bình diện quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh
vực quản lý rủi ro.
6
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel
I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều
tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà
sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
- Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt
buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro
được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro
vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So vớiBasel I, cách tính chi phí vốn
đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ,
nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II
bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II
cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ
cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi
ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà
hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân
hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục
rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các
giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của
ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát
viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết
quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức
vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn
đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và
có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng
theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân
hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến
7
những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro
này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra,
các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch
hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm
thiểu được rủi ro.
1.2.3 Ưu điểm của Basel II so với Basel I
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương
pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên
nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia được tăng lên bởi
họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và
sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation
and Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào,
bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm
bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
1.3 Thực tiễn áp dụng Basel II tại Châu Á:
Hầu hết các nhà quản lý ở Châu Á đều ủng hộ các mục tiêu chung của Basel II và
tin tưởng rằng khuôn khổ này sẽ đưa ra những khích lệ hơn nữa để cải thiện công tác
8
quản lý rủi ro, cũng như các thay đổi khác nhằm bổ sung cho các mục tiêu giám sát của
họ. Việc thực thi Basel II ở một số nước Châu Á cụ thể như sau:
Quốc gia
Các cách tiếp cận rủi ro tín dụng Các cách tiếp cận rủi ro hoạt động
SA IRBF IRBA BIA SA AMA
Trung Quốc
Không áp
dụng
2010
Không áp
dụng
Không áp
dụng
2010
Không áp
dụng
Hồng Kong 1/1/2007 1/1/2008 1/1/2007
Không áp
dụng
Ấn Độ 31/3/2007 Không áp dụng 01/4/2007 Không áp dụng
Nhật Bản 1/4/2007 1/4/2008 01/4/2007 1/4/2008
Hàn Quốc 1/1/2008 1/1/2008
Philipin 1/1/2007 2010 1/1/2007 2010
Singapore 1/1/2008 1/1/2008
Đài Loan 1/1/2007 1/1/2008 1/1/2007 1/1/2008
Thái Lan 31/12/2008 31/12/2009 31/12/2008 31/12/2009
Nguồn: JICA
(SA là cách tiếp cận chuẩn hóa; IRBF là cách tiếp cận cơ bản dựa trên xếp hạng
nội bộ; IRBA là cách tiếp cận nâng cao dựa trên xếp hạng nội bộ; BIA là cách tiếp cận
chỉ số cơ bản; AMA là cách tiếp cận đo lường tiên tiến)
Việc tiếp cận Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí khá cao. Đối với một
nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam, việc
áp dụng Basel II gặp nhiều khó khăn, thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên,
trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng với nhiều loại
hình dịch vụ ngân hàng mới, việc áp dụng Basel II tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết
nhằm tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương
mại (NHTM).
9
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của
các NHTM tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo đó, việc
từng bước áp dụng các chuẩn mực của Basel II được đặc biệt chú trọng, nhất là sau cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua.
Về phía cơ quan quản lý, mới đây, NHNN Việt Nam đã ban hành quy định mới về
các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (Thông tư số
13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010) và đang khẩn trương hoàn thiện để ban hành quy
định mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc từng bước áp
dụng các chuẩn mực Basel II tại Việt Nam.
Về phía các tổ chức tín dụng Việt Nam, Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc
nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc tuân
thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn
nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ
thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của Basel II.
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn
bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện
tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Một số thiếu sót cơ bản của Basel II
là thiếu yêu cầu về phí vốn thanh khoản, quá tin cậy vào cơ quan xếp hạng tín dụng và
bản chất có tính chu kỳ của nó.
Mới đây, lãnh đạo hàng đầu của các nền kinh tế thuộc G20 đã hối thúc Ủy ban
Basel đưa ra biện pháp cải thiện chất lượng và số lượng vốn của các ngân hàng và thắt
chặt yêu cầu thanh khoản (Basel III) để các ngân hàng ứng phó tốt hơn với khủng hoảng
và ngăn khủng hoảng tài chính lặp lại mà không cần đến hỗ trợ từ chính phủ. Theo dự
thảo đưa ra tại G20, đến cuối năm 2012, Basel khuyến cáo các nước cần áp dụng tiêu
chuẩn mới về vốn và đưa ra các biện pháp linh hoạt hơn để khuyến khích các ngân hàng
thay đổi.
2. TRỤ CỘT 3
10
Trụ cột thứ ba làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải
công bố. Trụ cột này bao gồm các điều từ điều khoản 757 đến 775 theo quy định của
Basel II quy định cụ thể, rõ ràng về cách công bố các thông tin của ngân hàng. Phần này
được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro
tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và tham gia
chuyển giao một cách hợp lý. Trụ cột này yêu cầu mức độ minh bạch thông tin một cách
toàn diện, bao gồm công bố chất lượng và số lượng để đánh giá rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt
động của ngân hàng, công bố cho các ngân hàng về sử dụng cách tiếp cận mô hình nội
bộ (IMA) đối với danh mục tài sản mua và bán để đánh giá rủi ro thị trường, giảm thiểu
rủi ro tín dụng bằng cách công bố cách tiếp cận chuẩn hóa và IRB, minh bạch về vốn và
cơ cấu vốn của ngân hàng,…
Nội dung cơ bản của trụ cột ba:
− Nhấn mạnh tiềm năng đối với tính kỷ luật của thị trường đối với việc củng cố các quy
định về vốn và những nỗ lực thanh tra giám sát khác nhằm thúc đẩy sự an toàn và sự
lành mạnh trong các ngân hàng và các hệ thống tài chính.
− Đưa ra một số đề nghị về công bố thông tin như yêu cầu bắt buộc, một vài đề nghị là
những điều kiện tiên quyết đế chấp thuận việc thanh tra giám sát. Việc công bố thông tin
cốt lõi chuyển tải những thông tin mang tính sống còn cho tất cả các định chế và quan
trọng cho tính kỷ luật của thị trường. Việc công bố thông tin phụ thuộc vào “tính trọng
yếu”. Thông tin là “quan trọng” nếu việc bỏ lỡ thông tin này có thể thay đổi hoặc ảnh
hưởng đến việc đánh giá hoặc ra quyết định của người sử dụng dựa trên thông tin đó.
