Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG, MINH BẠCH THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.5 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM
Đề Tài: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG,
MINH BẠCH THÔNG TIN TRONG HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Danh sách nhóm
1. Hoàng Diệu Thùy
K094040609
2. Nguyễn Thị Đông Thy
K094040614
3. Trần Minh Trang
K094040617
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. CP: Cổ phần
2. HĐQT: Hội đồng quản trị
3. KLTT: Kỷ luật thị trường
4. NHNN: Ngân hàng Nhà nước
5. NHTM: Ngân hàng thương mại
6. NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
7. NHTMNN: Ngân hàng thương mại Nhà nước
8. TCTD: Tổ chức tín dụng
9. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
MỤC LỤC
Lời mở đầu 01
Chương 1. Cơ sở lý thuyết 02
1.1. Sự ra đời của hiệp ước vốn Basel 02
1.2. Nội dung cơ bản của Basel 03
1.3. Sơ lược về trụ cột 3 của Basel 10


1.4. Những bổ sung về trụ cột 3 của Basel III 11
Chương 2: Đánh giá mức độ đáp ứng các quy định về kỷ luật thị trường, minh bạch
thông tin (trụ cột ba) trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam 12
2.1. Khái niệm kỷ luật thị trường và minh bạch thông tin 12
2.2. Tình hình kỷ luật thị trường hiện nay 12
2.3. Bất cập ở Việt Nam so với lộ trình Basel 21
2.4. Minh bạch thông tin trên thị trường Việt Nam 24
2.5. Một số sự việc điển hình về kỷ luật thị trường, minh bạch thông tin tại các NHTM
Việt Nam 27
Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao mức độ đáp ứng tuân thủ kỷ luật thị
trường, minh bạch thông tin trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam 31
3.1. Đề xuất với các cơ quan nhà nước có liên quan 31
3.2. Đề xuất đối với Ngân hàng 33
3.3. Đề xuất đối với khách hàng 35
Kết luận 36
4
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng với chức năng là trung gian tài chính, đóng vai trò không thể thiếu
trong sự vận động của nền kinh tế hiện đại. Hệ thống ngân hàng lành mạnh là tiền đề để
các nguồn lực tài chính được luân chuyển, phân bổ và sử dụng hiệu quả, góp phần kích
thích tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính vì thế, bất cứ một rủi ro nào xảy ra với bất cứ
một ngân hàng nào cũng có thể gây ra những tác động dây chuyền, lây lan với một tốc độ
khủng khiếp đến các thành viên khác trong hệ thống. Một trong những yếu tố quan trọng
tác động lớn đến sự lành mạnh của hệ thống đó là sự minh bạch thông tin của các tổ chức
tín dụng. Nếu các thông tinbị công bố một cách sai lệch, nhẹ thì gây ra những thiệt hại
cho chính tổ chức đó, nặng thì những thiệt hại đó còn gây ra hiệu ứng “domino” ảnh
hưởng đến toàn hệ thống. Trong quá khứ và hiện tại, đã có không ít những sự cố dẫn đến
các hậu quả nghiêm trọng mà nguyên nhân là do đã không tuân thủ kỷ luật thị trường của
tổ chức cũng như là của các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tài chính nói chung và lĩnh
vực ngân hàng nói riêng gây ra. Nhận thức được tầm quan trọng trong việc minh bạch

thông tin trong lĩnh vực ngân hàng, cùng với những tìm hiểu từ lý thuyết và quan sát thực
tiễn, nhóm em quyết định thực hiện đề tài “Đánh giá mức độ đáp ứng các quy định về
kỷ luật thị trường, minh bạch thông tin (trụ cột 3) trong hoạt động ngân hàng tại Việt
Nam”.
5
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Sự ra đời của Hiệp ước vốn Basel
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có những
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Nhằm củng cố hoạt động và
tạo ra một cơ chế cạnh tranh bình đẳng của hệ thống ngân hàng, Uỷ ban Basel về giám
sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) được thành lập bởi
một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10)
tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân
hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ,
Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển,
Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm. Hội đồng thư ký của Ủy ban
Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là
những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ
chức tín dụng tài chính thành viên.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan
giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ
quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu
tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây
dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới
thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng
rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính
họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn
chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy
ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng
của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những

tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong
công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản
là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2)
6
việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban
Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến vấn đề này.
Lịch sử vắn tắt của Hiệp ước vốn Basel: (1) Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu
tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực từ 1992. (2) Năm 1996, Basel I được bổ sung thêm rủi
ro thị trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). (3) Tháng 6/1999, đề xuất
một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất (First Consultative
Package - CP1). (4) Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2). (5) Tháng
4/2003, chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3). (6) Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp
ước vốn (Basel II) được hoàn thiện. (7) Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực. (8) Năm
2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi.
1.2. Nội dung cơ bản của Basel
 Basel I
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được
đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này
cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không
chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các
nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với
rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.
Mục đích của Basel I: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế;
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh
không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Những điểm cơ bản của Basel I: yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải
nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn
tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức
vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó.
Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở

hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Thời đó, các nhà hoạch định
7
chính sách của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận
ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt
được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của
một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của ngân hàng đó. Sau khi rủi ro tín
dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro
thị trường để phản ứng lại các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các
ngân hàng thương mại và đến năm 1996, Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến
cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.
Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường cụ
thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do có sự biến
động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại
tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi
suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2
phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu
rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu
ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.
Thành tựu của Basel I:
(i) Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế
chung nhất về vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại: Vốn
cấp 1, Vốn cấp 2. Trong đó: Vốn tự có = Vốn cấp 1+Vốn cấp 2.
Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được
công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn;
Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty
con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm tất cả các vốn khác như: Lợi nhuận giữ lại không
công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung;
8
Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và

