Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Giải pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.3 KB, 28 trang )

Tiểu luận nhóm
Đề tài

:
Giải pháp tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng Việt Nam hiện nay
I. Đặt vấn đề
Với bất kỳ một quốc gia nào, hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn là huyết
mạch của nền kinh tế và sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng giữ vai trò trọng
yếu trong việc ổn định và phát triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam, trong giai đoạn 2001-
2010, sự phát triển của nền kinh tế có tác động sâu rộng đến sự phát triển của hệ thống
ngân hàng. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đặc biệt là ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng phát triển nhanh cả về qui mô và chất lượng dịch vụ.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh đó, hệ thống ngân hàng đang tiềm ẩn nhiều yếu
kém và rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cao; tính ổn định, hiệu quả hoạt động
và khả năng cạnh tranh chưa cao; năng lực quản trị còn nhiều bất cập. Ngoài ra, nhóm
lợi ích và sở hữu chéo giữa các ngân hàng lớn làm cho tính lệ thuộc lẫn nhau và rủi ro hệ
thống cao. Do vậy, nếu những rủi ro và yếu kém này không được xử lý kịp thời sẽ tác
động xấu đến ổn định kinh vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, việc tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là cấp thiết để tránh sự đổ vỡ của hệ thống
ngân hàng và sự đổ vỡ của nền kinh tế.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là một trong những nội
dung của tái cấu trúc của nền kinh tế. Theo Claessens (1998), tái cấu trúc ngân hàng là
hướng tới việc sắp xếp, nâng cao khả năng quản trị điều hành của ngân hàng thương mại
(NHTM) để đảm bảo an toàn hệ thống và hình thành hệ thống các NHTM có sức mạnh
tài chính thực sự, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro, quản trị tốt. Tái cấu trúc ngân hàng
cũng thường được tiến hành khi có bằng chứng về một hoặc nhiều ngân hàng mất khả
năng thanh toán đến hơn 20% tổng tiền gửi toàn hệ thống ngân hàng và cần phải có một
gói giải pháp liên quan đến thể chế và luật pháp để xử lý các ngân hàng yếu kém và đưa
hệ thống ngân hàng trở về trạng thái lành mạnh bền vững (Waxman, 1998). Theo Ðinh
Tuấn Minh (2012), khác với việc xử lý một ngân hàng yếu kém trong thời kỳ bình


thường, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đòi hỏi một kế hoạch đồng bộ và dài hạn, bao
gồm trình tự xử lý cũng như xây dựng các kịch bản dự phòng cho các tình huống xấu
nhất, để sao cho trong quá trình tái cấu trúc, hoạt động thanh toán và hoạt động tín dụng
của hệ thống không bị ảnh hưởng.
Các ngân hàng thương mại Việt nam đang và sẽ phải đối mặt với các vấn đề
nghiêm trọng do chất lượng tài sản kém, khó khăn về thanh khoản, chất lượng lợi nhuận
thấp, yếu kém về quản trị và về quản lý rủi ro. Do vậy, Chính phủ cần phải nhanh chóng
đưa ra được chương trình tái cơ cấu ngành để giúp các ngân hàng không bị rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán do khánh kiệt về vốn và khôi phục năng lực của hệ thống
ngân hàng giúp thúc đẩy nền kinh tế nhanh hồi phục.
Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI đã ra chỉ thị “cấu trúc lại hệ thống
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính theo hướng sáp nhập, hợp nhất các ngân
hàng thương mại, các tổ chức tài chính nhỏ.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một khâu quan trọng trong tái cấu trúc nền
kinh tế. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chủ yếu hướng tới 3 mục tiêu chính trong đó
duy trì niềm tin của công chúng – người gửi tiền là một mục tiêu.
Vài nét về hệ thống Ngân hàng Việt Nam
Sau hơn hai thập kỷ tiến hành cải cách, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua
bốn giai đoạn phát triển đáng chú ý: (i) Giai đoạn 1990 - 1996: ghi nhận sự tăng lên
nhanh chóng về số lượng và loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm đáp ứng sự tăng
vọt của cầu về dịch vụ tài chính trong giai đoạn đầu “bung ra” trong thời kỳ chuyển
đổi. (ii) Giai đoạn 1997 - 2005: củng cố, chấn chỉnh hệ thống ngân hàng hai cấp mới
được hình thành trong bối cảnh khủng hoảng tiền tệ châu Á. (iii) Giai đoạn 2006 - 2010:
nâng mức vốn pháp định và tăng cường các quy chế điều tiết; các ngân hàng thương mại
cổ phần (NHTMCP) nông thôn được chuyển đổi lên thành ngân hàng thương mại
(NHTM) cổ phần đô thị; một số ngân hàng mới được thành lập, xuất hiện loại hình ngân
hàng 100% vốn nước ngoài. (iv) Giai đoạn 2011 đến nay: hệ thống ngân hàng bộc lộ
những yếu kém, dễ tổn thương vì những yếu kém tồn tích từ lâu, đe dọa gây đổ vỡ hệ
thống, dẫn tới yêu cầu cấp thiết phải tiến hành tái cơ cấu hệ thống các TCTD.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay bao gồm 3 nhóm ngân hàng chính: các