Các công bố thông tin bổ sung có thê chuyển tải thông tin đáng kể cho các hành động kỷ
luật của thị trường đối với một định chế cụ thể nào đó.
2.1 Trụ cột 3, một bước tiến quan trọng đối với báo cáo thị trường
Trong những năm gần đây, các nhà hoạch định chính sách như Hội đồng Chuẩn
mực kế toán quốc tế (IASB) và Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel) có thực hiện
các bước tiến quan trọng để cải thiện thị trường báo cáo theo IFRS 7 và trụ cột 3 của
Khung điều chỉnh quốc tế về các tiêu chuẩn và đo lường vốn (Basel II) tương ứng. Đặc
biệt, trụ cột 3 với mục tiêu là để nâng cao kỷ luật thị trường thông qua công bố công khai
một cách hiệu quả để bổ sung cho yêu cầu của trụ cột 1 và trụ cột 2. Cuối cùng, trụ cột 3
11
đã đưa ra rất nhiều những yêu cầu công bố mới, thể hiện sự tăng lên về số lượng thông
tin công bố công khai của các ngân hàng xung quanh cơ cấu vốn, an toàn vốn, quản trị
và đo lường rủi ro. IFRS 7 có hiệu lực bắt đầu vào hoặc sau ngày 01 tháng 1 năm 2007.
Các ngân hàng áp dụng Basel II vào năm 2007 phải công bố dữ liệu như trong trụ cột 3
quy định. Đối với những ngân hàng khác, chẳng hạn như ngân hàng châu Âu áp dụng
Basel II vào tháng Giêng năm 2008, trụ cột 3 phải được thực hiện lần đầu tiên ngay trong
năm tài chính kết thúc năm 2008. Đối với những ngân hàng chưa bắt đầu áp dụng trụ cột
3 có thể học tập được từ những kinh nghiệm quý giá từ những ngân hàng đã áp dụng
trước. Tóm lại, trụ cột 3 công khai bao gồm các quan điểm định tính và định lượng trên
các khía cạnh sau đây:
Phạm vi áp dụng của khung an toàn vốn;
Cơ cấu vốn và an toàn vốn;
Rủi ro tín dụng (yêu cầu được mở rộng cho các ngân hàng áp dụng nhiều phương pháp
tiếp cận nâng cao: lãi suất cơ bản nội bộ, hoặc IRB);
Chứng khoán hóa;
Rủi ro thị trường;
Vốn chủ sở hữu;
Rủi ro lãi suất trong ngân hàng;
Rủi ro hoạt động (yêu cầu là lựa chọn hợp lý hơn cho các ngân hàng áp dụng các phương
pháp tiếp cận đo lường nâng cao, hoặc AMA)
Ngoài ra, các ngân hàng phải giải thích theo phương pháp tiếp cận của họ về an
toàn vốn nội bộ theo tiến trình đánh giá (ICAAP) dưới trụ cột 2. Tuy nhiên, không giống
như IFRS 7, Basel II không yêu cầu công bố cụ thể về rủi ro thanh khoản. Điều quan
trọng cần lưu ý rằng những công bố liên quan đến cơ cấu vốn và an toàn vốn, cũng như
những yếu tố liên quan đến ICAAP, không những phải được công bố hợp nhất mà còn
phải công bố riêng biệt cho từng công ty con. Điều này tạo thêm gánh nặng cho các tổ
chức hoạt động quốc tế có hoạt động tại một số quốc gia.
Về bản chất, trụ cột 3 công bố rất nhiều các thông tin đã thu thập được thông qua
sự chuẩn bị cho trụ cột 1, bởi vì nhiều dữ liệu công bố theo yêu cầu của Trụ cột 3 cũng
được sử dụng trong các báo cáo về yêu cầu vốn tối thiểu theo Trụ cột 1. Tuy nhiên, các
ngân hàng không nên đánh giá thấp việc nỗ lực thực hiện quá trình công bố thông tin
theo trụ cột 3, và có lẽ quan trọng hơn, họ không nên bỏ qua ý nghĩa của chiến lược
truyền thông liên quan đến việc công bố thông tin này.
12
2.2 Sớm thiết lập một cơ cấu quản lý chặt chẽ là rất quan trọng
Thách thức đầu tiên mà ngân hàng phải đối mặt khi chuẩn bị cho công bố thông tin
theo trụ cột 3 là thiết lập một cơ cấu quản trị xung quanh quá trình công bố. Do đa dạng
của các đơn vị tổ chức tham gia, một trong những rủi ro chính liên quan đến việc thực
hiện công bố thông tin là thiếu quyền sở hữu toàn bộ quá trình, và /hoặc sự tham gia
muộn các bên liên quan. Thông thường, thực hiện thành công trụ cột 3 ban đầu đòi hỏi
sự tài trợ của các giám đốc tài chính và những người liên quan, để đảm bảo rằng tất cả
các yếu tố đầu vào được xem xét và chịu trách nhiệm, được xác định bao gồm:
Hội đồng quản trị (phải phê duyệt chính sách công bố chính thức);
Tài chính và kế toán (thường chịu trách nhiệm chính về tài chính và báo cáo quản lý);
Quản lý rủi ro (phần lớn các dữ liệu cần được công bố theo Trụ cột 3);
CNTT (chịu trách nhiệm cho việc thiết kế và bảo trì bộ sưu tập dữ liệu);
Kiểm toán nội bộ/ kiểm toán độc lập (phụ thuộc vào việc có được công bố trong các báo
cáo tài chính hay có nhất quán với các dữ liệu trong các báo cáo tài chính hay không);
Thông tin liên lạc bên ngoài / nhà đầu tư quan hệ (xác định tổng thể chiến lược truyền
thông xung quanh rủi ro quản lý và đảm bảo tính nhất quán của các thông điệp giữa tất
cả các khía cạnh của báo cáo thị trường).