các tổ chức tài chính khác.
(ii) Đưa ra tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với
mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng
hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
(RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích
hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu
vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
 Những hạn chế của Basel I:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Trong đó, điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề
cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên,
đó là rủi ro tác nghiệp (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro tác nghiệp).
Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: Không phân biệt theo loại rủi ro;
Việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản vay; Chưa tính đến lợi ích từ việc đa
dạng hóa hoạt động (theo lý thuyết thì rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục
đầu tư…).
 Basel II
Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng
quốc tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình
diện quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản
lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel I.
Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều tiết
9
dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà sẽ
dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
Những điểm cơ bản của Basel II: Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc

tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được
tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành
(hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với
rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn
toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều
mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung
cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột
này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro
hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà
hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân hàng
cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro
và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các giám
sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân
hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên
nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của
quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn
mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm
bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu
cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng
theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân
10
hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến
những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro
này.
Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy

nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương
pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên
nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia được tăng lên bởi
họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất
cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện
pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và
sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước
thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-
operation and Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc
quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm
bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
Hạn chế của Basel II:
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có thể được
chấp nhận rộng rãi.
11
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu lỳ kinh
doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có
khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
 Basel III
Hiệp ước Base III được phát triển để đối phó với những thiếu sót trong các qui định
về tài chính bị bộc lộ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Basel III tăng cường yêu
cầu về vốn của ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về tính thanh khoản
ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng.

Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hệ lụy lâu
dài của chúng đối với hệ thống tài chính - ngân hàng toàn thế giới, Uỷ ban Basel một lần
nữa lại dự thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Basel 3) về các tiêu chuẩn an toàn vốn tối
thiểu. Nội dung bao trùm là:
- Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.
- Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.
- Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%.
- Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy
giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo
bằng vốn chủ sở hữu phổ thông (common equity). Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi
trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt
động tín dụng một cách có hệ thống.
Ngoài ra, Basel 3 còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng và
nhằm ngăn chặn việc lạm dụng chia thưởng, hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh tình
trạng tài chính và tỷ lệ an toàn vốn không đảm bảo. Basel 3 cũng đồng thời rà soát lại các
tiêu chuẩn (định nghĩa) vốn cấp 1, vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản vốn không đủ tiêu
chuẩn khi giám sát chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu.
12
Như vậy, có thể thấy rằng, loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài chính 2,5%,
tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên, kết cấu của các
loại vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1, đồng thời tăng tỷ
trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ cả 2 khoản vốn đệm dự
phòng suy giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh tế thì tỷ lệ vốn chủ sở
hữu được điều chỉnh tăng từ 2% (Basel 2) tăng lên thành 9,5% (4,5% + 2,5% + 2,5%) ở
Basel 3. Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế 2,5% (không bắt buộc trong
điều kiện bình thường) thì mức tối thiểu vốn chủ cũng phải đạt mức 7%. Bên cạnh đó, có
thể một số khoản trước đây được tính vào vốn chủ sở hữu nay phải bóc tách ra vì không
đủ điều kiện coi là vốn chủ sở hữu. Chẳng hạn, khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư
vào các tổ chức tài chính khác, khoản vốn có nguồn gốc từ số thuế thu nhập lưu kỳ (hoãn
lại) Vì thế, yêu cầu nâng cao tỷ lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với

nhiều ngân hàng xét trong bối cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động.
Các tiêu chuẩn của Basel 3 không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có hiệu
lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy
đủ vào ngày 1/1/2019. Bảng sau sẽ cho thấy lộ trình cụ thể của việc thực thi hiệp ước
Basel 3: (xem bảng 1).
Bảng 1.1. Lộ trình việc thực thi hiệp ước Basel III
Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu 3,5% 4.0% 4,5% 4,5% 4,5% 4,5% 4,5%
Vốn đệm dự phòng 0,625
%
1.25
%
1,87
5%
2,5%
Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng vốn
đệm dự phòng
3,5% 4% 4,5% 5,125
%
5,76
%
6,37
5%
7%
Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu các
khoản vốn không đủ tiêu chuẩn
20% 40% 60% 80% 100
%
100%
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu 4,5% 5,5% 6,0% 6,0% 6,0% 6,0% 6,0%

13
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu 8% 8% 8% 8% 8% 8% 8%
Tổng vốn tối thiểu cộng vốn đệm dự
phòng bắt buộc
8% 8% 8% 8,625 9,12
5
9,87
5
10,5
Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2 các
khoản không đủ tiêu chuẩn
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm 2013
Vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% - 2,5%
(Nguồn: />1.3. Sơ lược về trụ cột ba của Basel II
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất
khung đo lường mới với ba trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa
Basel I; (ii) sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ
chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ
luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Đến ngày 26/6/2004, bản
Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
Trụ cột thứ ba làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải
công bố. Trụ cột này bao gồm các điều từ điều khoản 757 đến 775 theo quy định của
Basel II quy định cụ thể, rõ ràng về cách công bố các thông tin của ngân hàng. Phần này
được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng
thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển
giao một cách hợp lý. Trụ cộ này yêu cầu mức độ minh bạch thông tin một cách toàn
diện, bao gồm công bố chất lượng và số lượng để đánh giá rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động
của ngân hàng, công bố cho các ngân hàng về sử dụng cách tiếp cận mô hình nội bộ
(IMA) đối với sanh mục tài sản mua và bán để đánh giá rủi ro thị trường, giảm thiểu rủi
14

