Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.22 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

ĐỀ TÀI TÁI CẤU TRÚC
Đề tài 7: GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: THS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Lớp : K09404A
Nhóm 24
1.Võ Thị Hồng Dân – K094040526
2.Nguyễn Thị Mỹ Duyên – K094040530
3.Vũ Thị Thu Trang – K094040620
MỤC LỤC
PHẦN 1: LÝ LUẬN KHÁI QUÁT VỀ VIỆC TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG
1
1.1 Định nghĩa, lý do và mục tiêu của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

1
1.1.1 Định nghĩa về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

1
1.1.2 Lý do của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng


1
1.1.3Mục tiêu của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

1
1.2 Nội dung và các yếu tố cần thiết để thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng


2
1.2.1 Nội dung tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

2
1.2.2 Các yếu tố cần thiết để thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

2
PHẦN 2: VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM
3
2.1 Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam

3
2.1.1 Về mặt số lượng

3
2.1.2 Về mặt chất lượng

3
2.1.3 Môi trường pháp lý, sự quản lý và giám sát của NHNN

6
2.2 Thực tiễn phương thức tái cấu trúc hệ thống NHTM tại Việt Nam

6
2.2.1 Về quan điểm

7
2.2.2 Về mục tiên và nguyên tắc


7
2.3 Lộ trình tiến hành

8
2.4 Tiến độ và tình hình thực hiện đến thời điểm hiện tại

9
2.4.1 Định hình rõ 3 nhóm NH và giải quyết tốt những vấn đề thanh khoản của những
NH yếu kém
9
2.4.2 Tái cấu trúc lại các NH thuộc nhóm 3: Theo lộ trình sẽ thực hiện đến hết năm
2013
10
PHẦN 3: GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
HIỆN NAY
11
3.1 Một số giải pháp

11
3.1.1 Tập trung giải quyết vấn đề nợ xấu

11
3.1.2 Phân nhóm ngân hàng

12
3.1.3 Ổn định và hỗ trợ thanh khoản

13
3.1.3.1 Kiểm soát đặc biệt


13
3.1.3.2 Hỗ trợ thanh khoản thông qua hệ thống NHTM nhà nước và các NH có cổ
phần lớn trong thị trường
13
3.1.4 Thúc đẩy hoạt động M&A, nâng cao khả năng tự chủ tài chính của ngân hàng

14
3.1.5 Cân đối nguồn vốn huy động của ngân hàng

16
3.1.6 Nâng cao khả năng quản trị điều hành của NH và các yếu tố nội tại khác

18
3.1.7 Quyết tâm thưc hiện đúng lộ trình tái cơ cấu hợp lý

19
3.1.8 Phát huy vai trò của các công cụ tài chính tiền tệ đặc biệt cho quá trình cơ cấu
lại hệ thống NH

21
3.1.9 Nhóm giải pháp đồng bộ

23
3.1.10 Cải thiện lòng tin của người gửi tiền vào hệ thống NH Việt Nam

26
3.2 Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình tái cấu trúc hệ thống NH

27
3.2.1 Tái cơ cấu hệ thống NH và tâm lý người gửi tiền


27
3.2.2 Việc sáp nhập, hợp nhất các NH với nhau liệu có hiệu quả?

27
3.2.3 Tái cấu trúc nền kinh tế - Tái cấu trúc hệ thống NH phải đi đôi với việc tái cơ
cấu hệ thống doanh nghiệp và đầu tư công
28
3.2.4 Xử lý nợ xấu bất động sản

29
3.2.5 Giải pháp phá sản?

30
PHẦN 4: NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ
TRÌNH TÁI CẤU TRÚC HỆ THÔNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
31
4.1 Kết quả đạt được

31
4.2 Những hạn chế, tồn tại

34
4.3 Triển vọng thúc đẩy tái cấu trúc hệ thống ngân hàng năm 2013

37
KẾT LUẬN
40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
41

Trang 1
PHẦN 1: LÝ LUẬN KHÁI QUÁT VỀ TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
1.1. Định nghĩa, lý do và mục tiêu của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
1.1.1 Định nghĩa về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
Tái cấu trúc ngân hàng (NH) là việc khảo sát, đánh giá lại cấu trúc hiện tại và đề
xuất giải pháp cho mô hình cấu trúc mới. Việc tái cấu trúc có thể làm thay đổi hoàn toàn
bộ máy hoặc chỉ làm thay đổi một phần.
1.1.2 Lý do của việc tái cấu trúc NH
Những năm gần đây tình hình kinh tế vĩ mô trong nước không ổn định, kém phát
triển, làm cho hoạt động của các doanh nghiệp cũng như cá nhân gặp nhiều khó tình hình
tài chính sa sút, thêm vào đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 2007 – 2009
trên thế giới; làm cho ngành Ngân hàng càng đối mặt với nhiều khó khăn. Ngân hàng
phải tăng trích lập dự phòng rủi ro, ảnh hưởng đến kinh doanh,lợi nhuận; ngoài ra, chất
lượng tài sản đảm bảo ngày càng kém, công tác quản trị chưa đáp ứng được với sự thay
đổi, còn thể hiện nhiều bất cập. Khả năng thanh khoản kém, thiếu ngân quỹ để đáp ứng
nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng,…có nguy cơ cao. Nếu điều này xảy ra sẽ dẫn đến
khủng hoảng thanh khoản, hoặc tình trạng đổ xô đi rút tiền của người dân ở NH. NH có
thể rơi vào khủng hoảng, nguy cơ lan rộng đến toàn bộ hệ thống NH, kéo theo nguy cơ
khủng hoảng kinh tế xã hội. Do vậy thực hiện tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng là hết sức cấp
thiết.
1.1.3 Mục tiêu của tái cấu trúc hệ thống NH
- Tái cấu trúc hệ thống NH hướng đến tính hiệu quả và không gây xáo trộn cho hệ
thống NH.
- Tái cấu trúc bộ máy hoạt động để nâng cao năng lực, đáp ứng được các nhiệm vụ
hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội của từng NH nói riêng và hệ thống NH nói chung.
- Tái cấu trúc để có những NH chất lượng và những chỉ số hoạt động tốt nhằm tăng
sức mạnh cho toàn hệ thống, góp phần phát triển kinh tế ổn định.
- Tạo một hệ thống NH đa dạng về loại hình, quan hệ sở hữu và quy mô: có các NH
đủ mạnh để có thể cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, có các NH làm trụ cột cho cả hệ