2.3 Trụ cột 3 thể hiện số lượng lớn dữ liệu và tiến trình thách thức
Một khi cơ cấu quản trị được thành lập, thử thách tiếp theo xoay quanh mức độ có
sẵn và chất lượng của dữ liệu. Trong khi khoảng 80% số liệu và các thuyết minh thông
tin định lượng của Trụ cột 3 có sẵn từ dữ liệu tích lũy cho Trụ cột 1, các ngân hàng
không phải lúc nào cũng đáp ứng được yêu cầu của trụ cột 3 khi đáp ứng trụ cột 1. Theo
đó, dữ liệu không phải lúc nào cũng được tổ chức theo cùng một cách để có thể dễ dàng
lấy ra và công bố công khai. Ngoài ra, những công bố chắc chắn đến từ ghi chép kế toán,
chẳng hạn như tiếp cận dư nợ tín dụng cuối kỳ và dư nợ trung bình, những thay đổi trong
dự phòng rủi ro cho vay, hoặc số tiền cho vay suy giảm. Một rắc rối tiềm tàng phát sinh
khi mà các thông tin kế toán hợp nhất công bố không trùng khớp với các thông tin được
yêu cầu công bố trong trụ cột 3, ví dụ như do sự loại trừ hoạt động bảo hiểm hoạt động
trong Basel II. Do đó, phương pháp cách tiếp cận nguồn dữ liệu cho Trụ cột 3 là chìa
khóa để đảm bảo rằng sự chênh lệch dữ liệu sớm được xác định và giải quyết.
Ngoài việc dữ liệu có sẵn hay không, chất lượng dữ liệu cũng là một vấn đề lớn mà
các ngân hàng phải xử lý. Trong lịch sử, các dữ liệu rủi ro được sử dụng trong quá trình
13
quản trị rủi và chỉ lưu hành nội bộ, và không được kiểm định "chất lượng” - sau đó, 90%
hoặc 95% có thể được dùng cho đo lường rủi ro và thông tin quản trị mục tiêu. Chú ý
rằng chất lượng của dữ liệu công bố trong IFRS 7 đã được cải thiện đã đáng kể. Kể đến
những kinh nghiệm này, chúng tôi hy vọng rằng chất lượng dữ liệu trong quản trị rủi ro
khác của hầu hết các ngân hàng được cải thiện.
Trụ cột 3 yêu cầu phải có kiểm soát nội bộ một cách thích hợp trong việc công bố
thông tin đúng chỗ. Ngoài ra, các ngân hàng phải có quá trình xác nhận độc lập. Đây là
một yêu cầu pháp định; do đó nguồn nhân viên độc lập, tay nghề cao cần phải có mặt để
thực hiện vai trò này. Những nhân viên có kinh nghiệm trong kiểm toán nội bộ có thể
thực hiện nhiệm vụ này.
Đối với các ngân hàng chịu sự quản lý của Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch
(SEC), luật Sarbanes-Oxley cũng sẽ áp dụng yêu cầu công bố thông tin như trong trụ cột
3 nếu chúng được tiến hành trong các báo cáo tài chính hoặc do SEC đệ trình. Số ít ngân
hàng trên thế giới vẫn chưa được quản lý đầy đủ sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Sarbanes-
Oxley và Basel II. Người ta mong chờ có rất nhiều điều chỉnh theo yêu cầu Basel II (ví
dụ mô hình quá trình xác nhận dưới trụ cột 1, quản trị và giám sát quá trình theo Trụ cột
2) sẽ là một bước tiến dài để thực hiện những yêu cầu của Đạo luật Sarbanes-Oxley. Tuy
nhiên, kiểm soát cần thiết cho Đạo luật Sarbanes-Oxley xung quanh bảng tính và ứng
dụng CNTT có thể không được xem xét đầy đủ cho các mục đích của Basel II.
2.4 Các ngân hàng cần thiết lập chiến lược truyền thông và công bố thông tin
mạch lạc xoay quanh việc quản trị rủi ro.
Đây có lẽ là vấn đề chiến lược nhất các ngân hàng sẽ cần phải xem xét, như trụ cột
3 sẽ làm tăng đáng kể khối lượng thông tin công bố công khai xoay quanh những rủi ro,
đặc biệt là rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động cũng như đề cập ở trụ cột 2. Điều này trùng
hợp với những quy định công bố theo yêu cầu của IFRS 7, tiêu chuẩn IFRS quy định
công bố thông tin về các công cụ tài chính. Đặc biệt, liên quan đến tín dụng và rủi ro thị
trường, phần lớn thông tin định tính có thể và nên được liên kết. Tương tự như vậy, có
một số lượng đáng kể số liệu công bố chồng chéo nhau, chẳng hạn như các phân tích rủi
ro tín dụng và đo lường giá trị tại mức rủi ro. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa hai IFRS 7
14
và trụ cột 3. Ví dụ, trụ cột 3 không bao gồm rủi ro thanh khoản và IFRS 7 không đề cập
tới rủi ro hoạt động.
Để thuyết minh cho hình ảnh một thị trường tài chính một cách mạch lạc và đáng
tin cậy, cần phải có sự nhất quán giữa rủi ro theo IFRS và thể hiện vấn đề quản trị vốn
tương ứng ở trụ cột 3. Vượt ra ngoài IFRS 7, các ngân hàng sẽ cần phải xem xét sự phù
hợp của Trụ cột 3 và công bố những thông tin quản lý rủi ro khác. Đây là chìa khóa
trong việc đáp ứng nhu cầu của các cơ quan quản lý, các nhà phân tích và nhà đầu tư,
cho phù hợp hơn và thông tin sâu sắc về rủi ro và quản lý vốn, và kết quả của nó. Trong
khi một cách tiếp cận minh bạch hơn để công bố có thể sẽ đưa ngân hàng đến sự giám
sát, chắc chắn là vì lợi ích của những người mà có thể chứng minh rõ ràng thế mạnh của
mình trong lĩnh vực đó.
Kinh nghiệm cho thấy nhóm rủi ro quản trị và kế toán không phải lúc nào cũng kết
hợp với nhau hiệu quả. Trong bối cảnh thực hiện trụ cột 3 và IFRS 7, nếu không làm
được như vậy sẽ có khả năng làm tăng chi phí của việc tuân thủ với các yêu cầu này, và
tệ hơn nữa các thông tin đưa ra có thể không phù hợp. Dù bắt đầu từ nguồn nào đi nữa
thì những thông tin công bố cũng phải nhất quán và phản ánh quan điểm của người quản
lý. Do đó các thông tin đồng bộ gửi từ CEO tới các cổ đông, bằng tất cả các cách phải
được các kế toán ghi chép, cần thiết phải tuân thủ Trụ cột 3. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực
phối hợp giữa tất cả các bên liên quan, trong đó tiếp tục nhấn mạnh cần thiết sự mạnh
mẽ trong cơ cấu quản trị như nêu trên.