NHTM nhà nước, các NHTMCP và các NHTM nước ngoài. Ngoài ra, còn có các ngân
hàng liên doanh và các văn phòng đại diện của các TCTD nước ngoài. Cụ thể, tính đến
cuối năm 2011, có 5 NHTM nhà nước (trong đó có 3 ngân hàng là: Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam - VCB, Ngân hàng Công thương Việt Nam - Vietinbank, và Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV đã được cổ phần hóa, tuy nhiên, Nhà nước vẫn
giữ cổ phần chi phối trên 70%), 1 ngân hàng chính sách, 37 NHTMCP, 5 ngân hàng liên
doanh, 5 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài, và 54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngoài ra còn có các TCTD phi ngân hàng, bao gồm 18 công ty tài chính, 13 công ty cho
thuê tài chính và hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân ( gồm 1 Quỹ Tín dụng nhân dân
Trung ương với hơn 1.073 quỹ thành viên).
Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với những rủi ro tiềm ẩn.
Có thể kể đến một số rủi ro chính dưới đây:
*
Rủi ro tín dụng: Trong danh mục tài sản của các ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn vẫn là
hoạt động tín dụng, tuy nhiên chất lượng tín dụng lại chưa cao, tỷ lệ nợ xấu lớn, tiềm ẩn
rủi ro tín dụng. Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, khi kinh tế thế giới và trong nước có
những biến động, từ phát triển nóng sang trì trệ, bên cạnh đó, sự tụt dốc của thị trường
chứng khoán, diễn biến phức tạp của thị trường bất động sản, giá vàng lên xuống thất
thường, sự đổ vỡ của nhiều chủ nợ tín dụng “đen” làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng tín dụng.
* Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản luôn thường trực, khi huy động vốn của ngân
hàng thương mại chủ yếu là kỳ hạn ngắn với tỷ trọng thường tới 70% - 80% trong tổng
nguồn vốn huy động, thậm chí đối với một số ngân hàng, tỷ trọng này lên tới 90%, trong
khi đó cho vay trung, dài hạn thường chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 30% - 40% tổng dư nợ.
Có thể nói, thanh khoản là vấn đề nan giải nhất hiện nay đối với các NHTM và sẽ không
đơn thuần là vấn đề ngắn hạn, vì cốt lõi của vấn đề thanh khoản là vấn đề nợ xấu.
* Rủi ro lãi suất: Do những năm gần đây lạm phát thường ở mức cao, biến động với biên
độ lớn và thường xuyên, nên lãi suất mua bán vốn trên thị trường tiền tệ, thị trường tài
chính Việt Nam luôn ở mức cao và thiếu tính ổn định. Cộng với đó là độ vênh lớn về kỳ
hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, nên rủi ro lãi suất đối với hệ thống ngân hàng cũng