Trang 2
thống NH trong nước, và có các NH có quy mô vừa và nhỏ hoạt động trong những phân
khúc thị trường khác nhau.
1.2. Nội dung và các yếu tố cần thiết để thực hiện tái cấu trúc hệ thống NH
1.2.1 Nội dung tái cấu trúc hệ thống NH
Nội dung chính của tái cấu trúc NH bao gồm 3 vấn đề lớn:
- Giải quyết các vấn đề về thanh khoản NH.
- Tái cấu trúc về vốn tự có.
- Xử lý nợ xấu và tái cấu trúc về quản trị NH.
1.2.2 Các yếu tố cần thiết để thực hiện tái cấu trúc hệ thống NH
- Môi trường pháp lý: đầu tiên phải rà soát lại các văn bản pháp lý liên quan đến
hoạt động NH. Cần xây dựng các tiêu chí về một NH hoạt động hiệu quả và phát triển
bền vững hướng tới thông lệ tốt nhất.
- Phân loại và chọn lọc NH: Theo các tiêu chí nêu trên, cần phải tiến hành rà soát
tất cả các NH để phân loại theo 2 nhóm:
+ Nhóm Ngân hàng thương mại (NHTM) năng lực tài chính hạn chế, luôn thiếu
thanh khoản: Nhóm NH này phải thu hẹp phạm vi kinh doanh, bán các tài sản không
phải hoạt động chính, thậm chí phải sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc bị loại bỏ nếu thu
hẹp phạm vi kinh doanh vẫn không hoạt động hiệu quả.
+ Nhóm NHTM không bị xếp vào nhóm yếu kém về năng lực tài chính và thanh
khoản: nhóm này vẫn phải tái cấu trúc theo tiêu chí pháp lý đưa ra, tái cấu trúc quản trị
nội bộ, quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế một cách minh bạch nhất.
- Thực hiện tái cấu trúc sở hữu vốn, công nghệ, nguồn nhân lực của
từng NH.
Trên đây là những bước tái cấu trúc NH, tuy nhiên để các bước trên thực hiện hiệu
quả thì sự giám sát cũng phải hiệu quả và chặt chẽ. Bên cạnh đó, cơ chế hợp nhất, sáp
nhập, mua lại NH cũng phải được xây dựng và hoàn thiện.
Trang 3
PHẦN 2: VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM

2.1 Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam:
Các NHTM Việt Nam (NHTM VN) đã và đang phải đối mặt với các vấn đề nghiêm
trọng do chất lượng tài sản kém, khó khăn về thanh khoản, chất lượng lợi nhuận thấp,
yếu kém về quản trị và quản lý rủi ro. Cụ thể như sau:
2.1.1 Về mặt số lượng
Tính đến 31/12/2012, hệ thống tín dụng Việt Nam có 5 NHTM nhà nước trong đó có
3 NH đã cổ phần hóa là Vietcombank, Vietinbank và BIDV; 35 NHTM cổ phần; 50 chi
nhánh NH nước ngoài; 5 NH 100% vốn nước ngoài; 4 NH liên doanh; 18 công ty tài
chính; 12 công ty cho thuê tài chính. (Nguồn: NHNN Việt Nam )
2.1.2 Về mặt chất lượng
Hệ thống NH Việt nam đã tăng trưởng mạnh kể cả về quy mô tài sản và số lượng các
NH. Tính đến cuối năm 2011, tổng huy động vốn trên địa bàn TP. HCM đạt 886.900 tỷ
đồng (tăng 10% so với cuối năm 2010), tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn đạt 753.760 tỷ
đồng (tăng 6,3% so với cuối năm 2010) (Nguồn số liệu: Bài viết của Phó Giám đốc
NHNN CN TP.HCM đăng tại tạp chí NH số 01+ 02 tháng 01/2012). Bên cạnh đó, chất
lượng hoạt động NH vẫn tồn tại những vấn đề sau:
 Hệ thống NH luôn nằm trong tình trạng mất cân đối giữa huy động và cho
vay, đe dọa an toàn thanh khoản
Nhìn vào cơ cấu kỳ hạn huy động vốn và cho vay của các NHTM ta sẽ thấy được
rủi ro thanh khoản của các NH. Ngoại trừ các NHTM lớn có vốn huy động dài hạn, các
NHTM nhỏ hầu như không có khoản tiền gửi trên 5 năm, đa số là các khoản tiền gửi 1
tháng đến 3 tháng. Các NHTM cho vay trung và dài hạn trong khi các khoản tiền gửi của
khách hàng lại tập trung vào các kỳ hạn ngắn từ 1-3 tháng sẽ khiến các NH có thể gặp
rủi ro thanh khoản.
Không chỉ mất cân đối về mặt thồi thời hạn, mà sự lệch pha giữa huy động và cho
vay còn thể hiện qua mức độ tăng trưởng trong đó tốc độ tăng trưởng huy động cao gấp
nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Theo số liệu từ phiên họp Chính phủ thường kỳ
Trang 4
tháng 8/2012, tính đến 20/8 so với 31/12/2011, dư nợ tín dụng toàn hệ thống ước tăng
1,4% và tổng huy động vốn tăng 11,23%.

 Tình trạng nợ xấu cao
Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành NH đến tháng 12 năm 2011 là 3,39%, tương
đương 85.300 tỷ đồng. Nếu so tỷ lệ nợ xấu công bố trên với thông lệ quốc tế, thì nợ được
coi là vẫn an toàn khi nằm trong ngưỡng không quá 5%, Tuy nhiên, theo chuẩn quốc tế,
hãng xếp hạng độc lập Fitch Rating đã đánh giá tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam lên tới 13%.
Nếu xét ở nhóm nợ có khả năng mất vốn và NH phải trích lập dự phòng rủi ro 100% thì
8 NH (VietinBank, Vietcombank, ACB, Sacombank, Eximbank, SHB, Habubank,
Navibank) có tỉ lệ nợ có khả năng mất vốn đến 8.293 tỉ đồng (Theo báo Thông tin
thương mại - Bộ Công thương, số ra ngày 26/12/2011).
.
Biều đồ2.1. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống Ngân hàng 2008 – 2012
(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)
Tỷ lệ nợ xấu tăng dần qua các năm, đặt biệt tăng nhanh trong 6 tháng đầu năm 2012,
cụ thể toàn hệ thống Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu khoảng 4,5% vượt qua ngưỡng an toàn
quy định của NNNH là 3%
 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu giảm
Mặc dù nhiều NH của Việt Nam đã đạt mức tỷ lệ đảm bảo vốn tự có tối thiểu
(Capital Adequacy Ratio “CAR”) trên 8% nhưng trên bình diện chung, tỷ lệ CAR này có
phần đươc tính theo những tiêu chí riêng của từng Ngân hàng, tạo nên sự khác nhau giữa
các NH. Quan trọng hơn, tỷ lệ này sẽ bị sụt giảm rất nhanh nếu như hạch toán đúng dự
Trang 5
phòng cho các khoản nợ xấu (NPL). Lý do là chất lượng tài sản suy giảm làm cho chi
phí dự phòng gia tăng, làm ăn mòn lợi nhuận lũy kế và từ đó giảm vốn tự có.
 Tình hình cơ cấu tài sản “Có” của các tổ chức tín dụng thiếu bền vững
Hoạt động tín dụng vẫn là lĩnh vực mang lại doanh thu chủ yếu cho NH, doanh thu
từ các hoạt động dịch vụ khác chiếm tỷ trọng thấp. Tài sản tín dụng chiếm tỷ trọng tới
56,1%; đầu tư trên thị trường liên NH chiếm 18,6%; đầu tư vào tín phiếu và các chứng
khoán của Chính phủ chỉ 5,2% và chủ yếu tập trung tại các NHTM nhà nước và một số ít
NHTM cổ phần lớn;Ngoài ra, năm 2010 và năm 2011 vừa qua cũng có sự chuyển dịch
lớn từ khoản mục cho vay sang hình thức đầu tư chứng khoán và tài sản có khác bởi các