Một vấn đề nữa mà cần phải được xem xét bởi bộ phận nhà đầu tư là mức độ tinh
tế, chi tiết mà ngân hàng đã có thể đạt được dưới Basel II sẽ ngay lập tức được nhìn
nhận. Dưới Basel I, tất cả các ngân hàng là đối tượng của cùng một bộ quy tắc, và những
con số chỉ quan tâm đến là tỷ lệ an toàn vốn của mình. Basel II cho phép một loạt các
phương pháp tiếp cận khác nhau được thông qua, với sự gia tăng mức độ chi tiết. Dưới
Trụ cột 3, một ngân hàng áp dụng phương pháp tiếp cận nào phải được minh bạch. Các
nhà đầu tư và các nhà phân tích phản ứng thế nào nếu, nói, Ngân hàng A chỉ áp dụng
phương pháp tiếp cận cơ bản, trong khi các ngân hàng khác đã áp dụng phương pháp
tinh vi hơn? Có nói lên được điều gì về mức độ tinh vi, chi tiết và / hoặc chất lượng dữ
liệu trong ngân hàng A so với các ngân hàng khác?
15
Ngoài ra, Trụ cột 3 tăng đáng kể mức độ chi tiết các thông tin được tiết lộ và có thể
được sử dụng bởi các nhà đầu tư, các nhà phân tích và viện nghiên cứu đánh giá để so
sánh và phân tích rủi ro của từng ngân hàng. Ví dụ, trụ cột 3 sẽ tạo cơ hội cho các nhà
phân tích và những người khác các chuẩn dữ liệu quan trọng (ví dụ xác suất vỡ nợ (PD))
đối từng ngân hàng đối và các ngân hàng khác trong cùng nhóm của nó. Điều này chắc
chắn sẽ đặt ra một số câu hỏi về chất lượng tài sản, trích lập dự phòng, sức mạnh của
hoạt động quản trị rủi ro và / hoặc độ tin cậy của dữ liệu được công bố.
Khối lượng công việc liên quan đến việc giải thích những con số phức tạp từ Basel
II cũng không nên đánh giá thấp, đặc biệt là trong những năm đầu, khi mà các ngân hàng
còn đang áp dụng hỗn hợp các phương pháp tiếp cận trong giai đoạn chuyển tiếp. Các
nhà đầu tư và các nhà phân tích có thể đưa ra kết luận dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về các
con số. Ví dụ, đối với các ngân hàng áp dụng phương pháp tiếp cận IRB, tính chu kỳ
trong các tài sản rủi ro được nhấn mạnh trong tính toán - trong thời kỳ suy thoái kinh tế,
tính chu kỳ được khách hàng kỳ vọng giảm xuống và / hoặc khả năng vỡ nợ tăng. Điều
này cho kết quả là sự gia tăng khối lượng tài sản rủi ro trong bảng cân đối và gây áp lực
lên tỷ lệ an toàn vốn. Rất khó để tăng vốn trong hoàn cảnh kinh tế như vậy.
Hơn nữa, tỷ lệ vốn cấp 1 và tỷ lệ an toàn vốn mục tiêu, mà theo các quy định hiện
hành được đưa ra so sánh giữa các ngân hàng, bây giờ còn phụ thuộc vào phương pháp
tiếp cận Basel II đã được lựa chọn. Ví dụ, làm thế nào để bạn so sánh tỷ lệ vốn cấp 1
mục tiêu là 7% cho một ngân hàng áp dụng phương pháp tiếp cận đúng so với một ngân
hàng IRB?
Một vấn đề tương tự như phát sinh đó là các quy định quốc gia lệch với các quy tắc
cơ bản, đặc biệt là tại các quốc gia bảo thủ. Ví dụ, trường hợp của Úc, cơ quan quản lý
đã áp đặt mức tối thiểu là 20% tổn thất nhất định (LGD) bảo đảm bất động sản (trên 10%
so với khuôn khổ Basel) và đòi hỏi phải có vốn bù đắp rủi ro lãi suất của ngân hàng là
một phần yêu cầu về vốn tối thiểu trong trụ cột 1. Kết quả là ngân hàng Úc sẽ có tỷ lệ an
toàn vốn thấp hơn so với các ngân hàng quốc tế khác, điều này có thể bị hiểu sai.
2.5 Các bước trong quá trình triển khai thực hiện trụ cột 3
16
Không nên đánh giá thấp các nỗ lực liên quan đến việc triển khai thực hiện công bố
thông tin theo Trụ cột 3. Dựa trên sự am hiểu sâu sắc các bước, ngân hàng có thể tiếp
cận dự án này như sau:
Thiết lập cấu trúc dự án riêng biệt bởi nhà quản lý (ví dụ như giám đốc tài chính);
Thiết lập chính sách quyết định theo trụ cột 3, chẳng hạn như việc công bố thông tin ở
đâu, tần suất, phạm vi công bố, ý nghĩa của các thông tin,… Tách bạch các thông tin
công bố trên các báo cáo thường niên đã kiểm toán với các thông tin trên các phương
tiện truyền thông khác, chẳng hạn như các trang web, có thể là một thách thức lớn;
Xác định những mức độ khác so với những yêu cầu mà Trụ cột 3 công bố để thực hiện;
Thực hiện phân tích của những thông tin cần thiết để bổ sung thông tin cho trụ cột 1;
Thực hiện một phân tích những thông tin nội bộ và bên ngoài, góp phần giám sát theo
yêu cầu Basel II;
Thực hiện phân tích sự chồng chéo thông tin công bố giữa Trụ cột 3 với rủi ro được công
khai tiết lộ và thông tin về quản trị vốn theo các chuẩn mực khác (ví dụ IFRS 7);
Thiết kế các mẫu thông tin công bố đáp ứng các yêu cầu của Trụ cột 3 và các yêu cầu
công bố thông tin khác;
Nguồn thông tin bao gồm các dữ liệu có sẵn trên các hệ thống và xác định các những
khoảng trống dữ liệu;
Xác định kiến trúc CNTT cho dữ liệu thu thập, tổng hợp và báo cáo;
Thiết lập một quá trình xác nhận xung quanh việc công bố thông tin theo Trụ cột 3;
Giai đoạn đầu cần xác định chiến lược thông tin và quan hệ nhà đầu tư ;
Công bố thông tin.
3. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT THỊ
TRƯỜNG VÀ MINH BẠCH THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
TẠI VIỆT NAM
3.1 Bối cảnh kinh tế
Từ năm 2008 đến nay, trong bối cảnh thị trường thế giới khó khăn, giá lương thực,
thực phẩm và nguyên vật liệu cơ bản biến động phức tạp… tình hình kinh tế vĩ mô của
Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp. Sau những khó khăn về kinh tế năm 2008,
2009, bước sang năm 2010, nền kinh tế có dấu hiệu ổn định hơn, nhưng từ đầu năm 2011
đến nay, một số vấn đề kinh tế vĩ mô lại nổi lên: tỷ lệ lạm phát gia tăng rồi lại chuyển
sang bắt đầu có dấu hiệu giảm so với mục tiêu điều hành (CPI tháng 6/2012 giảm 0,26%
so với tháng trước; tháng 7, tiếp tục giảm 0,29% so với tháng trước. Chỉ số CPI tháng 7
tăng 2,22% so với tháng 12/2011 và tăng 5,35% so với cùng kỳ năm 2011), thị trường
17
trong nước thu hẹp, sức mua giảm mạnh, hàng tồn kho lớn, lãi suất ngân hàng dù giảm
dần nhưng vẫn còn ở mức cao; số doanh nghiệp bị giải thể, đình đốn sản xuất tăng cao
(đặc biệt là khối doanh nghiệp liên quan đến xây dựng, bất động sản), nhiều lao động
mất việc làm, thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài, thị trường chứng khoán ảm
đạm Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị thế giới vẫn chứa đựng những bất ổn,
ảnh hưởng đến nền kinh tế nội địa.
Kinh tế khó khăn, tổng cầu giảm mạnh, doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng
hóa, do đó nhu cầu vay và khả năng trả nợ vay ngân hàng của các doanh nghiệp và hộ
sản xuất giảm sút. Vốn tín dụng cung ứng nền kinh tế không tăng được (tính đến 25/7,
tín dụng tăng 0,57% so với cuối năm 2011). Trong khó khăn của nền kinh tế, những tồn
tại, hạn chế nội tại của hệ thống ngân hàng Việt Nam được tích tụ trong nhiều năm qua
chưa được giải quyết triệt để, ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, rủi ro:
Số lượng ngân hàng quá nhiều, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Một số
NHTM cổ phần nông thôn quy mô nhỏ chuyển đổi thành NHTM cổ phần đô thị đã
không nâng được năng lực quản trị điều hành, quy mô vốn để đáp ứng yêu cầu cạnh
tranh dẫn đến phá rào, không chấp hành các nguyên tắc kỷ luật thị trường.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, đặc biệt trong huy động vốn và hoạt
động tín dụng. Những tháng đầu năm 2011, tình hình đua lãi suất huy động đã khiến
thanh khoản toàn hệ thống có nguy cơ rủi ro lớn. Việc đua tranh tín dụng đã khiến các
tiêu chuẩn quản trị rủi ro ở một số ngân hàng bị hạ thấp.
Doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, thua lỗ (nhất là DNNN), sự trầm lắng kéo dài của
thị trường bất động sản khiến nợ xấu ngân hàng gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cho
vay của ngân hàng liên tục tăng từ 3,07% cuối năm 2011 lên 8,6% đến 31/3/2012 (số
liệu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố). Xuất hiện các rủi ro từ hoạt động kinh
doanh ngoài hoạt động ngân hàng truyền thống (các công ty tài chính/cho thuê tài chính,
hoạt động ủy thác…);
Tình trạng sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng (TCTD);
Vốn và các quỹ của các NHTM Việt Nam ở mức thấp ngay cả so với khu vực (NHTM
cổ phần Ngoại thương Việt Nam - NHTM được thành lập sớm nhất tại Việt Nam tổng tài
sản đến tháng 6/2012 mới đạt 18,6 tỷ USD);
Kỷ luật thị trường tiền tệ không được chấp hành nghiêm túc;
Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ gặp khó khăn về thanh khoản do yếu kém về khả
năng quản trị rủi ro;
18
Luân chuyển vốn ngay trong hệ thống có những thời điểm tắc nghẽn do thiếu niềm tin
trên thị trường liên ngân hàng; tính liên kết hệ thống yếu;
Hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN còn hạn chế
Trước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, trước yêu
cầu của giai đoạn phát triển mới, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng
(Khóa XI) đã ra Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011 nêu rõ “Trong 5 năm tới, cần
tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư
công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính; tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm là các tập đoàn kinh
tế và tổng công ty nhà nước”. Ðầu năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012 với trọng tâm chỉ đạo điều
hành là thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; thực
hiện tái cơ cấu nền kinh tế, bắt đầu từ tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ
cấu hệ thống tài chính - ngân hàng.