luôn tiềm ẩn ở mức cao.
* Rủi ro tỷ giá: Trong vài năm gần đây đã chứng kiến những thay đổi mạnh trong cơ cấu
tài sản của ngân hàng theo đồng tiền. Do áp lực lạm phát, cùng với sự biến động mạnh
của giá vàng, đô-la Mỹ (USD), trong khi lãi suất đầu ra bằng đồng Việt Nam (VND) cao
so với khả năng sinh lời của khu vực sản xuất vật chất, lãi suất tín dụng USD lại thấp, hệ
quả là các NHTM chuyển qua kinh doanh tín dụng ngoại tệ. Thực trạng này sẽ gây áp
lực rất lớn đến thanh khoản ngoại tệ, hệ quả là, không chỉ nhu cầu ngoại tệ trong nền
kinh tế tăng, áp lực trên thị trường ngoại hối bị đẩy lên, mà hệ thống NHTM còn đứng
trước các rủi ro tỷ giá, mà tỷ giá VND/USD lại chịu các áp lực rất lớn từ thâm hụt cán
cân vãng lai, từ nhập siêu, lạm phát cao và các dòng vốn vào / ra không ổn định.
* Rủi ro tác nghiệp: Bên cạnh rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, thì rủi ro tác nghiệp cũng
có xu hướng tăng nhanh và ngày càng tinh vi, phức tạp hơn gắn với sự phát triển của
công nghệ thông tin. Vì thế, không ít những vụ việc tiêu cực trong hoạt động ngân hàng
đều bắt nguồn từ việc không chấp hành quy chế, quy trình tác nghiệp, cũng như từ đạo
đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.
Những phân tích trên đây cho thấy, hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất
nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố
bên ngoài (như bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản lao dốc) hay do các yếu tố bên trong (như quản trị rủi
ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, năng lực và đạo đức
của nguồn nhân lực ngân hàng không đáp ứng yêu cầu,…) thì hệ thống ngân hàng sẽ
không tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại.
II. Mục tiêu và các bước chuẩn bị tái cấu trúc
Ngay khi công bố chủ trương, NHNN đã nêu rõ bốn mục tiêu cơ bản của tái cấu
trúc và sau đó trong phiên trả lời chất vấn tại diễn đàn Quốc hội, Thống đốc Nguyễn Văn
Bình đã chi tiết phần nào các mục tiêu khi nêu ra quan điểm sẽ chia các ngân hàng làm
ba nhóm lớn và biện pháp xử lý đối với từng nhóm nhằm có được hệ thống ngân hàng an
toàn, lành mạnh và hiệu quả. Tuy nhiên, câu hỏi không kém phần quan trọng là Việt
Nam sẽ sử dụng chỉ tiêu nào để đo lường mức độ an toàn, lành mạnh và hiệu quả của các
ngân hàng? Liệu hệthống chỉ tiêu hiện hành của Việt Nam có đủ để đảm bảo giám sát an

toàn, đo lường chính xác mức độ lành mạnh và hiệu quả của các ngân hàng? Theo chúng
tôi, các chỉ tiêu hiện hành của Việt Nam còn thiếu khá nhiều và nhiều chỉ tiêu chưa đáp
ứng được yêu cầu tối thiểu theo thông lệ quốc tế. Nếu các chỉ tiêu đánh giá này không
đạt chuẩn thì ngay cả khi hoàn tất việc tái cấu trúc, chưa chắc chúng ta có được hệ thống
ngân hàng như mong muốn. Vì vậy, trên tinh thần này, việc tái cấu trúc cần được thực
hiện theo tuần tự bốn nội dung:
Bước 1: Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu để giám sát an toàn, đánh giá mức độ lành
mạnh, hiệu quả của ngân hàng phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng phải
đảm bảo tương thích và bám sát với quy định của Hiệp ước Basel, đồng thời xác định lộ
trình đáp ứng tiêu chuẩn Basel III.
Bước 2: Sử dụng hệ thống chỉ tiêu đã có ở bước 1 để phân nhóm chính xác các ngân
hàng.
Bước 3: Đề ra lộ trình áp dụng riêng cho từng nhóm ngân hàng để các ngân hàng trong
mỗi nhóm có thời gian hợp lý tự thực hiện tái tổ chức hoạt động của mình.
Bước 4: Xây dựng kịch bản để cơ quan quản lý có thể buộc các ngân hàng chưa đạt
chuẩn, không thể tự tái tổ chức phải thực hiện tái cấu trúc theo yêu cầu, nội dung của cơ
quan quản lý thông qua các rào cản kỹ thuật và các biện pháp khác kể cả biện pháp hành
chính nếu càn thiết.
III. Diễn biến tái cấu trúc năm 2012:
Thực hiện chỉ đạo của NHNN, đến cuối năm 2012, khoản dự phòng rủi ro để
khoanh hoặc xóa nợ các ngân hàng thương mại dự kiến là 50.000 tỷ đồng.
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho biết, 9 tháng đầu năm,
tổng tài sản của hệ thống các tổ chức tín dụng đạt hơn 4.866 nghìn tỷ đồng, giảm 1,89%
so với cuối năm 2011. Nhóm ngân hàng cổ phần có tổng tài sản tại thời điểm cuối tháng
9 đạt gần 2.102,5 nghìn tỷ đồng, giảm 7,06% so với cuối năm 2011. So với mức 2.224,6
nghìn tỷ đồng cuối tháng 8, con số này cũng giảm xấp xỉ 5,5%. Trong tháng 9, tổng tài
sản của khối ngân hàng nhà nước cũng giảm từ 2.075 nghìn tỷ đồng hồi cuối tháng 8
xuống còn 2.069 nghìn tỷ đồng… "Nhiều khả năng khối tài sản của các ngân hàng bị
"bốc hơi" là do nợ xấu", TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng nhận định.
Ðánh giá tình hình thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng năm 2012