NHTM (chủ yếu là các NHTM nhỏ, hoạt động chủ chốt là từ tín dụng) bị hạn chế bởi
mức trần tăng trưởng tín dụng và tránh né phải trích lập dự phòng nếu hạch toán là cho
vay. Tuy nhiên thực chất các khoản này mang tính chất và rủi ro như các khoản nợ thông
thường dẫn đến tỷ lệ nợ xấu công bố của NHTM chưa đủ để phán ánh đúng chất lượng
tài sản của NH.
 Nhiều NH có vấn đề quản trị doanh nghiệp rất yếu
Các cổ đông lớn nắm quyền chi phối có thể biến tướng rất nhiều để cho vay những
lĩnh vực rủi ro cao hoặc cho vay chéo chính những công ty con của mình. Mặc dù
NHNN có quy định rất chặt chẽ trong việc cho vay với doanh nghiệp là cổ đông nhưng
họ lại tìm cách lách luật, làm cho rủi ro của những NH này cả về ngắn hạn lẫn dài hạn là
rất lớn.
 Không đồng đều về quy mô của từng đơn vị lại cùng hoạt động chung
NH loại nhỏ thường là ngân hàng mới và tăng vốn theo quy định, vì vậy nhu cầu mở
rộng mạng lưới, tổng tài sản cũng tăng tương ứng. Rủi ro lớn của những NH này là cho
dù trụ sở chính đặt ở đâu thì cũng tập trung ở những đô thị lớn để mở chi nhánh, phòng
giao dịch. Điều này làm cho mức độ cạnh tranh rất khốc liệt và không lành mạnh. Thay
vì cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ thì các NH lại cạnh tranh bằng lãi suất, dẫn đến
các cuộc chạy đua lãi suất trong những năm gần đây. Gây ảnh hưởng rất lớn tới mặt bằng
lãi suất trên thị trường. Tuy nhiên từ năm 2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đưa ra
quy đinh về trần lãi suất, đồng thời có những biện pháp cưỡng chế áp dụng mạnh mẽ nên
mặt bằng lãi suất hiện nay là tương đối đồng đều.
2.1.3 Môi trường pháp lý, sự quản lý và giám sát của NHNN
Trang 6
Để đảm bảo tính an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, ngày 20/05/2010
NHNN đã ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (có hiệu lực từ 01/10/2010), trong đó hệ số an
toàn vốn tối thiểu được điều chỉnh từ 8% lên 9%. Việc điều chỉnh này nhằm tiến thêm
một bước trong việc tuân thủ 25 nguyên tắc thanh tra cơ bản của Ủy ban Basel. Đây
cũng là thời điểm Nghị định 141/2006/NĐ-CP quy định các NHTM phải tăng vốn điều
lệ lên tối thiểu là 3.000 tỷ đồng.

Đối với công cụ lãi suất, NHNN đã nhiều lần điều chỉnh các loại lãi suất chủ chốt.
Theo đó, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh lên 15%, và lãi suất tái chiết khấu hiện ở
mức 13%. Để các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc trần lãi suất huy động vốn 14%
theo Thông tư 02/2011/TT-NHNN ngày 03/03/2011, NHNN đã ban hành Chỉ thị
02/2011/CT-NHNN ngày 7/9/2011, với nội dung sẽ xử lý nghiêm các tổ chức tín dụng
không thực hiện đúng trần lãi suất huy động vốn.
NHNN tiếp tục ban hành Thông tư 30/2011/TT-NHNN (28/09/2011) quy định trần
lãi suất 6% đối với tiền gửi thanh toán và tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 tháng. Mục đích khi
ban hành Thông tư này nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản cho các Tổ chức tín dụng
(TCTD) khi các TCTD cạnh tranh huy động vốn kỳ hạn ngắn.
Ngoài ra, gần đây (11/11/2011), NHNN đã ban hành Thông tư 35/TT-NHNN quy
định việc công bố và cung cấp Thông tin của NHNN. Theo đó, nhiều Thông tin quan
trọng về hoạt động NH sẽ được NHNN chính thức công bố, trong đó có 5/12 chỉ số cốt
lõi của IMF bao gồm: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, dư nợ của
từng lĩnh vực trong tổng dư nợ, chỉ số ROA (lợi nhuận trên tài sản) và ROE (lợi nhuận
trên vốn đầu tư) của hệ thống NH Việt Nam.
Đặc biệt từ 1-1-2011, Luật NHNN (sửa đổi) có hiệu lực đã trao cho NHNN thẩm
quyền, tính tự chủ phù hợp với các qui định chung của một NHTW. Đối với các NHTM,
Luật các TCTD sửa đổi đã tiếp cận với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, tăng cường
tính an toàn trong hoạt động của các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng.
2.2 Thực tiễn phương thức tái cấu trúc hệ thống NHTM tại VN
Từ thực tế đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nhanh chóng cơ cấu lại sự hoạt động của hệ
thống NHTM Việt Nam nhằm lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh, tránh nguy cơ
khủng hoảng tài chính quốc gia. Trong tháng 11 và tháng 12 năm 2011, NHNN đã xây
Trang 7
dựng và trình thủ tướng Chính phủ, báo cáo Bộ Chính trị Đề án tổng thể tái cấu trúc hệ
thống NH giai đoạn 2011 – 2015 với quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp và
lộ trình cụ thể như sau:
2.2.1 Về quan điểm
Thực hiện Cương lĩnh Đại hội lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng lần

thứ XI, Hội nghị Trung ương 3, ngày 9/11 Chính Phủ đã ban hành Nghị quyết số 98/NQ-
CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2011 trong đó nêu rõ: Chính phủ yêu
cầu NHNN chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng đề án
tái cơ cấu hệ thống NHTM, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11/2011. Và theo
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, tái cơ cấu lại hệ thống NH là một việc cấp bách
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giai đoạn phát triển mới, góp phần giải quyết những
tồn tại vướng mắc của hệ thống NH thời gian qua, bảo đảm hệ thống NH có đầy đủ năng
lực vươn lên đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu giai đoạn phát triển mới.
Như vậy tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc lại một số lĩnh vực kinh tế trọng điểm
trong đó có hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính là chủ trương nhất quán từ đầu năm
2011 đến nay của Đảng và Nhà nước.
2.2.2 Về mục tiêu và nguyên tắc
Về mục tiêu, tái cơ cấu nhằm 4 mục tiêu: (i) Phải làm lành mạnh hệ thống NH; (ii)
Phải làm cho hệ thống NH có đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước, trong môi trường
thế giới hết sức biến động. (iii) Phải cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống NH để
đảm bảo giữa cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế một cách hợp lý. (iv)
Phải làm sao đáp ứng được hệ thống NH của chúng ta ngoài việc có tình hình tài chính
lành mạnh nhưng cũng phải hòa nhập và có sức cạnh tranh với quốc tế.
Về nguyên tắc, phải hết sức thận trọng, làm đến đâu chắc đến đó, đảm bảo không để
xảy ra đỗ vỡ, rối loạn và mất an toàn hoạt động NH ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ
và NHNN. Tiết giảm tối đa chi phí và tổn thất bằng cách dùng các TCTD có quy mô lớn
hơn, lành mạnh hơn tham gia vào quá trình tái cấu trúc các TCTD quy mô nhỏ trên
nguyên tắc tự nguyện và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, người đang thụ
hưởng các dịch vụ NH.
Trang 8
2.3 Lộ trình tiến hành
NHNN đã đưa ra lộ trình và thời gian thực hiện cụ thể như sau:
 Đến quý I/2012, phải hoàn thành xong 2 nội dung: định hình rõ 3 nhóm NH và
giải quyết tốt những vấn đề thanh khoản của những NH yếu kém. Tiêu chí phân nhóm
NH được xác định như sau:

- Nhóm thứ nhất, gồm các NH có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực, có
quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những NH làm trụ cột trong hệ thống NHTM
trong thời gian tới cũng như vươn lên đủ sức cạnh tranh với khu vực và quốc tế. Nhóm
NH này dự kiến sau 5 năm từ nay đến năm 2015 Việt Nam có khoảng 15 tổ chức tín
dụng như vậy. 15 tổ chức tín dụng này sẽ phải chiếm tới khoảng 80% thị phần hoạt động
của hệ thống NH. Trong 15 tổ chức tín dụng đó chúng ta cố gắng đạt được từ 1-2 tổ chức
có tầm cỡ của khu vực và quốc tế.
- Nhóm thứ hai, là nhóm các NH có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có quy
mô còn nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện để phát triển quy mô cao hơn
nữa. Đối với các NH loại này, NHNN sẽ có những quy định để đảm bảo quy mô hoạt
động trong tầm kiểm soát phù hợp với năng lực của tổ chức tín dụng và cũng có những
quy định để đảm bảo sự phân khúc của thị trường cho các tổ chức tín dụng này có thể
phát huy được nhưng trên nền tảng hoạt động an toàn và hiệu quả.
- Nhóm thứ ba, là nhóm NH đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải được
tái cấu trúc lại. Đối với nhóm các tổ chức tín dụng này, NHNN sẽ thông qua các biện
pháp như thay đổi lại cổ đông, nâng cao năng lực của cổ đông hoặc cho các tổ chức tín
dụng trong nước khác tham gia cổ đông, mua lại hoặc sáp nhập vào các tổ chức tín dụng
khác. Theo phương châm không để tổ chức tín dụng nào đổ vỡ, đảm bảo tối đa quyền lợi
của người gửi tiền và khách hàng của NH.
 Từ quý II/2012 đến hết năm 2013, sẽ hoàn thành việc tái cấu trúc lại các NH
thuộc nhóm III.
 Từ năm 2013 đến năm 2015 tập trung vào việc nâng cao các hiệu quả an toàn,
việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và củng cố xây dựng. Đến năm 2015, hệ thống NH
Việt Nam sẽ tiếp tục được tái cấu trúc và khi đó số lượng các NH có khả năng tham gia
cạnh tranh trong khu vực có thể nâng lên đến 4 NH.
Trang 9
2.4 Tiến độ và tình hình thực hiện đến thời điểm hiện tại
2.4.1 Định hình rõ 3 nhóm NH và giải quyết tốt những vấn đề thanh khoản
của những NH yếu kém: Theo Lộ trình đến quý I/2012 sẽ hoàn thành.
 Về việc giải quyết các vấn đề thanh khoản của các NH yếu kém

- Hỗ trợ thanh khoản kịp thời các NH đang có vấn đề về thanh khoản:Trước sự
thiếu hụt thanh khoản tạm thời của một số NH nhỏ, ngày 18/10/2011 NHNN cho biết sẵn
sàng hỗ trợ thanh khoản nhằm đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, an toàn của từng tổ
chức tín dụng cũng như cả hệ thống. Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (thuộc NHNN)
cho biết, dịp tết năm 2011, NHNN đã quyết định bơm một lượng tiền lớn ra thị trường và
kịp thời rút tiền về ngay sau tết thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
- Hỗ trợ thanh khoản thông qua hệ thống NH quốc doanh và các NH cổ phần lớn
trong thị trường: Song song với việc hỗ trợ của NHNN đối với các TCTD thiếu hụt
thanh khoản, các NH lớn như BIDV, Vietinbank, Agribank,… cũng có những cam kết
hỗ trợ thanh cho các NH nhỏ khác. Điển hình như sau:
 Ngày 28/10/2011, NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cam kết hỗ trợ
trong hạn mức 3.000 tỷ đồng cho BacAbank và 5.000 tỷ đồng cho GP Bank trong lĩnh
vực nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ. Hạn mức này sẽ được điều chỉnh theo quy định và
khả năng của BIDV vào thời điểm hỗ trợ.
 Vietcombank cho biết, từ trung tuần tháng 10/2011 cho đến nay đã hỗ trợ thanh khoản
và vốn cho một số NHTM cổ phần nhỏ ở trong tình trạng rất khó khăn về thanh khoản.
 Về Công tác phân nhóm các NH:
NHNN đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống chấm điểm để xếp hạng
phân nhóm NH và NHNN sẽ thực hiện phân loại cụ thể các nhóm NH trong Quý I/2011.
Thông tin về sự phân nhóm này vẫn chưa được NHNN công bố rộng rãi vì nhiều lý do, một
trong những lý do là nhằm tránh tâm lý gây tâm lý hoang mang, hành động đổ xô rút tiền
trong dân chúng khi đang có tiền gửi tại Ngân hàng nhóm 3; điều này sẽ làm ảnh hưởng lớn
đến quá trình tái cấu trúc.
Trang 10
2.4.2 Tái cấu trúc lại các NH thuộc nhóm 3: Theo lộ trình sẽ thực hiện đến
hết năm 2013.
- Ngày 11/02/2010, Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy định việc sáp nhập, hợp
nhất, mua lại tổ chức tín dụng được NHNN ban hành. Cuối tháng 10/2011, NHNN phát
đi thông điệp khuyến khích các tổ chức tín dụng tự nguyện tìm hiểu lẫn nhau để mua lại,
sáp nhập, hợp nhất.

- Trong tháng 12/2011, đã có ba NH đầu tiên tự nguyện hợp nhất đó là NH cổ phần
Đệ Nhất (Ficombank), NH TMCP Sài Gòn (SCB) và NH TMCP Việt Nam Tín Nghĩa:
 Trước khi hợp nhất, 3 NH này đã có những thiếu hụt thanh khoản tạm thời do cho
vay chủ yếu là trung và dài hạn, trong khi nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn.
NHNN và một số NH khác đã hỗ trợ vốn nên tạm thời qua giai đoạn khó khăn. NHNN
đã chỉ định NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tham gia hỗ trợ toàn diện 3 NH
này ngay từ đầu trong quá trình hợp nhất và góp phần nâng cao khả năng tài chính, quản
trị kinh doanh sau hợp nhất.
 Sau hợp nhất, để đảm bảo yêu cầu thanh khoản, NH SCB "mới" có thể đề nghị
NHNN và BIDV cho vay khoản vay đặc biệt theo quy định của pháp luật. Về hoạt động,
sau khi hợp nhất, theo đề án, NH mới sẽ áp dụng hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm
toán nội bộ của SCB cho SCB “mới”; hợp nhất hệ thống thông tin quản lý và hệ thống
truyền dữ liệu SmartBank tiến tới sang hệ thống Corebanking T24 hoặc Flexcube tùy
tình hình thực tế. Ngay sau thời điểm việc hợp nhất có hiệu lực, toàn bộ các lao động có
ký hợp đồng lao động với ba NH trước đó sẽ trở thành lao động của SCB “mới”.
- Thực tế hoạt động NH khá phức tạp, có nhiều quyền lợi đan xen trong nội bộ,
chưa kể cách điều hành, văn hóa của mỗi NH khác nhau. Do vậy, để việc hợp nhất thành
công đòi hỏi phải có lộ trình, thời gian thực hiện để tạo tiếng nói chung.
Trang 11
PHẦN 3: GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1 Một số giải pháp
Đã hơn một năm trôi qua kể từ thời điểm Việt Nam quyết tâm tái cơ cấu mạnh mẽ
hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình này mới chỉ đạt được một số thành công nhất
định… Căn cứ vào đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-
2015, ban hành cùng Quyết định 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 1/3/2012.
Và qua việc đánh giá tình hình hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, bài viết của
nhóm em nêu ra một số giải pháp trọng tâm để tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng Việt Nam đạt hiệu quả.
3.1.1 Tập trung giải quyết vấn đề nợ xấu