Thực hiện chủ trương của Ðảng, Chính phủ ngay trong 6 tháng đầu năm 2012,
ngành Ngân hàng đã tập trung triển khai quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Sau
khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Ðề án Cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn
2011-2015, ngày 18/4/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định 734/QÐ-
NHNN ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Ðề án Cơ cấu lại hệ thống
các TCTD giai đoạn 2011-2015. Phương án khung về xử lý các NHTM cổ phần yếu kém
cũng đã được hoạch định chi tiết. Trong một thời gian ngắn, với những biện pháp triển
khai quyết liệt, khẩn trương nhưng thận trọng, chắc chắn, phù hợp với thực tiễn. Ðến
nay, 3 NHTM cổ phần Sài Gòn, Ðệ nhất, Tín Nghĩa đã được hợp nhất và tiếp tục được
cơ cấu lại dưới sự giám sát chặt chẽ của NHNN. Một số NHTM cổ phần yếu kém còn
lại đã hoàn tất quá trình thanh tra, kiểm toán toàn diện và xây dựng phương án cơ cấu lại
để trình NHNN thông qua. NHNN đã phê duyệt và trình Thủ tướng Chính phủ cho phép
triển khai phương án cơ cấu lại hai (02) ngân hàng. Ngày 07/8/2012, Thống đốc NHNN
đã ban hành Quyết định số 1559/QÐ-NHNN chấp thuận việc sáp nhập Ngân hàng
thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HBB) vào Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn -
Hà Nội (SHB) theo đề nghị chấp thuận sáp nhập của Chủ tịch Hội đồng quản trị SHB và
19
đề nghị thu hồi Giấy phép hoạt động của Chủ tịch Hội đồng quản trị HBB. NHNN cũng
đang khẩn trương xem xét phương án cơ cấu số ngân hàng yếu kém còn lại để trình Thủ
tướng Chính phủ. Ngoài ra, NHNN đã trình Thanh tra Chính phủ Ðề án tái cơ cấu,
phương án/biện pháp xử lý một số tổ chức tín dụng khác. Bên cạnh đó, theo chỉ đạo của
NHNN, các NHTM cũng đang tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu lại tài chính, tái cơ cấu hoạt
động, cơ cấu lại hệ thống quản trị hướng theo các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các quy
định của Basel II.
Tuy trong quá trình cơ cấu lại ngân hàng yếu kém đã gặp phải một số khó khăn,
vướng mắc nhất định làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai (bắt buộc phải có thời gian để
thanh tra, kiểm toán để đánh giá thực trạng tài chính của từng ngân hàng; cơ sở pháp lý
về cơ cấu ngân hàng chưa thật toàn diện để xử lý tính đa dạng, phức tạp của quá trình cơ
cấu lại các ngân hàng yếu kém ), nhưng về cơ bản, lộ trình triển khai Ðề án Cơ cấu lại
hệ thống các TCTD đã được thực hiện theo đúng tinh thần mà Thống đốc NHNN đã đặt
ra là trong năm 2011-2012, sẽ tập trung đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất
lượng tài sản và nợ xấu của các TCTD; đánh giá và phân loại TCTD; xây dựng và triển
khai phương án cơ cấu lại các TCTD, trong đó ưu tiên xử lý các TCTD yếu kém; tập
trung hỗ trợ thanh khoản để bảo đảm khả năng chi trả của các TCTD; triển khai sáp
nhập, hợp nhất, mua lại TCTD…
Theo đánh giá của NHNN thì sau 6 tháng triển khai tái cơ cấu các NHTM, rủi ro hệ
thống từng bước được kiểm soát, nguy cơ đổ vỡ hệ thống được đẩy lùi. Khả năng chi trả
của hệ thống các TCTD (kể cả các NHTM yếu kém) cơ bản được đảm bảo và cải thiện.
Tình hình chi trả tiền gửi của dân cư tại các ngân hàng yếu kém diễn ra bình thường,
không xảy ra hiện tượng rút tiền hàng loạt với quy mô lớn, lượng vốn huy động của các
ngân hàng cũng không giảm. Dư nợ trong tháng 6/2012 đã bắt đầu có dấu hiệu tăng
trưởng trở lại. Hoạt động của hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục góp phần giữ ổn định an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Diễn biến tích cực này cho thấy tâm lý thị trường
và lòng tin của công chúng đối với các chủ trương, biện pháp cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng.
Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải nâng cao sức mạnh tổng hợp và khả năng cạnh
tranhcủa nền kinh tế nói chung, hệ thống ngân hàng nói riêng. Từ giờ đến năm 2015,
NHNN đã có kế hoạch rất cụ thể về các nhóm nhiệm vụ cơ cấu lại đối với mỗi loại hình
20
TCTD, trong đó có các NHTM nhà nước. Trong ngắn và trung hạn, mục tiêu tái cơ cấu
lại hệ thống các TCTD là duy trì sự ổn định của hệ thống, đảm bảo khả năng thanh
khoản và sự hoạt động liên tục của các ngân hàng. Giải quyết vấn đề (nếu có) của từng
ngân hàng, ngăn chặn sự lây lan (gây hiệu ứng rút tiền hàng loạt trong toàn hệ thống).
Khôi phục niềm tin vào hệ thống ngân hàng. Trong dài hạn, việc tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng hướng đến các thay đổi căn bản trong từng ngân hàng và cả hệ thống để có
khuôn khổ quản trị mới, cải thiện hiệu quả hoạt động, tăng tính cạnh tranh và khả năng
chống đỡ rủi ro, tăng cường cơ sở hạ tầng hệ thống và cải thiện khả năng tiếp cận các
dịch vụ tài chính của các tổ chức kinh tế và công chúng. Các mục tiêu này có đạt được
hay không rất cần có các quyết định quan trọng của Quốc hội, Chính phủ trong việc xử
lý nợ xấu. Sự phối hợp của các Bộ, ngành trong việc thực hiện đồng bộ các giải pháp
kiểm soát lạm phát, tổ chức và quản lý tốt thị trường trong nước, đầu tư công Ðẩy
nhanh tiến độ cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp phải được đảm bảo đồng bộ với tiến trình
cơ cấu hệ thống ngân hàng. Và bên cạnh đó, sự ủng hộ và lòng tin của công chúng, các
thành viên tham gia thị trường đối với việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cũng là nhân
tố rất quan trọng.
3.2 Thực trạng các ngân hàng Việt Nam
3.2.1 Hệ thống ngân hàng méo mó và thiếu minh bạch
Tâm điểm rủi ro vĩ mô của Việt Nam hiện nay được cho là nằm trong khu vực ngân
hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng đang tồn tại những méo mó và kém minh bạch
bởi chính sách áp đặt hành chính.