Những kết quả đạt được
Việc thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng năm 2012 đã đạt được những kết quả sau
đây:
- NHNN đã thực hiện phân loại các NHTM thành các nhóm để ấn định mức rủi ro. Cụ
thể, hệ thống NHTM Việt Nam được phân thành 3 nhóm lớn:
+ Nhóm thứ 1: gồm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh có năng lực và quy
mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột, đủ sức cạnh tranh với
khu vực và quốc tế. Ước tính có khoảng 15 ngân hàng loại này chiếm khoảng 80% thị
phần hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.
+ Nhóm thứ 2: nhóm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có quy mô
nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện phát triển quy mô cao hơn nữa. NHNN
sẽ có quy định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường để đảm bảo
cho các ngân hàng này hoạt động hiệu quả.
+ Nhóm thứ 3: nhóm ngân hàng đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải cấu trúc
lại. NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các ngân hàng lớn sẽ tham gia mua cổ
phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc
hợp nhất, sáp nhập nếu cần.
- Về tăng vốn: Từ cuối năm 2011 và trong năm 2012 đã chứng kiến nhiều sự kiện sáp
nhập, hợp nhất, mua lại trong ngành Ngân hàng. Cụ thể:
+ Ngày 01/01/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (Ngân hàng hợp nhất)
chính thức đi vào hoạt động sau khi hợp nhất từ 3 ngân hàng: Ngân hàng thương mại cổ
phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Ðệ Nhất (Ficombank) và Ngân hàng Việt Nam Tín
Nghĩa (TinNghiaBank).
+ Ngày 09/01/2012, Giadinhbank chính thức thay đổi hệ thống nhận diện thương hiệu,
với tên gọi mới là Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt sau khi được Quỹ Ðầu tư
Bản Việt mua lại toàn bộ.
+ Ngày 28/08/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) chính thức
sáp nhập vào Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB).
Ðể thực hiện mục tiêu của NHNN, nhiều ngân hàng đã chọn cách liên kết một phần để
nâng cao tiêu chuẩn chất lượng ngân hàng. Có thể kể đến một số trường hợp điển hình

sau đây:
+ Ngân hàng ACB đã ký kết biên bản ghi nhớ với ngân hàng Standard Chartered (SCB
nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng VIP và chủ thẻ Visa Platium của ACB. Theo đó,
khách hàng cá nhân của ACB sẽ được hưởng thêm rất nhiều quyền lợi và dịch vụ của
SCB với 9 trung tâm dịch vụ khách hàng ưu tiên tại Malaysia và 3 trung tâm dịch vụ
khách hàng ưu tiên tại Singapore.
+ Ngân hàng BIDV đã ký thỏa thuận hợp tác với hai ngân hàng GPBank và BacABank
trong các lĩnh vực nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, tín dụng, tài trợ thương mại, thanh
toán trong nước và quốc tế, hợp đồng tài trợ, hoạt động ngân hàng bán lẻ ). BIDV cũng
đã ký thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực với SCB.
+ Sacombank đã ký kết thỏa thuận hợp tác kinh doanh toàn diện với Habubank và MB.
+ Agribank ký thỏa thuận hợp tác chiến lược trong hỗ trợ kinh doanh với ABBank và
SCB.
Ðến cuối tháng 12/2012, các ngân hàng nhỏ nằm trong diện tái cơ cấu bắt buộc trong
năm nay đang nỗ lực lên phương án tự tái cấu trúc để tránh rơi vào trường hợp phải sáp
nhập. Trong số 9 ngân hàng thuộc diện tái cấu trúc năm 2012 thì 5 ngân hàng gồm SCB,
Ðệ Nhất, Tín Nghĩa, Habubank và Tienphongbank cơ bản đã ổn định. Bốn ngân hàng
nhỏ còn lại nằm trong diện này là GP Bank, Navibank, TrustBank và Western Bank đang
nỗ lực tìm phương án tái cấu trúc.
- Về giải quyết nợ xấu: Qua một năm thực hiện các chính sách về tái cấu trúc của NHNN
và việc giải quyết nợ xấu của ngân hàng cho đến tháng 11/2012, NHNN đã giải quyết
252.000 tỷ đồng nợ được cơ cấu lại, tương ứng 8% dư nợ tín dụng. Cùng với những nỗ
lực của NHNN thì các ngân hàng cũng đã hy sinh ngắn hạn trong việc giảm lợi nhuận để
tăng dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu, đến nay các ngân hàng đã xử lý được 39.000 tỷ nợ
xấu. Chẳng hạn, Vietcombank đã phải trích lập 1.088 tỷ đồng khiến lợi nhuận quí
II/2012 chỉ còn 1.124 tỷ đồng, giảm 10% so với quí II/2011. Tương tự, Vietinbank đã
trích lập dự phòng 1.453 tỷ đồng nên lãi sau thuế quí II/2012 chỉ còn 5.645 tỷ đồng,
giảm 70% so với cùng kỳ năm trước. Eximbank và ACB cũng phải trích lập dự phòng
lớn khiến cho lợi nhuận bị suy giảm đáng kể. Việc thực hiện giải quyết nợ xấu của ngân
hàng là đúng đắn và điều này được thể hiện rõ khi chưa có quyết định, chỉ thị để cơ cấu