Đối với bối cảnh kinh tế Việt Nam cũng như tình hình tài chính của các TCTD hiện
nay, giải pháp cấp bách đầu tiên là phải “phá băng” nợ xấu… Tìm lời giải hữu hiệu cho
“bài toán” nợ xấu là vấn đề đặt ra không chỉ với nền kinh tế Việt Nam hiện nay mà còn
là thách thức của toàn bộ hệ thống tài chính – tiền tệ. Để xử lý hiệu quả nợ xấu của các
ngân hàng thương mại, việc đưa ra biện pháp kiên quyết, phù hợp từ Nhà nước và chính
bản thân các ngân hàng là rất quan trọng và cần thiết.
Thực tế hiện nay kênh dẫn vốn cho nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào ngân
hàng khi ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng chiếm đến 75% tổng tài sản của khu
vực tài chính. Kể từ năm 2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, tác động sâu
sắc đến kinh tế Việt Nam, tình trạng nợ xấu của các NHTM trong nước bắt đầu tăng lên.
Trải qua khó khăn của năm 2011, 2012 khiến nợ đọng của DN sản xuất kinh doanh tăng
thêm, bên cạnh đó, sự “đóng băng” của thị trường bất động sản đã làm gia tăng tỷ lệ nợ
xấu trong toàn hệ thống ngân hàng.
Ngoài rủi ro khách quan mang lại, nợ xấu tồn tại trong chính yếu kém của không ít
ngân hàng (do năng lực thẩm định có hạn, do năng lực quản trị hạn chế, do rủi ro đạo
đức từ một số cá nhân ). Nhiều ngân hàng đã cho vay thiếu chọn lọc, lại có những giải
pháp như “khoanh nợ”, “đảo nợ” cho DN. Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước, đến
giữa năm 2012, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống lên tới 8,6%, thậm chí cao hơn. Bởi vậy, để
tái cơ cấu ngân hàng thành công, việc tháo gỡ nút thắt nợ xấu hiện nay đóng vai trò rất
Trang 12
quan trọng, thậm chí mang tính quyết định. Trước khối lượng nợ xấu lớn như hiện nay,
giải pháp khả thi là phải “phá băng” được với thị trường bất động sản, giải quyết hàng
tồn kho cho DN, giảm tỷ lệ nợ xấu của DN - giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ngân hàng, kết hợp
với chính sách mua nợ xấu, xử lý nợ xấu dứt điểm từ phía Nhà nước. NHNN rất cần có
chính sách kiểm soát để các NHTM phải nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất
lượng tín dụng và giảm nợ xấu. Tập trung xử lý nợ xấu của các NHTM nhà nước để sớm
làm sạch bảng cân đối của NHTM nhà nước; phấn đấu đạt tỷ lệ nợ xấu của các NHTM
về dưới 3% theo tiêu chuẩn phân loại nợ và chuẩn mực kế toán của Việt Nam.
Đơn vị: tỷ đồng
Biểu đồ3.1 Tình hình nợ xấu trong 6 tháng cuối năm 2011

Nợ xấu tại thời điểm 30/6 và 1/1/2012. Vietcombank, Vietinbank là "quán quân"
nợ xấu trong số các ngân hàng niêm yết, chiếm 70% nợ xấu trong khối ngân hàng niêm
yết
Không thể phủ nhận vai trò của Công ty mua bán nợ (DATC) thuộc Bộ Tài chính,
nhưng một số ý kiến chuyên gia cũng khẳng định, thực tế DATC trong 10 năm qua chỉ
giải quyết được 5.000 tỷ đồng nợ xấu, một con số rất nhỏ. Trong khi đó, việc xử lý nợ
xấu hiện nay cần nhanh, mạnh, dứt khoát để ngân hàng có thể mở lại tín dụng.
Theo Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng (thuộc NHNN), để đảm bảo xử lý
nhanh nợ xấu, khơi thông vốn cho nền kinh tế cần thành lập công ty quản lý tài sản thuộc
Trang 13
NHNN (VAMC) để hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu. VAMC là một doanh nghiệp đặc biệt
do Thủ tướng Chính phủ thành lập, được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên 100% vốn Nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi,
không vì mục tiêu lợi nhuận và chịu sự quản lý, giám sát trực tiếp của NHNN. VAMC
thực hiện mua, tiếp nhận các khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm bằng tài sản, chủ yếu là
bất động sản. TCTD bán nợ được thanh toán bằng trái phiếu VAMC hoặc bằng công cụ
nợ đặc biệt tuỳ theo phương thức mua bán nợ được thoả thuận giữa VAMC và TCTD
bán nợ. VAMC chủ yếu thanh toán các khoản nợ mua từ các TCTD bằng trái phiếu và
công cụ nợ do VAMC phát hành, do đó lượng tiền thực đầu tư cho VAMC không lớn.
Hiện nay, Chính phủ vẫn chưa thông qua quyết định thành lập VAMC, Theo Bộ
trưởng, Chính phủ băn khoăn công ty này được thành lập thì nợ xấu của doanh nghiệp
liệu có được giải quyết không, bởi đề án mới chủ yếu dừng ở việc xử lý nợ xấu các ngân
hàng. Tuy nhiên, người phát ngôn của Chính phủ cho biết không phải khi VAMC ra đời
thì nợ xấu mới được xử lý, mà hiện tại đã và đang xử lý các khoản nợ này.
3.1.2 Phân nhóm NH
Trong thời gian tới, NHNN phải nhanh chóng hoàn thiện về hệ thống xếp hạng phân
nhóm NH (nhóm I, II, III theo như lộ trình đã định ra) để đưa vào áp dụng thực tế. Điều
này thực sự rất quan trọng bởi đây cũng chính là cơ sở nhằm đánh giá và nhận diện NH
nào đang gặp phải vấn đề để nhanh chóng có những biện pháp cụ thể đối với từng NH và
từng nhóm NH, tránh trường hợp có NH quá yếu kém nhưng vẫn để tồn tại dẫn đến hàng