Bất chấp quy định về trần lãi suất 14%, lãi suất cho vay của nhiều ngân hàng đã lên
đến mức 20% bằng nhiều cách khác nhau. Trong khi đó lãi suất cho vay có nơi dao động
từ 27 – 30%. Người gửi tiền có thể thoải mái mặc cả lãi suất tại các ngân hàng. Xảy ra
tình trạng này là do các quy định mang tính áp đặt hành chính mà không tuân theo biến
động của thị trường. Tình trạng lạm phát và cả tâm lý lo sợ lạm phát đã khiến người dân
chuyển tiết kiệm từ tiền đồng sang các tài sản như vàng, ngoại tệ hay bất động sản. Các
ngân hàng khan hiếm tiền đồng buộc phải đẩy lãi suất lên cao để thu hút vốn.
Tại cuộc họp báo công bố Báo cáo Kinh tế thường niên năm 2011 ngày 17/5, ông
Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát tài chính Quốc gia cũng cho rằng chưa
21
bao giờ hệ thống ngân hàng lại kém minh bạch và méo mó như hiện nay. Các chỉ số
không còn độ chính xác cao và đáng tin cậy (chẳng hạn mức lãi suất, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ
tín dụng và tăng trưởng tín dụng).
Một trong những ví dụ được đưa ra để minh họa tính méo mó của hệ thống ngân
hàng là khi các ngân hàng lớn cho các ngân hàng nhỏ vay trên thị trường liên ngân hàng
với lãi suất trên 20% trong khi cấm các ngân hàng nhỏ vay với lãi suất trên 14%. Cùng
với đó là việc các ngân hàng thậm chí phải thực hiện những “biến báo” trong hệ thống số
sách kế toán để hợp thức hoá mức lãi suất huy động vượt trần quy định.
Quy định siết tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất xuống dưới mức 20% cũng
khiến nhiều ngân hàng lao đao, đặc biệt là những ngân hàng có tỷ trọng cho vay phi sản
xuất cao tới gần 50% như SeaBank, Phương Tây, TrustBank… Một trong những biện
pháp để “lách” quy định này là tăng quy mô tín dụng bằng huy động lãi suất cao. Như
quy định trần lãi suất, việc áp quy định hành chính hạ tỷ lệ dư nợ phi sản xuất trái với
nguyên tắc thị trường thì sẽ có phản ứng “lách” từ các ngân hàng thương mại.
Sự kém minh bạch này cùng những biện pháp áp đặt hành chính không mang tính
thị trường như vậy cũng là nguyên nhân làm giảm lòng tin vào tính hiệu quả của chính
sách. Đặc biệt tại Việt Nam, tâm lý của người dân vốn rất nhạy cảm với nỗi lo lạm phát
bởi những câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ.
Lãi suất thực của Việt Nam đã luôn âm trong vài năm gần đây. Điều này hàm ý lãi
suất đã đánh mất vai trò dẫn dắt nền kinh tế phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả.
Thông thường lãi suất là công cụ để kìm chế lạm phát nhưng với những biện pháp áp đặt
như hiện nay, lãi suất chỉ đang chạy theo để đuổi kịp lạm phát.
Để khắc phục tình trạng này, mức trần lãi suất 14% nên được dỡ bỏ để các ngân
hàng tự xác định lãi suất theo cung, cầu của thị trường. Ngân hàng Nhà nước không nên
quá lo ngại về lãi suất huy động từ dân cư, mà thay vào đó thị trường liên ngân hàng mới
là trọng tâm của Ngân hàng Nhà nước cần quan tâm. Nếu thị trường liên ngân hàng ổn
định, thì thị trường tài chính bên ngoài sẽ ổn định. Lãi suất các ngân hàng cho nhau vay
hiện đã vênh quá xa so với lãi suất cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường mở.
Các ngân hàng lớn có lợi thế về vốn đang trở thành nhà cho vay nặng lãi với các ngân
hàng nhỏ, gián tiếp đẩy cuộc đua lãi suất lên cao.
22
Trong khi đó, kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2001 – 2006, lãi
suất thực của nền kinh tế hầu như duy trì ở mức dương. Đây là giai đoạn mà nền kinh tế
Việt Nam về cơ bản đã vận hành theo các qui tắc của thị trường, các can thiệp của Nhà
nước không mạnh và thay đổi đột ngột như từ năm 2007 trở lại đây.
Các chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) khuyến
nghị rằng Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới cần có chính sách để đưa lãi suất thực
trở về mức dương. Để nâng cao lãi suất thực, cách tốt nhất là duy trì chính sách tiền tệ
thắt chặt trong một thời gian đủ dài.
Trong bối cảnh lạm phát tiếp tục tăng như hiện nay thì nên chấp nhận để lãi suất
danh nghĩa (lãi suất niêm yết tại ngân hàng) duy trì ở mức cao hơn cho đến khi lạm phát
giảm xuống mức thấp. Ngân hàng Nhà nước cũng nên cân nhắc chuyển sang điều hành
chính sách lãi suất một cách độc lập, tuân theo những quy tắc đơn giản nhất định.
3.2.2 Minh bạch thông tin trong xử lý nợ xấu
Hiện có nhiều con số đưa ra về nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại
(NHTM) Việt Nam. Theo quy định hiện hành về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (TCTD), nợ xấu là
các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Trong đó, nợ nhóm 3 (nợ dưới chuẩn) là các
khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; nợ nhóm 4 (nợ
nghi ngờ) là các khoản nợ có khả năng tổn thất rất cao và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng
mất vốn) là các khoản nợ được coi là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Thông thường ở các nước đang phát triển, nếu nợ xấu của các TCTD được phân
loại theo các chỉ tiêu định lượng và định tính phù hợp với thông lệ quốc tế, thì tỷ lệ này
dưới 5% cũng là bình thường. Nhưng ở Việt Nam, do khác nhau về năng lực quản trị rủi
ro của các TCTD, việc sử dụng các chỉ tiêu định tính trong phân loại nợ (chấm điểm, xếp
hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ ) vừa thiếu chuẩn xác, vừa chưa minh bạch.
Vì thế nợ xấu của các TCTD báo cáo thường thấp hơn nhiều số liệu thực tế. Mặt khác,
nợ xấu của các ngân hàng còn thể hiện dưới dạng "chuyển vốn cho vay thành vốn góp".