nợ, khắc phục xử lý nợ xấu, tốc độ tăng của nợ xấu lên tới 8% - 9% mỗi tháng, nhưng
cho đến nay, nợ xấu chỉ tăng trung bình 3% một tháng. Bên cạnh chủ động xử lý nợ xấu
bằng trích lập dự phòng, các NHTM đã tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp và tăng cường
quản trị rủi ro tín dụng, mua, bán nợ thông qua công ty mua, bán nợ của các ngân hàng
và công ty mua, bán nợ của Bộ Tài chính.
- Về thanh khoản: Năm 2012, vấn đề thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng đã được
củng cố và ổn định. Ðiều này được thể hiện dựa trên các dấu hiệu sau đây: (i) Lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng khá ổn định và giảm mạnh từ mức trên 20% xuống còn
10% - 12% tùy thuộc vào kỳ hạn, đặc biệt các giao dịch qua đêm đã tạm thời lắng dịu;
(ii) Không có dấu hiệu sụt giảm tiền gửi trong khi các kênh đầu tư khác như bất động
sản, chứng khoán đang yên ắng; (iii) Thị trường không xuất hiện các cuộc đua lãi suất
huy động tiền gửi công khai.
NHNN đã giảm thiểu được rủi ro thanh khoản của hệ thống bằng cách phối hợp với các
ngân hàng mạnh hơn để cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng yếu hơn. Chẳng hạn,
tình trạng mất thanh khoản tạm thời liên quan đến các biến động trong ngân hàng như
thay đổi nhân sự cấp cao của ACB, STB… đã được NHNN hỗ trợ kịp thời qua thị trường
mở và thanh khoản của các ngân hàng này đã dần ổn định. Một số ngân hàng nhỏ khác
có nguy cơ mất khả năng thanh khoản đã được ngăn chặn và đang hoạt động ổn định trở
lại. Những sự kiện gần đây của một số ngân hàng như Sacombank, Tienphongbank
càng chứng tỏ sức đề kháng của toàn hệ thống khá tốt và khả năng xử lý cú sốc của các
NHTM và của NHNN đáng tin cậy. Hoạt động thị trường liên ngân hàng đã được chấn
chỉnh theo hướng minh bạch hơn. Nhiều NHTM quy mô vừa trở lên đều có dự trữ vốn
khả dụng tốt. Tăng trưởng huy động vốn từ dân cư khá cao, kể cả nội tệ và ngoại tệ.
Những hạn chế, tồn tại
Nhìn lại một cách tổng thể thì việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2012
mới thành công bước đầu và được xem như một bức tranh đang còn dở dang.
- Về thanh khoản: Còn nhiều yếu tố không minh bạch từ các NHTM đã làm cho NHNN
khó phát hiện được tình hình thực sự của các NHTM. Thực tế, lãi suất trên thị trường
giảm mạnh trong năm 2012 nhưng thị trường vẫn tồn tại tình trạng một số ngân hàng
thỏa thuận lãi suất tiết kiệm với mức lãi suất lên đến 15 - 16%/năm. Ðiều này cho thấy,