loạt tổn hại mới bắt đầu chấn chỉnh.
Để xây dựng và đánh giá chính xác từng tiêu chí chấm điểm trong hệ thống phân
loại NH không phải là vấn đề đơn giản, mà cần phải có sự tư vấn của các tổ chức xếp
hạng chuyên nghiệp (E&Y, Fitch, Moody’s, S&P ). Trong đó, NHNN cần chú ý đến
nhóm yếu tố năng lực quản trị điều hành của TCTD, bao gồm thêm các nội dung sau
(tham khảo theo hệ thống xếp hạng tín dụng của Moody’s và Fitch):
 Cơ cấu cổ đông trực tiếp và gián tiếp: Có minh bạch hay không, có sự ảnh hưởng
của nhóm cổ đông lớn vào quyền kiểm soát NH để phục vụ cho mục đích, quyền lợi, lĩnh
vực hoạt động riêng hay không.
 Đánh giá tính độc lập của Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát (BKS), Ban
điều hành (BĐH) đối với các nhóm cổ đông lớn và trong việc ra quyết định.
Trang 14
 Trình độ, khả năng lãnh đạo và hoạch định của HĐQT, BĐH.
 Quy mô, mục đích giao dịch với các bên liên quan: HĐQT, BĐH, công ty con ,
công ty liên doanh liên kết…
 Cơ cấu tổ chức của NH.
 Mục tiêu chiến lược đưa ra trong các năm tới liệu có phù hợp, có khả thi và cụ thể
hay không.
Ngoài ra còn phải xét đến các tiêu chí khác như: mức độ tập trung tín dụng theo
ngành, tính ổn định của thu nhập, quy mô hoạt động, thị phần, mạng lưới, hệ thống Công
nghệ thông tin (CNTT), hệ thống kiểm soát nội bộ, khả năng nhận hỗ trợ từ cổ đông…
3.1.3 Ổn định và hỗ trợ thanh khoản
3.1.3.1 Kiểm soát đặc biệt
Căn cứ vào các xếp loại phân nhóm NH, các dấu hiệu bất thường để xác định ngay
NH nào đang bắt đầu có “vấn đề” nào, từ đó mới có những biện pháp chấn chỉnh, kiểm
soát kịp thời để hạn chế tối đa những tổn thất, ngăn chặn ngay tình trạng là “khi tình
hình diễn biễn quá mức tồi tệ thì mới phát hiện và bắt đầu kiểm soát”.
NHNN có thể thực hiện nhiều biện pháp xử lý như: hạn chế tăng trưởng tín dụng;
yêu cầu các NH điều chỉnh cơ cấu tài sản, nguồn vốn; tăng vốn; “cho vay đặc biệt” để ổn
định thanh khoản, thành lập ban kiểm soát đặc biệt để giám sát và đưa người vào kiểm

soát các hoạt động của NH, kiểm soát các nguồn giải ngân mới để hạn chế tổn thất và nợ
xấu phát sinh thêm, kiểm soát các khoản chi (chi trả lãi, cổ tức, lương thưởng…) để ưu
tiên trả nợ cho khách hàng, hạn chế việc tẩu tán tài sản của các cá nhân trục lợi, hạn chế
mở chi nhánh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực trong một thời gian.
3.1.3.2 Hỗ trợ thanh khoản thông qua hệ thống NHTM nhà nước và các NH
cổ phần lớn trong thị trường
Để tránh “hiện tượng domino” trong thị trường tài chính, NHNN có thể thực hiện hỗ
trợ thanh khoản cho các NH yếu thông qua hệ thống NHTM quốc doanh và NHTM cổ
phần lớn.
Việc hỗ trợ thanh khoản không chỉ thông qua hệ thống NH quốc doanh mà còn có
thể nhờ vào khối NHTM cổ phần lớn ngoài quốc doanh (ACB, Sacombank,
Eximbank…). Không chỉ tiết giảm chi phí, việc huy động khối tư nhân tham gia quá trình
Trang 15
tái cơ cấu còn giúp giảm rủi ro. Việc một NHTM cổ phần quốc doanh đứng ra hỗ trợ
thanh khoản cho quá nhiều NH yếu là không nên, có thể kéo theo rủi ro cho cả hệ thống
và không giải quyết được tận gốc vấn đề. NHNN cũng phải xem xét đưa ra các chính
sách ưu đãi đối với các NH TMCP ngoài quốc doanh này để khuyến khích họ tự nguyện
hỗ trợ cho các NH yếu.
3.1.4 Thúc đẩy hoạt động M&A, nâng cao khả năng tự chủ tài chính của ngân
hàng
Đây là lối thoát cho ngân hàng yếu kém. Giai đoạn 2010-2012, tuy hoạt động mua
bán sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam không có sự gia tăng đáng kể về mặt lượng, nhưng
đã tiến một bước dài với giá trị mỗi thương vụ. Thương vụ Mizuho mua 15% cổ phần
VietcomBank trị giá 567,3 triệu USD là thương vụ có giá trị lớn nhất năm 2011. Năm
2012 khép lại với thương vụ đạt giá trị kỷ lục 743 triệu USD cho 20% cổ phần
VietinBank do Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ mua lại. Năm 2012 cũng chứng kiến vụ
sáp nhập giữa ngân hàng SHB (NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội) và Habubank
(NHTM cổ phần Nhà Hà Nội), bên cạnh việc TienPhongBank bán cổ phần cho Tập
đoàn DOJI. Trước đó, năm 2011, ba ngân hàng: Ficombank, TinNghiaBank, SCB đã
hợp nhất thành Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB).

Có thể thấy, hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất thực sự đã giúp hệ thống ngân
hàng trở nên lành mạnh hơn. Habubank từ một ngân hàng trong diện bắt buộc phải tái cơ
cấu, sau khi sáp nhập, thì ngân hàng SHB mới đã trích lập hết các khoản dự phòng rủi ro
cho Habubank và đến quý 4/2012, đã bắt đầu có lãi. Hay TienPhongBank, cũng từ một
ngân hàng yếu kém phải tái cơ cấu, sau khi được DOJI “chống chân”, TienPhongBank
đã hoạt động mạnh trở lại với mức tăng trưởng tín dụng đạt 15%, huy động tăng 28% và
nợ xấu xuống dưới 5%. Còn ngân hàng SCB sau 1 năm hợp nhất, đã có lãi xấp xỉ 82 tỷ
đồng trong năm 2012.
Vì thế, việc tăng nhanh quy mô và năng lực tài chính thông qua tăng vốn để bảo
đảm đủ mức vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel II đến năm 2015 thông qua
phát hành cổ phiếu bổ sung và nguồn vốn từ Chính phủ; Mua lại, sáp nhập TCTD và mở
rộng nguồn vốn huy động.
Các ngân hàng muốn nâng cao khả năng tự chủ tài chính thì trước hết phải tăng vốn
chủ sở hữu. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà chi tiêu ngân sách thắt chặt và thị trường
Trang 16
chứng khoán chưa sớm khởi sắc thì giải pháp sáp nhập, hợp nhất và mua lại lẫn nhau
trong hệ thống ngân hàng được coi là phương án tối ưu. Trước hết, cần khuyến khích các
ngân hàng chủ động sáp nhập theo nguyên tắc thị trường trong thời hạn nhất định. Nếu
các ngân hàng không chủ động sáp nhập thì NHNN cần phân tách và sáp nhập theo các
nhóm: Nhóm 1 bao gồm các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ, thường xuyên mất thanh
khoản, cần sáp nhập với các ngân hàng có quy mô lớn hơn, có tính thanh khoản tốt nhằm
đảm bảo hệ số an toàn về vốn và các hệ số thanh khoản khác; Nhóm 2 bao gồm các ngân
hàng có quy mô vừa và nhỏ, có tính thanh khoản trung bình thì cần thu hep phạm vi cho
phù hợp với quy mô nhằm nâng cao chuyên môn hóa và khả năng quản trị rủi ro; Nhóm
3 bao gồm những ngân hàng có quy mô lớn, có năng lực quản lý tốt, cơ cấu tài sản lành
mạnh thì tạo cơ hội để phát triển thành ngân hàng trọng điểm, sẽ là trụ cột đủ sức cạnh
tranh với khu vực và chịu đựng cho nền kinh tế khi có những biến động lớn trên thị
trường.
Trong điều kiện ổn định thì cần nâng cao vốn chủ sở hữu trên cơ sở lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh và hoàn thiện chính sách phân phối lợi nhuận cho phù hợp với đặc