ro tín dụng bằng cách công bố cách tiếp cận chuẩn hóa và IRB, minh bạch về vốn và cơ
cấu vốn của ngân hàng,…
Nội dung cơ bản của trụ cột ba:
• Nhấn mạnh tiềm năng đối với tính kỷ luật của thị trường đối với việc củng cố
các quy định về vốn và những nỗ lực thanh tra giám sát khác nhằm thúc đẩy
sự an toàn và sự lành mạnh trong các ngân hàng và các hệ thống tài chính.
• Đưa ra một số đề nghị về công bố thông tin như yêu cầu bắt buộc, một vài đề
nghị là những điêu kiện tiên quyết đế chấp thuận việc thanh tra giám sát.
Việc công bố thông tin cốt lõi chuyển tải những thông tin mang tính sống còn
cho tất cả các định chế và quan trọng cho tính kỷ luật của thị trường. Việc
công bố thông tin phụ thuộc vào “tính trọng yếu”. Thông tin là “quan trọng”
nếu việc bỏ lỡ thông tin này có thể thay đổi hoặc ảnh hưởng đến việc đánh
giá hoặc ra quyết định của người sử dụng dựa trên thông tin đó. Các công bố
thông tin bổ sung có thê chuyển tải thông tin đáng kể cho các hành động kỷ
luật của thị trường đối với một định chế cụ thể nào đó.
1.4. Những bổ sung về trụ cột ba của Basel III
Trong những nội dung mới bổ sung của Basel III yêu cầu về kỷ luật thị trường, các
nội dung liên quan đến những rủi ro ngân hàng có thể gặp phải và những khoản tài trợ
ngoài bảng cân đối kế toán cần phải được công bố. Bên cạnh đó, Basel III cũng nhấn
mạnh việc chi tiết hóa trong việc cung cấp thông tin về nguồn vốn bắt buộc và sự tương
quan với những danh mục kế toán cần phải được thông tin đầy đủ, bao gồm những chú
giải toàn diện về phương thức ngân hàng tính toán các tỷ lệ vốn bắt buộc.
Như vậy, theo quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa
ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh
bạch hơn, kỷ luật hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy
vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
15
Chương 2: Đánh giá mức độ đáp ứng các quy định về kỷ luật thị trường, minh bạch
thông tin (trụ cột ba) trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
2.1. Khái niệm kỷ luật thị trường và minh bạch thông tin

Kỷ luật thị trường là những nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh mà các ngân hàng
và tổ chức tài chính phải tuân thủ khi xem xét đến những rủi ro có thể xảy ra cho các đối
tác của họ. Kỷ luật thị trường kết hợp với hệ thống quản lý nhằm mục đích gia tăng sự an
toàn và hoạt động hiệu quả của thị trường. Kỷ luật thị trường giúp thúc đẩy sự minh bạch
thông tin, thông tin được công bố rộng rãi với công chúng thông qua việc khuyến khích
các tổ chức công bố định kỳ các thông tin chi tiết về tài sản, nguồn vốn và các thông tin
tài chính cơ bản của tổ chức. Việc này sẽ làm giảm sự không chắc chắn và thúc đẩy chức
năng của thị trường là nơi trao đổi thông tin giữa bên cho vay và bên đi vay.
Minh bạch thông tin là một phần của kỷ luật thị trường, theo tổ chức Liên Hợp
Quốc:" Minh bạch liên quan đến khả năng tiếp cận không giới hạn của công chúng với
các thông tin một cách chính xác và kịp thời để làm căn cứ cho các quyết định và hành
động hiệu quả". Các cấp độ của minh bạch thông tin bao gồm:
• Sẵn sàng cung cấp thông tin khi cần thiết
• Chủ động cung cấp các thông tin cho công chúng
• Hoạch định các kế hoạch cung cấp thông tin theo định kỳ
• Phản biện đối với các thông tin được cung cấp
• Giám sát việc hoạt động cung cấp thông tin
2.2. Tình hình kỷ luật thị trường hiện nay
Hiệp định Basel II với việc áp dụng những hoạt động quản lý rủi ro mạnh mẽ hơn sẽ
khiến nhiều ngân hàng quốc tế e ngại hơn khi cho các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, vay tiền. Tại Hội thảo "Hiệp định Basel II và khả năng tác động đối với hoạt
động tài trợ nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam", diễn ra ngày 25/1/2005 do
Trung tâm Pháp - Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG) tổ chức, Tiến sĩ kinh tế học Joel
Metais - Giáo sư Trường Đại học Paris-Dauphine - đã nhận định như vậy.
Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng của các nước mới nổi sẽ gặp khó khăn, vì việc
chuyển sang Basel II là rất tốn kém, các ngân hàng cỡ nhỏ khó có thể chịu được chi phí
cố định liên quan đến việc nâng cấp ngân hàng. Đây là một thách thức lớn đối với hệ
thống tài chính Việt Nam.
16
Ngoài ra, các ngân hàng Việt Nam hiện nay không thể áp dụng các hệ thống đánh