các ngân hàng này do không có tài sản thế chấp để vay vốn trên thị trường liên ngân
hàng nên đã đẩy mạnh huy động vốn ở thị trường một để đảm bảo thanh khoản tốt hơn.
- Về xử lý nợ xấu: Vấn đề nợ xấu tuy tốc độ tăng có giảm nhưng quy mô nợ xấu rất lớn
và suốt cả năm 2012 chưa có biện pháp xử lý cơ bản nợ xấu. Tháng 11/2011, NHNN báo
cáo tỉ lệ nợ xấu trong hệ thống NHTM vẫn ở ngưỡng an toàn với 3,1%. Nhưng đến cuối
tháng 06/2012 tỉ lệ nợ xấu được NHNN báo cáo đã tăng lên đến 8,6%. Như vậy, chỉ
trong thời gian 6 tháng, tỉ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã tăng 2,7 lần. Theo báo
cáo tài chính của các NHTM, tỷ lệ nợ xấu trong 9 tháng đầu năm 2012 có xu hướng
tăng: của Vietcombank từ 2% lên 3,21%; của ACB từ 0,9% lên 2,1%; của Sacombank từ
0,57% lên 1,4%; của BaoVietBank từ 4,56% lên 6,13%; của NaviBank từ 2,92% lên
3,97% Trong tổng thể tình hình nợ xấu của các NHTM, điều đáng lưu ý là nhóm nợ có
khả năng mất vốn ở một số ngân hàng đang ở mức cao. Chẳng hạn, tỷ lệ nợ có khả năng
mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của BaoVietBank lên tới 2,93%, của LienViet-
PostBank là 1,46%, của Vietcombank là 1,42%, của BIDV là 1,22%
Bảng 1: Nợ quá hạn và nợ xấu toàn hệ thống (%)
2010 2011 30/6/2012
Tỷ lệ nợ
xấu/tổng
dư nợ
Tỷ lệ nợ
quá
hạn/tổng
dư nợ
Tỷ lệ nợ
xấu/tổng
dư nợ
Tỷ lệ nợ
quá
hạn/tổng
dư nợ

Tỷ lệ nợ
xấu/tổng
dư nợ
Tỷ lệ nợ
quá
hạn/tổng
dư nợ
Ngân hàng thương
mại nhà nước
2,16 10,43 2,95 13,36 - -
Ngân hàng thương
mại cổ phần
1,66 3,53 2,30 6,43 - -
Toàn ngành 2,12 7,69 3,10 10,47 8,60
(4,47)
-
Nguồn: Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia.
(*) Số liệu về nợ xấu toàn hệ thống trong ngoặc là theo đánh giá của NHNN đến
31/03/2012.
Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến nợ xấu của các NHTM là cho vay kinh
doanh bất động sản (BÐS). Theo Hiệp hội BÐS Việt Nam, dư nợ cho vay BÐS tại
TPHCM là 47%, Hà Nội là 16% trong tổng số 245.000 tỉ đồng dư nợ tín dụng, chiếm
gần 10% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng, trong đó nợ xấu khoảng 8 - 12%
(tương đương 30.000 tỉ đồng). Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, tính đến thời
điểm cuối năm 2011, tổng dư nợ cho vay BÐS là 348.000 tỉ đồng, cao hơn con số công
bố của NHNN tới 1,8 lần. Bên cạnh đó, còn do những nguyên nhân chủ quan như: công
tác quản trị, điều hành hoạt động tín dụng của một số TCTD còn thấp; năng lựcthanh tra,
giám sát của NHNN còn yếu, chính sách chuyển đổi quá nhanh các ngân hàng nông thôn
thành ngân hàng thành thị Như vậy, các rủi ro hệ thống vẫn còn tồn tại và một cuộc
khủng hoảng thanh khoản vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào do ảnh hưởng của vấn đề nợ

xấu.
- Về vấn đề tăng vốn: Sáp nhập, hợp nhất là phương án mà NHNN nói đến nhiều nhất
trong việc tái cơ cấu các ngân hàng. Nhưng suốt năm 2012, hoạt động này tiến hành
chậm và mới chỉ có 1 trường hợp sáp nhất (SHB và HBB), còn những ngân hàng còn lại
chưa được xử lý. Thực tế đây là vấn đề khó đối với NHNN vì NHNN luôn muốn sự hợp
nhất hay sáp nhập ngân hàng nhằm giảm bớt số lượng những ngân hàng đang còn yếu
kém nhưng các ngân hàng đã đưa ra lý do riêng như tái cấu trúc cũng không nhất thiết
phải giảm số lượng ngân hàng, mà chất lượng, sự an toàn của ngân hàng mới là vấn đề
cốt lõi. Hơn nữa, luật về mua, bán, sáp nhập ngân hàng đến nay cũng chưa rõ ràng cũng
ảnh hưởng đến tiến độ sáp nhập và hợp nhất.
- Về quản trị: Hoạt động quản trị rủi ro trong toàn hệ thống ngân hàng còn kém xa các
chuẩn mực quốc tế. Theo đề án cơ cấu lại các TCTD thì đến cuối năm 2015, các TCTD
mới đạt mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp
theo quy định của Basel 2 trong khi nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng các tiêu
chuẩn an toàn hệ thống của Basel 3. Ngân hàng ACB - một ngân hàng được đánh giá cao
về năng lực quản trị và chất lượng dịch vụ ở Việt Nam, nhưng qua sự kiện ngày
20/08/2012 tại ngân hàng này khiến các nhà quản lý và công chúng thực sự lo lắng về
nhân sự và quản trị của các NHTM. Quản trị công ty, dù đã trở nên ngày càng phổ biến
và ngày càng có nhiều văn bản điều chỉnh, nhưng trong lĩnh vực ngân hàng, các văn bản
vẫn còn nhiều bất cập và việc chế tài chưa đủ mạnh khiến cho các NHTM Việt Nam
chưa thực sự quan tâm dẫn đến có điểm quản trị công ty kém nhất so với các ngành khác
(Hạ Thị Thiều Dao, 2012).
Bên cạnh những hạn chế, tồn tại trên đây, những mục tiêu chiến lược mà NHNN
đưa ra cũng như lộ trình thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đang còn nhiều vấn
đề vướng mắc. Thực tế cho thấy, việc thực hiện Ðề án tái cấu trúc trên thực tế cũng như
việc cân nhắc phương án tái cơ cấu nào và lộ trình thực hiện vẫn còn đang bàn thảo. Do
vậy, quá trình tái cấu trúc ngân hàng năm 2012 vẫn mới chỉ ở trong giai đoạn khởi động.
Những kết quả đạt được ban đầu còn ít hiệu quả vì chưa có được các cải tổ toàn diện như
kỳ vọng.
IV. Tái cơ cấu không có nghĩa là chỉ hợp nhất các ngân hàng nhỏ