điểm kinh doanh của mỗi ngân hàng. Trường hợp cần thiết có thể hạn chế NHTM cổ
phần chia cổ tức, lợi nhuận; kiểm soát chặt chẽ việc chuyển nhượng cổ phần, vốn góp và
tài sản của NHTM cổ phần; giảm dư nợ tín dụng và hạn chế mở rộng quy mô hoạt động.
Để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, thì M&A là một trong những giải pháp đạt hiệu
quả cao nếu biết sử dụng đúng cách. Trên cơ sở nhìn nhận hiệu quả trong quá trình
M&A, đưa ra các giải pháp cụ thế như:
Thứ nhất, về phía Chính phủ: Có thể nói, tại thời điểm hiện nay, NHNN và cả các
ngân hàng đang rất lúng túng trong việc thực hiện giải pháp này do chưa có một hành
lang pháp lý rõ ràng. Chính vì thế, Chính phủ và các cơ quan có liên quan cần sớm ban
hành những văn bản luật phù hợp, không chồng chéo để đảm bảo an toàn cho các ngân
hàng khi tham gia hoạt động mua bán và sáp nhập.
Thứ hai, về phía các NHTM cổ phần: Lãnh đạo ngân hàng cần phải chủ động trong
việc sáp nhập. Đầu tiên, họ cần xác định rõ hướng đi của ngân hàng mình có nên tham
gia hoạt động M&A hay không? Sau đó, nếu đã xác định rõ, ngân hàng cần chủ động
đưa thông tin chính xác, tìm kiếm đối tác có cùng định hướng giống ngân hàng mình.
Trang 17
Thứ ba, về phía NHNN: Phải có bộ số liệu chính xác về các ngân hàng trong hệ
thống. Đặc biệt, với chức năng quản lý, NHNN cần cập nhập liên tục các thông số tài
chính của các ngân hàng, đồng thời cố gắng xây dựng mô hình định giá thương hiệu
ngân hàng. Nếu có thể, NHNN có thể tư vấn, “se duyên” các NHTM cổ phần có định
hướng sáp nhập có thể nhanh chóng tiếp cận với nhau.
3.1.5. Cân đối nguồn vốn huy động của NH
Hiện nay NHNN có áp dụng các quy định tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn
tối đa không vượt quá 30%, tỷ lệ cho vay trên huy động không vượt quá 80% (thông tư
33/2011-TT/NHNN đã bỏ khoản mục này tuy nhiên dự thảo thông tư mới có đưa vào tỷ
lệ này), tuy nhiên, các quy định này chỉ thực sự phát huy tính hiệu quả khi bản thân NH
biết cơ cấu và ổn định nguồn vốn của mình như:
- Cân đối các tỷ trọng và kỳ hạn nguồn vốn trong tổng nguồn vốn sao cho chù hợp,
hạn chế tình trạng dựa dẫm quá nhiều vào nguồn vốn ngắn hạn và vốn huy động trên thị
trường II.

- Phân bổ mạng lưới hợp lý để huy động tối đa nguồn tiền gửi từ dân cư.
- Phát hành trái phiếu/ giấy nợ trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
- Cân đối tài sản với nguồn vốn, hạn chế việc sử dụng nguồn vốn huy động tràn lan
và đầu tư cho vay dài hạn nhưng không cân nguồn.
- Đầu tư vào các công nghệ tiên tiến nhằm quản lý hiệu quả rủi ro thanh khoản
nhằm quản lý dòng tiền, quản lý thanh khoản và cân đối sử dụng vốn.
Tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả.
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện được
các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng như các mục tiêu kinh doanh
của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Đối với các NHTM với tư cách là
một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có
một vai trò hết sức quan trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu lãi. Nhưng để
cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ bên
ngoài. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn đáp ứng đầy đủ nhu
cầu kinh doanh của mình. Có thể nói hoạt động huy động các nguồn khác nhau trong xã
hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM.
Thực tế cho thấy tiềm năng huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư là rất lớn vì tỷ lệ thanh toán
bằng tiền mặt hiện nay còn rất cao. Vì vậy, tăng cường huy động vốn sẽ giúp cho các
Trang 18
ngân hàng phát triển ổn định. Bên cạnh đó, cần chú trọng tăng huy động vốn trung và dài
hạn thông qua kênh phát hành các công cụ tài chính. Trên thị trường tài chính trong
nước, có thể phát hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi - Đây là hình thức huy động
vốn linh hoạt vì sẽ chủ động được kỳ hạn và quy mô vốn. Trên thị trường tài chính quốc
tế có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu vì với xu thế hội nhập thì thị trường ngân hàng
trong nước là địa điểm đầu tư khá hấp dẫn đối với NHTM nước ngoài.
Từ năm 2013 đến năm 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tập trung vào nâng cao
các hiệu quả an toàn, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và củng cố, nâng chất hoạt động
quản trị. Đặc biệt, Chính phủ sẽ tập trung xây dựng các nhóm ngân hàng lành mạnh, có
đủ sức làm trụ cột cho hoạt động ngân hàng trong nước và phấn đấu để có thể có từ 1-2