giá rủi ro linh hoạt hơn trong việc xác định nhu cầu và phân bổ vốn của mình, sẽ buộc
phải áp dụng quy chế chuẩn khắt khe hơn. Những bất lợi cạnh tranh của những tiêu chuẩn
này đã gây khó khăn cho ngân hàng các nước mới nổi. Các rủi ro liên quan đến việc phân
phối hạn định tín dụng để tài trợ nền kinh tế đã khiến nhiều nước như Trung Quốc và Ấn
Độ đứng ngoài những điều khoản của Hiệp định Basel II. Mặc dù mục tiêu tạo sự ổn định
và hiệu quả của hệ thống tài chính của các hiệp định này đều được đánh giá cao, nhưng
việc áp dụng thực sự các hiệp ước đó, theo ông Joel Metais, sẽ còn gặp nhiều phản ứng.
Thông tin tại hội thảo cũng cho biết, Basel II sẽ chính thức có hiệu lực từ năm 2007.
Hiệp ước này sẽ tạo nên một bước tiến mới trong quá trình cải tiến chất lượng quản lý các
định chế tài chính, ổn định hệ thống ngân hàng và trên hết là tăng tính hiệu quả của hoạt
động tài trợ nền kinh tế.
Ngoài cải tiến về rủi ro tín dụng, Basel II cũng yêu cầu các ngân hàng phải đạt đến
tỷ số cooke. Tỷ lệ này quy định rằng số tiền cơ bản của một ngân hàng (fonds propres)
chia cho số tiền cho vay không được quá 8%. Tuy nhiên, tỷ lệ này trong các ngân hàng
Việt Nam đang dưới 5%.
Hiệp định Basel II còn tính đến các rủi ro hoạt động của ngân hàng. Đồng thời, quy
chuẩn này cũng khuyến khích các ngân hàng tự quản lý bằng việc áp dụng những phương
pháp đánh giá nội bộ về nhu cầu sử dụng vốn, chú ý đến tình trạng rủi ro của ngân hàng;
đưa nhiều hơn các yếu tố thị trường vào hệ thống ngân hàng thông qua việc công bố mọi
yếu tố thông tin; cho phép các bên tham gia có thể đánh giá được tình trạng rủi ro và mức
độ tư bản hóa thực sự của các thể chế khác nhau.
Các chuyên gia quốc tế cho rằng, việc nắm vững được nội dung của Hiệp định Basel
II và tác động của việc thực thi Hiệp định này lên hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam
trở thành nhu cầu hết sức thiết thực của cán bộ làm việc trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng.
2.2.1. Nhận thức về kỷ luật thị trường (KLTT) của ngành ngân hàng Việt Nam còn
yếu
Trong lĩnh vực nghiên cứu KLTT, các nhà nghiên cứu nước ngoài trong ngành
ngân hàng đã nghiên cứu rất sâu và đạt được nhiều thành tựu, đồng thời đại đa số là
nghiên cứu thực chứng người gởi tiền thực hiện KLTT. So sánh ở Việt Nam, chỉ vài năm

17
gần đây cùng với việc ra đời Basel II, và việc cam kết thực hiện giám sát ngân hàng theo
hiệp ước Basel II năm 2004, chúng ta mới biết đến KLTT như là một trong ba trụ cột của
hiệp ước Basel II. Do vậy việc nghiên cứu KLTT ở khía cạnh định tính cũng như định
lượng còn chưa được phát triển. Qua tham khảo bài viết của tác giả Nguyễn Chí Đức,
Hoàng Trọng “Nghiên cứu thực chứng hiệu ứng kỷ luật thị trường ngành ngân hàng Việt
Nam – A research on market discipline effects of the banking system in Vietnam” (Tạp
chí Ngân Hàng – 04/2010 Số 7) có một số kết luận về thực trạng tồn tại của KTLL ngành
ngân hàng như sau: Quan điểm của người dân về quy tắc Too big to fail (ngân hàng lớn
không thể đổ vỡ) ở Việt Nam vẫn đang tồn tại. Vì sự ổn định của xã hội và cả nền kinh tế,
Nhà nước sẽ không thể để cho các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) sụp đổ.
Quan điểm này đã thấm sâu vào trong suy nghĩ của mọi người, vì vậy loại bảo hiểm tiền
gửi đã làm cho người gởi tiền hầu như không quan tâm đến các chỉ tiêu rủi ro của các
NHTMNN (tất nhiên còn nhiều lý do khác như người gởi tiền có qua ít con đường để đầu
tư). Còn đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), họ là các doanh nghiệp
thực sự, họ hiểu rằng phải tự chịu trách nhiệm kinh doanh và mục tiêu lợi nhuận của
mình, và chỉ nhận được sự bảo đảm tín dụng và giúp đỡ từ nhà nước có giới hạn. Đã từng
có những NHTMCP nhỏ sụp đổ, đóng cửa, hay sáp nhập, vì vậy người dân cũng cần phải
quan tâm hơn đến các chỉ tiêu rủi ro. Nhưng xét trên tổng thể mà nói, KLTT của ngành
ngân hàng Việt Nam trong một nền kinh tế toàn cầu là còn rất yếu, chưa thể xem đó là
một bộ phận cấu thành trong hệ thống giám sát tài chính ngân hàng Việt Nam. Có thể rút
ra kết luật KLTT đã bắt đầu hình thành trong ngành ngân hàng Việt Nam, nhưng hoạt
động còn yếu và KLTT của nhóm NHTMNN hoạt động yếu hơn so với nhóm NHTMCP.
2.2.2. Hiện tượng lách luật là hiện tượng phổ biến hơn cả
Thực tiễn hoạt động ngân hàng ở các nước cũng như tại Việt Nam trước đây, đối
với sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn, nếu rút trước hạn sẽ bị xem như khách hàng vi phạm
hợp đồng và như vậy sẽ không được hưởng lãi, hoặc (nếu có) chỉ được hưởng mức lãi
suất không kỳ hạn rất thấp. Chính sách này đã đặt khách hàng vào tình thế phải cân nhắc
thiệt hơn để lựa chọn, hoặc rút trước hạn – chấp nhận mức lãi suất thấp hoặc tiếp tục gửi
để hưởng trọn lãi suất theo kỳ hạn gửi. Nhưng vài năm trở lại đây, do áp lực về nguồn