Nhiều đánh giá trên các phương tiện thông tin đại chúng của chúng ta cho rằng số
ngân hàng tại Việt Nam đã quá nhiều so với quy mô của nền kinh tế và một phần của tái
cấu trúc là hợp nhất các ngân hàng nhỏ. Việc hợp nhất các ngân hàng nhỏ là cần thiết để
tăng năng lực cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động.Nhưng theo tác giả thì mục tiêu
quan trọng nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay để tái cơ cấu thành công
thì cần phải xử lý được ba vấn đề chính là 1) tình hình nợ xấu nổ chậm, 2) tỷ lệ vốn chủ
sở hữu thấp và 3) thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Và như thếkhông phân
biệt bất cứ ngân hàng lớn hay ngân hàng nhỏ, mà cái chính là phụ thuộc vào việc đánh
giá kỹ lưỡng các vấn đề này ở từng ngân hàng.Việc xét đến số lượng ngân hàng nhiều
hay ít là một đề tài khác về chiến lược phát triển dịch vụngân hàng phục vụ cộng đồng
và phụ thuộc vào chiến lược của mỗi ngân hàng. Thực tế theo quan sát sát của chúng tôi
có nhiều ngân hàng có quy mô nhỏ tại Việt Nam như Liên Việt Bank hoạt động vẫn tốt
và hiệu quả. Nhìn rộng hơn, một số quốc gia duy trì hệ thống ngân hàng lớn như Đài
Loan có gần 100 ngân hàng nhưng họ chỉ có 20 triệu dân, Indonesia có 121 ngân hàng,
hoặc nước Mỹcó tới 6.413 ngân hàng nhưng phần lớn là ngân hàng địa phương phục vụ
một cộng đồng, một bang nhất định. Còn lại các ngân hàng lớn tập trung và phân định rõ
hoạt động cốt lõi là ngân hàng đầu tư hoặc ngân hàng bán lẻ.
V. Giải pháp
Một số giải pháp đối với các vấn đề của hệ thống Ngân hàng trong quá trình tái cấu trúc:
Dấu hiệu / chỉ số Các phản ứng có thể
Mức vốn của hệ thống thấp (lo ngại mất khả
năng thanh toán)
Tiếp cận có điều kiện với các quỹ tái cấp
vốn; hỗ trợ việc tiếp cận của nhà đầu tư (ví
dụ; cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham
gia nhiều hơn, chẳng hạn như Thái Lan trong
khủng hoảng những năm 1990), cổ phần
hóa các NHTM Nhà Nước
Nợ xấu tăng một cách có hệ thống
Các yêu cầu về dự phòng và vốn cao hơn;