ngân hàng đạt tiêu chuẩn khu vực.
Về sử dụng vốn, không nên đặt mục tiêu tín dụng là hoạt động chủ yếu trong sử dụng
vốn của ngân hàng vì có nguy cơ rủi ro, làm cho thu nhập của ngân hàng giảm sút do bị
thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay vì canh tranh gay gắt. Do
vậy, nên mở rộng hình thức sử dụng vốn khác như thuê mua tài chính, liên doanh liên
kết, bao thanh toán, tài trợ xuất khẩu, bảo lãnh cho các công ty phát hành trái phiếu dài
hạn…
3.1.6. Nâng cao khả năng quản trị điều hành của NH và các yếu tố nội tại khác
Bên cạnh việc cơ cấu vốn, tài sản thì một vấn đề hết sức quan trọng và là nền tảng
định hướng NH hoạt động và phát triển đó là “Quản trị điều hành”. Theo như các đánh
giá của Fitch và Moody’s dành cho hệ thống NHTM VN, trong đó có sự yếu kém khá
lớn về mặt quản trị điều hành. Các yếu tố này chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu chấm
điểm và hầu hết là vấn đề tồn tại được nhấn mạnh ở các thị trường mới nổi trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Việc nâng cao khả năng quản trị điều hành trong NHTM hết sức
quan trọng bởi đó là đầu tàu định hướng và dẫn đường cho NH ngày càng phát triển và
hoạt động bền vững. Bên cạnh đó còn có những yếu tố khác cần phải được NHTM chú
trọng xây dựng và phát triển để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của chính NH.
Các nội dung cần được phải xem xét trong nhóm giải pháp này, đó là :
- Cơ cấu tổ chức từ cơ quan cao nhất đến thấp nhất rõ ràng minh bạch. Ủy quyền
phân cấp rõ ràng và đảm bảo khả năng kiếm soát chéo.
Trang 19
- Lựa chọn các thành viên có đủ khả năng và trình độ chuyên môn vào vị trí thuộc
HĐQT, BĐH, BKS.
- Đảm bảo đủ số lượng và chất lượng hoạt động của các thành viên độc lập thuộc HĐQT.
- Chú trọng đầu tư phát triển hoàn thiện cơ chế quản lý rủi ro.
- Đầu tư hoàn thiện hệ thống Kiểm soát nội bộ.
- Đầu tư nâng cao chuyên môn cho nhân viên.
- Đầu tư phát triển hệ thống CNTT
- Đầu tư phát triển sản phẩm dịch vụ, mạng lưới…
- Tận dụng ưu thế về nhân sự, kỹ thuật, quản lý rủi ro từ phía các cổ đông chiến

lược / tổ chức tư vấn bên ngoài.
- Định hướng phát triển cụ thể, rõ ràng và khả năng thực thi cao…
3.1.7 Quyết tâm thực hiện đúng lộ trình tái cơ cấu hợp lý
Hoạt động tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ít nhiều có thể ảnh hưởng đến hoạt động của
doanh nghiệp và khách hàng. Bởi vậy, trong quá trình tái cơ cấu, cần phải theo dõi diễn
biến thị trường, nâng cao công tác thanh tra giám sát nhằm điều chỉnh chính sách kịp
thời, tránh những biến động bất lợi. Ví dụ như hiện nay đặc biệt là do công ty AMC ra
đời chậm, không đúng với kế hoạch ban đầu của NHNN, vì vậy có thể tạo ra những khó
khăn cho việc thực thi các biện pháp của giai đoạn 3. Đặc biệt, theo kinh nghiệm của
quốc tế, XLNX làm càng nhanh càng tốt. Để chậm ngày nào thì sẽ có thêm nhiều DN
phá sản, nhiều con nợ gặp khó khăn và gây rất nhiều khó khăn lớn về tài chính cho các
NHTM.
Khi đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, mà chắc chắn khi thực hiện sẽ gặp rất nhiều phản
ứng khác nhau, đặc biệt từ các nhóm lợi ích. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia nên được đặt lên
hàng đầu trong quá trình tái cơ cấu. Chúng ta có thể phải chấp nhận đóng cửa các ngân
hàng yếu kém thay vì sáp nhập các ngân hàng này với các ngân hàng khác. Càng chậm
cải tổ, nợ xấu sẽ càng tăng cao và chi phí để tái cơ cấu và giải quyết nợ xấu sẽ càng cao.
Việc chậm tái cơ cấu và giải quyết nợ xấu cũng sẽ làm ảnh hưởng đến vốn cung ứng từ
hệ thống ngân hàng cho nền kinh tế. Rất nhiều chuyên gia kinh tế đã ví von nợ xấu giống
như “cục máu đông” trong cơ thể. Vì thế cần thực hiện đúng lộ trình tái cơ cấu.
Trang 20
Để hạn chế tâm lý bầy đàn khi thực hiện tái cơ cấu thì nên mở rộng công tác tuyên
truyền đến dân cư để không tạo trạng thái người dân đổ xô đi rút tiền hoặc chuyển sang
các kênh đầu tư khác. Vì vậy quá trình tái cơ cấu nên thực hiện thí điểm một số ngân
hàng để rút kinh nghiệm và quá trình tái cơ cấu nên thực hiện từ từ. Có thể sáp nhập theo
lĩnh vực hoạt động trước, sau đó để bộ máy các cấp đồng bộ thì sẽ sáp nhập bộ máy cấp
cao. Khi sáp nhập thì nên tiến hành từng bước nhằm tránh những tâm lý hoang mang từ
dân cư, doanh nghiệp. Có thể sáp nhập các ngân hàng theo từng nhóm ngân hàng nhằm
giải quyết nguồn lực đủ để trợ giúp thanh khoản từ NHNN. Như vậy sẽ tránh hiện tượng
phải bơm khối lượng tiền lớn vào các ngân hàng để trợ giúp.

Do tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chịu tác động bởi nhiều nhân tố trong nước và quốc
tế và sẽ có tác động tới nhiều chủ thể khác nhau, nên vấn đề này cần phải hết sức thận
trọng và có một lộ trình thật phù hợp. Về mặt nguyên lý thì vấn đề tái cấu trúc sẽ diễn ra
trong toàn hệ thống, nhưng mục tiêu vẫn là hướng vào các NHTM nhỏ, hoạt động yếu
kém. Như chúng tôi đã đề cập ở trên, mặc dù là những NHTM nhỏ, nhưng do có mối
quan hệ khách hàng là khá lớn, chủ yếu là các khách hàng cá nhân nhỏ lẻ, nên những bất
cập sẽ bị khuếch đại rất nhanh và mạnh. Chính vì thế, một sự thận trọng là cần thiết.
Trước hết, cần phải làm trong sạch bảng cân đối kế toán của các NHTM cần cơ cấu lại,
bảo đảm rằng các khoản tín dụng có vấn đề nằm trong tầm kiểm soát được. Cũng cần
xem xét đến tầm ảnh hưởng của ngân hàng đến khu vực địa bàn hoạt động để đưa ra giải
pháp hợp lý (nếu cần thiết thì Nhà nước vẫn có thể mua cổ phần để nắm quyền kiểm
soát, tuyệt đối không để diễn ra tình trạng “sở hữu chéo”, nhất là tình trạng các NHTM
Nhà nước tiếp tục nắm cổ phần tại các ngân hàng đang cần cơ cấu, vì nó dễ bị che khuất
bản chất bên trong của các bất cập).
Hơn nữa, một lộ trình cơ cấu lại hợp lý là rất cần thiết bởi vì vấn đề cơ cấu lại các
NHTM nhỏ thực chất là chúng ta muốn cho các ngân hàng này có tình hình tài chính và
kinh doanh lành mạnh hơn, chủ yếu thông qua M&A. Nhưng quá trình này không thể
diễn ra một cách cơ học, mà cần có sự tự nguyện của các bên đối tác. Ðây là khó khăn
rất lớn, do văn hóa kinh doanh của mỗi ngân hàng là khác biệt nhau và nó còn đụng
chạm tới quyền và lợi ích cá nhân… (đây cũng chính là lý do khiến quá trình cơ cấu lại
trước đây không thành công).

×