18
vốn, ban đầu một số NHTM đã đưa ra loại sản phẩm tiền gửi tính lãi trên số ngày thực
gửi. Loại sản phẩm này khách hàng có nhiều cơ hội chọn một kỳ hạn nào đó có mức lãi
suất hấp dẫn nhất, nhưng khi lãi suất trên thị trường biến động, họ dễ dàng rút ra để
chuyển sang kỳ hạn khác có lợi hơn mà vẫn được hưởng lãi suất theo số ngày thực gửi,
hoặc chuyển sang một ngân hàng khác có lãi suất cao hơn. Đối với những khách hàng tỏ
ra am hiểu, luôn muốn được một mứclãi suất cao hơn và thường đưa ra mức chi trả mà
các NHTM khác đang áp dụng, còn ngân hàng luôn đưa ra một mức khiêm tốn hơn, vì
thế mới diễn ra việc “mặc cả” lãi suất tại các ngân hàng. Điều này không chỉ diễn ra đối
với khách hàng cá nhân, mà đối với cả khách hàng doanh nghiệp. Như vậy, sản phẩm tiền
gửi rút trước hạn hưởng lãi theo số dư không chỉ đặt các ngân hàng vào một tình thế bị
động khi sử dụng vốn do khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào, mà còn đặt các ngân
hàng ở tình trạng tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn. Sự việc đã đến mức nghiêm trọng trong việc lôi
kéo khách hàng bằng các sản phẩm tiền gửi với những điều khoản trả lãi biến dạng đi rất
nhiều. Trước thực trạng này, NHNN đã ban hànhThông tư 04/2011/NHNN qui định các
tổ chức tín dụng (TCTD) chỉ được áp dụng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất
cho các khoản tiền gửi rút trước hạn. Qui định này không mới, mà chỉ là nhắc lại một
nguyên tắc trong hoạt động ngân hàng. Thế nhưng do áp lực về vốn, không ít ngân hàng
đã “lách” bằng cách nâng ngay lãi suất không kỳ hạn ở mức cao: 8% - 12%/năm (lưu ý
trước đó, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ từ 2% đến 3,6%/năm). Không chỉ có vậy một
số ngân hàng lại đưa ra sản phẩm “Tiết kiệm lãi suất thả nổi”, “Trả lãi theo số dư tiền
gửi” trên tài khoản cho khách hàng, theo đó tiền trên tài khoản khách hàng vẫn được rút
ra bất cứ lúc nào số với lãi suất hấp dẫn. Về bản chất, các sản phẩm tiền gửi này không
khác sản phẩm “rút trước hạn lãi suất theo ngày thực gửi”.
Trong điều kiện áp lực lạm phát vẫn còn lớn, một số NHTM nhỏ luôn trong tình
trạng khó khăn về vốn, ví dụ đầu năm 2012 khi NHNN đã qui định trần lãi suất huy động
VND đối với các NHTM là 14%/năm. Song do những biến động về giá vàng, giá USD,
chỉ số giá tiêu dùng, nên việc huy động tiền gửi VND với lãi suất14%/năm không hấp
dẫn. Trong khi đó nhu cầu cần tăng tổng tài sản của các ngân hàng đặt ra rất cao, nên đã
làm cho việc huy động vốn càng khó khăn. Vì vậy, việc “vận dụng” qui định trần lãi suất

19
huy động của NHNN được nhiều NHTM tính đến. Đầu tiên phải kể đến việc thưởng lãi
suất cho khách hàng, tùy theo từng ngân hàng và số tiền của khách hàng mà mức thưởng
khác nhau, ít thì 1%/ năm, nhiều có thể lên tới 3%. Một điều không bình thường trong
hoạt động ngân hàng là sổ tiết kiệm của khách hàng vẫn ghi mức lãi suất14% theo qui
định của NHNN, nhưng phần trả thêm đó được biến hóa bằng một thỏa thuận nhận
thưởng được ngân hàng trả ngay bằng tiền mặt, hoặc đến hạn trả cùng gốc và lãi trên sổ.
Được biết nhiều NHTM cũng không đồng tình với cách làm này của một số ít ngân hàng.
Nhưng do nếu có phát hiện ngân hàng vi phạm thì xử lý cũng không đủ mức răn đe, nên
các NHTM chấp hành nghiêm túc sẽ bị thiệt do khách hàng gửi tiền chạy sang nơi khác
có mức lợi tức cao hơn. Khi đó, không có cách nào khác, các NHTM này cũng phải
“chạy theo” để giữ khách hàng bằng các sản phẩm tiền gửi kỳ hạn siêu ngắn với lãi
suất14%/năm.
2.2.3. Tình trạng vi phạm pháp luật trong ngành ngân hàng đáng báo động
Trong thời gian qua, tình hình tội phạm trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng ngày càng
gia tăng do rất nhiều nguyên nhân, kể cả chủ quan và khách quan, cụ thể:
- Về nguyên nhân khách quan: Tình hình kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp
phá sản, lao động dôi dư, tình trạng thất nghiệp tăng. Cùng với đó, số vụ vỡ nợ tín dụng
đen gia tăng là nguyên nhân hình thành các băng nhóm đòi nợ thuê, xiết nợ, bắt giữ
người trái pháp luật. Sự xuống cấp về đạo đức xã hội của một bộ phận người dân đáng
báo động.
- Về nguyên nhân chủ quan: Công tác quản lý nhà nước về vấn đề này còn
nhiều hạn chế, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, còn chồng chéo, chưa có chế tài đủ
mạnh để xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Còn nhiều mâu thuẫn
giữa các văn bản luật hiện hành, tạo nhiều kẽ hở để những hành vi vi phạm xảy ra.
Trách nhiệm của nhiều Bộ, ngành, địa phương còn buông lỏng quản lý, thiếu tinh
thần trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ được giao, thiếu kiểm tra giám sát chặt chẽ,
chưa quan tâm đến công tác phòng ngừa rủi ro, coi trọng kiểm tra để xử lý hơn kiểm tra
để ngăn ngừa nên hậu quả xảy ra hầu hết là nghiêm trọng; có sự đùn đẩy trách nhiệm lẫn
nhau và chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật để hỗ trợ thực