Khoản nợ này không chỉ "rất xấu", mà còn nguy hiểm ở chỗ: đôi khi chỉ tồn tại trên sổ
sách của con nợ và chủ nợ.
23
Với những bất cập trong phân loại cũng như chưa minh bạch trong việc hạch toán
và công bố thì nợ xấu của các TCTD Việt Nam cho dù là con số nào cũng rất đáng lo
ngại. Nợ xấu tại các TCTD ngày càng lớn và có chiều hướng gia tăng đã tác động tiêu
cực đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong việc lưu thông dòng vốn vào nền
kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các TCTD. Chừng nào chưa xử lý
được vấn đề này thì việc tái cơ cấu hệ thống NHNN sẽ không đạt hiệu quả.
Trong kinh doanh ngân hàng, để xảy ra nợ xấu, trước hết là trách nhiệm chính chủ
nợ - NHTM và "con nợ" - doanh nghiệp (DN) vay vốn. Nhưng, khi nợ xấu đã đến
ngưỡng báo động, nếu cứ để các NHTM và DN tự xử lý thì thời gian sẽ kéo dài. Theo
đó, số lượng DN không có vốn sản xuất kinh doanh phải dừng hoạt động, thậm chí phá
sản sẽ tiếp tục gia tăng, do vẫn đang có nợ xấu tại NH, trong khi hàng hóa vẫn chậm tiêu
thụ. Như vậy, nền kinh tế sẽ mất đi một lượng vốn lớn, do vốn không được quay, dòng
tiền trong nền kinh tế không lưu thông được, hệ thống ngân hàng tiếp tục bất ổn. Ðiều
này sẽ đe dọa đến sự phát triển bền vững của cả hệ thống tài chính.
Xử lý nợ xấu có rất nhiều biện pháp. Nhưng biện pháp từ nội tại các NHTM phải
được coi là cơ bản, thông qua việc quản trị rủi ro, trích lập, xử lý dự phòng rủi ro để xử
lý nợ xấu theo quy định, đi đôi với minh bạch thông tin trong hoạt động của ngân hàng.
3.2.3 Sở hữu chéo và vấn đề minh bạch của hệ thống NHTM Việt Nam
Những bê bối của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian gần đây được công
luận rất chú ý, đặc biệt sau vụ một số chủ ngân hàng lớn bất ngờ bị bắt hồi cuối tháng
8/2012. Tính chất không minh bạch trong các hoạt động của ngân hàng được giới chuyên
môn đánh giá là một thủ phạm chính của tình trạng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro trong hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Bên cạnh đó là vấn đề “sở hữu chéo”, chủ đề đang được giới
chuyên môn và các cơ quan hữu trách Việt Nam chú ý.
Sở hữu chéo là việc một ngân hàng A có cổ phần trong ngân hàng B, rồi ngân hàng
B lại có cổ phần trong ngân hàng A. Hay ngân hàng A lại có cổ phần trong doanh nghiệp
C nào đấy, và doanh nghiệp C lại có cổ phần trong ngân hàng A. Quan hệ chủ đan chéo
lẫn nhau thì gọi là sở hữu chéo. Sở hữu chéo là một thực tế phổ biến trong lĩnh vực ngân
hàng trên thế giới, nhưngđiểm đặc biệt ở Việt Nam là thông tin có được minh bạch hay
24
không, và người ta có lợi dụng việc sở hữu chéo đấy để làm những việc gì khuất tất hoặc
trái quy định hay không.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian vừa qua được đánh giá là có nhiều
khuyết tật và có những hệ lụy nghiêm trọng. Trong đó có phần thông tin không minh
bạch của chế độ sở hữu và những nhược điểm của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, luật pháp Việt Nam có một quy định rất rõ ràng : Để cho một
cổ đông lớn của ngân hàng, tức là một ông chủ lớn của ngân hàng, vay tiền của chính
ngân hàng ấy thì phải có một sự kiểm soát rất chặt chẽ. Thậm chí, nếu mà ông chủ ấy giữ
một vị trí nào đấy, ví dụ là thành viên Hội đồng Quản trị, hay đại diện của người đó giữ
chức này, thì khoản vay đó phải được Đại hội cổ đông quyết định, tức là tất cả các ông
chủ có ý kiến, thì mới được cho vay. Vấn đề là, cái ngưỡng thế nào là lớn, có thể là 5%,
có thể là 10%. Nhưng ở Việt Nam không minh bạch ở cái chỗ là có thể một người kiểm
soát 3, 4 công ty. Mỗi người, hay mỗi công ty liên quan có phần không đủ lớn, nhưng
tổng cộng lại thì vượt quá ngưỡng cho phép. Đó là sự không minh bạch.
Cho nên, khi ngân hàng cho một trong những người đó vay, theo quy định thì, vì đó
không phải là cổ đông lớn, vẫn được vay bình thường, nhưng nếu xét tổng thể lại là
không ổn. Sự không minh bạch và sự thực thi quy định không nghiêm túc có thể gây ra
rất nhiều rủi ro. Mà rủi ro lớn nhất trong ngân hàng là cho “những người có liên quan”
vay.
Những người có liên quan là ai ? Đó là những người ở trong Hội đồng Quản trị,
những người trong Ban Giám đốc, những cổ đông lớn. Và nếu mà người ta dùng tỷ lệ sở
hữu của người ta một cách trực tiếp, hoặc một cách gián tiếp của những người thân cận,
các công ty thân cận, thì người ta có thể ảnh hưởng đến chuyện vay nợ như thế, đầu tư
như thế, và cái đó thực sự phải được giám sát rất chặt chẽ và nhiều khi đây là một việc bị
cấm, vì điều này tiềm ẩn những rủi ro rất lớn.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có những quy định tương đối chặt chẽ đối với việc
giám sát và kiểm tra. Vì hoạt động ngân hàng là hoạt động có điều kiện và nó phải chịu
sự kiểm tra giám sát rất chặt chẽ. Lẽ ra, nên có một tổ chức tách bạch ra khỏi Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, chỉ làm việc giám sát hoạt động ngân hàng, kể cả các hoạt động của
các công ty chứng khoán. Nên có một tổ chức Nhà nước riêng như vậy, chuyên sâu làm
25