20
hiện, nhất là trong các tình thế cấp thiết, thiếu hụt nhân lực cán bộ Ngân hàng, điều kiện
thực hiện còn nhiều hạn chế.
Trách nhiệm người đứng đầu các tổ chức chưa cao, buông lỏng quản lý, thiếu
trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành, trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ như: Công tác
phòng chống tham nhũng; Công tác dự báo tình hình, phân tích, đánh giá nguyên nhân và
điều kiện làm phát sinh hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm cũng như các biện pháp
phòng ngừa chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế thị trường, công nghệ thông tin và
hội nhập quốc tế.
- Chưa thực sự quan tâm, công tác đào tạo, tuyển dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ,
công chức phù hợp từng vị trí khả năng đáp ứng nhiệm vụ được giao;
- Chưa thực sự quan tâm đến công tác giáo dục phổ biến pháp luật nhất là các
QPPL về hoạt động Tài chính - Ngân hàng về đạo đức nghề nghiệp, về nhân cách, lối
sống của cán bộ công chức nhất là các thế hệ công chức, viên chức mới tuyển dụng.
Trong báo cáo trước Quốc hội Bộ trưởng Trần Đại Quang cho biết đến thời điểm
tháng 10/2012 lực lượng công an đã phát hiện 891 vụ vi phạm pháp luật về tham nhũng,
kinh tế, tội phạm về chức vụ diễn ra trong năm (tăng 583 vụ so với năm 2011), với 1.936
tội phạm (tăng gần gấp đôi so với năm 2011). Trong khi đó công tác điều tra một số vụ án
tham nhũng nghiêm trọng được dư luận quan tâm còn chậm, nhiều vụ án phải điều tra lại
nhiều lần và kéo dài. Nguyên nhân do cán bộ còn thiếu, năng lực trình độ, tinh thần trách
nhiệm hạn chế, thậm chí một số cán bộ còn vi phạm pháp luật.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện, mặc dù các vụ án tham
nhũng, vi phạm kinh tế đã phát hiện với số lượng lớn nhưng vẫn chưa tương xứng với
tình hình. Việc thanh kiểm tra của các cơ quan chức năng chưa hiệu quả, nhiều vụ việc
được phát hiện chỉ sau khi dư luận, báo chí lên tiếng. Các sai phạm lớn chưa được điều
tra, xử lý các vụ việc tham nhũng chưa nghiêm minh, chủ yếu xử lý kỷ luật, có nguy cơ
bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, công tác xét xử các vụ án tham nhũng chưa đạt hiệu quả
cao, nhiều vụ án phức tạp nên công tác xét xử kéo dài, qua nhiều cấp xét xử song không
giải quyết dứt điểm gây bức xúc trong dư luận, một số tòa án địa phương còn có biểu
hiện cả nể người vi phạm.

2.2.4. Những khó khăn của NHNN trong việc xử lý các sai phạm
21
Muốn giữ vững kỷ luật thị trường, NHNN cần có những công cụ mạnh để điều
chỉnh hành vi cũng như xử lý vi phạm, tuy nhiên còn nhiều khó khăn và bất cập trong các
công cụ quyền lực giám sát.
2.2.4.1. Xử lý hành vi vi phạm hành chính
Những văn bản trực tiếp liên quan đến việc xử phạt vi phạm pháp luật trong hoạt
động tiền tệ, ngân hàng là Nghị định của Chính phủ số 202/2004/NÐ-CP ngày
10/12/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 202) và Nghị định số 95/2011/NÐ-CP ngày 10/12/2004
về sửa đổi, bổ sung một số Ðiều của Nghị định số 202. Thông tư 10/2012/TT-NHNN quy
định về xử lý sau thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
Sau hơn tám năm thực hiện, Nghị định số 202 đã góp phần tích cực trong việc
nâng cao tính tuân thủ các quy định trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức và cá
nhân, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng của các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập và phát triển, các tổ chức tín dụng tiếp nhận kỹ thuật,
công nghệ, sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng; đặc biệt trong những năm gần
đây, số lượng sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng mới tăng lên nhanh chóng về
quy mô và đa dạng về loại hình. Để quản lý hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín
dụng, Chính phủ và NHNN đã ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh. Tuy nhiên,
việc xử lý vi phạm gặp khó khăn do Nghị định hiện hành thiếu nhiều chế tài xử lý vi
phạm.Cụ thể mức xử phạt tối đa bằng tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng và tín dụng
tại Nghị định số 202 được căn cứ theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 với
mức xử phạt tối đa là 70 triệu đồng. Tại Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP, mức xử phạt tối đa
cũng chỉ ở mức 500 triệu đồng.
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang nghiên cứu ban hành Nghị định mới thay thế
Nghị định số 202 và Nghị định số 95 nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
thanh tra, giám sát đối với hoạt động tiền tệ và ngân hàng, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà

nước đối với hệ thống các tổ chức tín dụng, các cơ quan, tổ chức khác và cá nhân trong
tình hình thị trường tài chính - ngân hàng đang có những bước tiến nhanh và đa dạng như
22
hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn chưa hạn chế được vi phạm pháp luật
xảy ra gây thất thoát lớn tiền, tài sản của nhà nước là mối quan tâm thường xuyên của các
cấp lãnh đạo NHNN nhằm hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân
hàng.
2.2.4.2. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật hình sự
Sai phạm trong lĩnh vực này hiện nay được điều chỉnh bằng:
1. Nghị định số 202/2004/NÐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Nghị định
95/2011/NÐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2011 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
số 202/2004/NÐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
2. Bộ luật Hình sự của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc
hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999.
Các quy định về vi phạm trong truy cứu trách nhiệm hình sự mang tính chung
chung, trừu tượng, định tính, không quy định rõ các giới hạn, các mức giá trị cụ thể, các
khái niệm không được làm rõ, các tiêu chuẩn khó xác định,…
Ðến nay, cùng với những biến động của nền kinh tế, quy định của Ðiều 165 Bộ
luật Hình sự không còn phù hợp. Một trăm triệu đồng của thời điểm Bộ luật Hình sự ra
đời vào năm 1999 có giá trị rất lớn, nay giá trị một trăm triệu không còn bao nhiêu cũng
như phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm thì từ một tỷ đồng trở lên, hình phạt này hiện
nay là quá nặng, cần được điều chỉnh, sửa đổi lại cho phù hợp với giá trị đồng tiền và tình
hình kinh tế hiện nay cũng như sức mua của đồng tiền.
2.3. Bất cập ở Việt Nam so với lộ trình Basel
Hiện nay, khi các ngân hàng trên thế giới đã đề cập tới việc áp dụng chuẩn mực
Basel III thì các ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa chính thức đề cập tới việc áp dụng một
chuẩn mực nào của Basel. Mặc dù các quy định trong những năm gần đây của NHNN
như Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN và Quyết định 457/2005/QĐ – NHNN, Thông tư

số 13, 19 năm 2010 cũng đã đề cập tới một số vấn đề liên quan đến các điều khoản trong
hiệp định Basel nhưng vẫn ở mức rất hạn chế. Việc các ngân hàng thương mại tại Việt
Nam chưa áp dụng các chuẩn mực của Basel một cách chính thức nhằm nâng cao chất
23
lượng quản lý rủi ro trong khi các ngân hàng trên thế giới đã có những bước phát triển
cao hơn sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.
Đa số các ngân hàng của Việt Nam chưa sẳn sàng với Basel II ngay tại thời điểm
này, chứ chưa nói đến Basel III. Đó là nhận định của nhiều chuyên gia hiện nay, Việt
Nam cần có thời gian hoàn thiện hệ thống tài chính, công nghệ, cơ sở hạ tầng có chất
lượng, cơ sở dữ liệu trước rồi mới có thể tiến hành áp dụng Basel III.
Theo số liệu thống kê về hệ số CAR thì một số ngân hàng như Vietcombank,
Vietinbank, BIDV đều áp ứng chuẩn Basel II nhưng là được tính toán theo chuẩn mực kế
toán Việt Nam, nên có sự sai lệch khá xa khi tính lại theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Bên
cạnh đó, vốn cấp 2 của các ngân hàng Việt Nam còn hạn chế, vốn vay mượn dài hạn để
tính vào vốn tự có là hạn chế. Mặt khác, việc đánh giá lại tài sản cố định của các ngân
hàng Việt Nam hằng năm để tính lại vốn tự có là chưa được thực hiện.
Quy mô vốn của các ngân hàng Việt Nam còn quá nhỏ so với thế giới. Ngoài ra hệ
thống các ngân hàng Việt Nam còn gặp nhiều rủi ro rất dễ ảnh hưởng bởi tác động xấu từ
nền kinh tế. Khi mà doanh thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm từ 70% - 90% trong cơ
cấu thu nhập của các NHTM Việt Nam thể hiện sự thiếu bền vững trong cơ cấu thu nhập
của các ngân hàng. Nợ xấu của các ngân hàng có xu hướng ngày càng gia tăng một phần
do tín dụng chỉ định và khả năng thẩm định rủi ro còn yếu. Nhiều NHTM không nắm giư
đầy đủ giấy tờ có giá nên không thể chủ động vay NHNN khi có thay đổi bất thường về
nhu cầu thanh khoản… Vì vậy, NHNN cần có chính sách, quy định giám sát các ngân
hàng hoàn thiện bộ máy, cơ chế hoạt động để phù hợp với thông lệ quốc tế.
 Những điểm yếu của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam dựa trên các quy định của
Basel
Việt Nam cũng là một trong những nước áp dụng khuôn khổ của Basel trong việc
giám sát hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế, hoạt động giám sát tại Việt
Nam còn nhiều điểm bất cập cần quan tâm nghiên cứu để đưa ra biện pháp thích hợp.

Vấn đề của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam không chỉ đến từ sự non kém trong
quản lý điều hành, sự bất cập trong hệ thống hành lang pháp lý mà thậm chí nó còn xuất
phát ngay trong chính khâu áp dụng những tiến bộ lý luận kinh tế của nước ngoài. Hiện
nay nhiều nước trên thế giới đã hoàn thiện xong áp dụng Basel I trong công tác giám sát
24
tài chính, tiến tới áp dụng Basel II, trong đó có Trung Quốc (điều kiên tương đồng với
Việt Nam). Còn Việt Nam chỉ mới dự kiến hoàn thiện Basel I vào năm 2010.
Đánh giá lại công tác điều tiết và giám sát đối với hoạt động của các tổ chức tài
chính tại Việt Nam trong thời gian qua, có thể nhận thấy một số điểm yếu như:
(1) Sự yếu kém trong quá trình theo dõi và giám sát, bao gồm thiếu minh bạch và chất lượng
các báo cáo; sự phát triển, đổi mới của hệ thống tài chính tạo ra những sản phẩm lai ghép,
do đó, công tác giám sát cũng gặp khó khăn hơn.
(2) Sự khôn tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc giám
sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của công tác điều tiết và giám sát.
(3) Sự thiếu phối hợp của các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vấn đề tài chính.
Ngoài ra có thể kể đến sự yếu kém trong việc quản lý các dòng vốn, quản lý các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài, giám sát cơ sở hạ tầng… hay cơ chế cảnh báo sớm và
giám sát hệ thống cũng là một điểm yếu của hệ thống điều tiết hiện nay. Dưới đây là một
số phân tích dựa trên 3 điểm yếu chính được nêu ra ở trên.
Sự thiếu minh bạch trong công tác xây dựng và báo cáo gây cản trở cho khả năng
nắm bắt tình hình thực tế tại các cơ quan chức năng. Sở dĩ như vậy là vì hệ thống kế toán
của Việt Nam chưa thực sư hoàn thiện, chưa tạo ra một chuẩn mực chung, mà vẫn nằm ở
các quy định rải rác. Sự thiếu các quy định đồng bộ trong việc thực hiện chế độ kiểm toán
và lập báo cáo hằng năm gây không ít phiền toái cho việc quản lý. Điều này dẫn tới việc
công bố thông tin trên thị trường không minh bạch, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư cũng
như làm nhiễu thông tin. Như vậy việc đưa ra quy định chung về hạch toán, kế toán cũng
như chế độ kiêm toán, báo cáo, công bố thông tin hằng năm đối với các loại hình doanh
nghiệp trên thị trường là cấp thiết. Đó là cơ sở mà trụ cột 3 Basel II đã đưa ra. Như vậy,
việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát ở đây không chi dừng lại ở khía cạnh quản lý từ các cơ
quan cấp cao nhất mà phải được xây dựng thành hệ thống, nhằm đảm bảo hoạt động

minh bạch của hệ thống ngân hàng. Trong nỗ lực nhằm giải quyết các vấn đề về giám sát
ngân hàng và tăng cường thông lệ tốt nhất tại các ngân hàng. Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng phát hành văn bản cấp cao này về rủi ro tuân thủ và chức năng tuân thủ tại các
25
ngân hàng. Các cơ quan giám sát ngân hàng cần đảm bảo rằng các chính sách và thủ tục
về tuân thủ được thực hiện một cách hiệu quả và ban giám đốc ngân hàng triển khai các
hoạt động khắc phục phù hợp khi phát hiện các vấn đề về tuân thủ. Với sự hỗ trợ của bộ
phận kiểm soát tuân thủ, ban giám đốc cần:
1) Ít nhất mỗi năm một lần, xác định và đánh giá những vấn đề về rủi ro tuân thủ mà ngân
hàng phải đối mặt và kế hoạch quản lý những rủi ro này.
2) Ít nhất mỗi năm một lần, báo cáo cho hội đồng quản trị hay ủy ban trực thuộc hội đồng
quản trị về công tác quản lý rủi ro tuân thủ theo cách nhằm hỗ trợ các thành viên hội
đồng quản trị đưa ra các nhận định với đầy đủ thông tin về việc ngân hàng có quản lý rủi
ro tuân thủ một cách hiệu quả hay không.
3) Báo cáo ngay cho hội đồng quản trị hoặc ủy ban trực thuộc hỗi đồng quản trị về bất kì thấ
bại nào trong kiểm soát tuân thủ có ảnh hưởng/ thiệt hại đáng kể về tài chính hoặc mất uy
tín.
Nếu như khâu kiểm soát này được thực hiện tốt ngay từ bản thân mỗi tổ chứ tài
chính thì việc kiểm soát của các cơ quan cấp cao sẽ trở nên dễ dàng hơn và ít tốn kém
hơn rất nhiều, chủ yếu thông qua các báo cáo tin cậy được công bố hàng năm đã được
chuẩn hóa.
Công bố thông tin có ý nghĩa và chuẩn xác sẽ tạo điều kiện thúc đẩy kỉ luật thị
trường và tạo điều kiện cho nghiên cứu của công chúng, qua đó tạo ra những động lực
mạnh mẽ cho ngân hàng torng việc tiến hành hoạt động kinh doanh an toàn, lành mạnh
và hiệu quả, phù hợp với mục tiêu hoạt động đã đề ra, du trì thực hành quản lý rủi ro lành
mạnh và kiểm soát nội bộ.
2.4. Minh bạch thông tin trên thị trường Việt Nam
Minh bạch là điều kiện cần thiết để quản trị công ty được hiệu quả. Khi nhấn
mạnh sự minh bạch trong Ủy ban hướng dẫn về quản trị ngân hàng, điều này là khó khăn
đối với các cổ đông, người gửi tiền, các bên liên quan và những đối tác tham gia thị

trường tài chính để giám sát và bảo đảm HĐQT và Ban điều hành thực hiện đúng trách
nhiệm của mình trong khi họ lại không có đủ thông tin. Sự minh bạch là mục tiêu của
việc quản trị ngân hàng nhằm để cung cấp cho các bên liên quan phù hợp với quy định
luật pháp quốc gia và việc giám sát; với các thông tin quan trọng cần thiết để các cổ
đông, người gửi tiền, các bên liên quan và đối tác có thể đánh giá hiệu quả làm việc của

×