các công ty Quản lý Tài sản - AMC (tập
trung hóa hoặc ngân hàng cụ thể); Mô hình
Ngân hàng xấu-Ngân hàng tốt, tái cấu trúc
doanh nghiệp
Ngân hàng khó khăn trong việc huy động
vốn (tiền gửi) và hỗ trợ cho vay
Tạm thời cung cấp cửa sổ thanh khoản (chức
năng người cho vay cuối cùng của NHTW);
Tăng cường bảo vệ người gửi tiền để tái lập
niềm tin công chúng (ví dụ khủng hoảng năm
2009 đã thúc đẩy một số quốc gia tăng hạn
mức BHTG)
Cơ sở lý luận để đưa ra giải pháp
Sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ thống ngân hàng
trong thời gian ngắn vừa qua đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ lớn tác động trực tiếp đến
sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại. Đó là nguyên nhân quan trọng
nhất buộc Việt Nam phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nói riêng, cơ cấu lại hệ thống tài
chính nói chung nhằm ngăn chặn rủi ro hệ thống trước khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài
chính có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống như bài học từ các cuộc khủng hoảng kinh tế
tài chính quốc tế đã chỉ ra.
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích
tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng
hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản lao dốc hay do
các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư
mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu cầu… thì ngân
hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả cơ cấu lại từng ngân hàng
cũng như cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam
đang đối mặt với những rủi ro ngày một gia tăng, nổi bật là:
- Rủi ro tín dụng: Một mặt để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp và người dân trong khi nguồn vốn kinh doanh lại dựa chủ yếu vào hệ

thống ngân hàng nên tổng tín dụng cho nền kinh tế đã tăng rất nhanh, thậm chí đã có hiện
tượng “tín dụng nóng” khi tốc độ tăng tổng tín dụng hằng năm thường xuyên trên dưới
30%, thậm chí có năm lên tới trên 50% như năm 2007. Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm
lại, khi người vay nợ gặp khó khăn thì rủi ro tín dụng sẽ gia tăng, nhất là khi ngân hàng quá
dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho vay và không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
đầy đủ. Hơn nữa, do sự hấp dẫn của thị trường bất động sản (BĐS) và thị trường chứng
khoán trong thời gian vừa qua nên nhiều NHTM đã tập trung quá nhiều vốn cho những thị
trường đầy rủi ro này, góp phần không nhỏ vào thổi phồng “bong bóng” BĐS và chứng
khoán. Khi thị trường BĐS và chứng khoán đảo chiều đi xuống thì rủi ro tín dụng sẽ tăng
cao. Mặt khác, do một số NHTM mới thành lập nên mặc dù quy mô vốn không lớn song
vẫn cần tăng nhanh quy mô tín dụng để quy mô tài sản có phù hợp với quy mô vốn, đồng
thời đáp ứng yêu cầu lợi nhuận của cổ đông cũng như thỏa mãn tham vọng nhanh chóng
vươn lên bằng các NHTM có quy mô lớn hơn. Trong điều kiện đó, một số NHTM đã bất
chấp các quy tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc độ tăng tín dụng tới hàng chục
phần trăm mỗi năm, kể cả tín dụng cho những lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán và BĐS.
Khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định thắt chặt tín dụng cho BĐS, chứng khoán và
tiêu dùng xuống mức 22% tổng tín dụng vào giữa năm 2011 và mức 16% vào cuối năm
2011 thì rủi ro tín dụng của những NHTM này tăng vọt. Bên cạnh đó, chính vì sự dễ dãi của
một số NHTM trong cấp tín dụng nên rủi ro đạo đức do sử dụng vốn tín dụng sai mục đích
cũng tăng cao. Hậu quả là tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng tăng mạnh. Theo công bố của
NHNN, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng từ 2,2% tổng tín dụng vào cuối
năm 2010 lên 3,1% vào giữa năm 2011, trong đó, gần một nửa là nợ xấu có khả năng mất
vốn.
- Rủi ro thanh khoản: Do một số NHTM có tốc độ tăng dư nợ tín dụng quá cao trong khi
quy mô vốn còn hạn chế nên tính thanh khoản của những NHTM này xuống thấp, thậm chí
có những thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả là để đảm bảo tính thanh khoản, một số
NHTM đã phải chấp nhận lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới 20-30%/năm, thậm
chí trên 40%/năm bất chấp lãi suất tái chiết khấu do NHNN công bố hiện nay chỉ là
13%/năm. Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến hàng chục nghìn tỷ VND trên
thị trường mở và thị trường liên ngân hàng (LNH) để bảo đảm thanh khoản cho toàn hệ

thống. Rủi ro thanh khoản còn đi đôi với rủi ro kỳ hạn khi tuyệt đại đa số vốn huy động có
kỳ hạn ngắn, thậm chí rất ngắn, song các NHTM lại cấp tín dụng ở tất cả các kỳ hạn với một
tỷ lệ không nhỏ dành cho vay trung và dài hạn.
- Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái: Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát cao và
những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ thống NHTM trước những rủi
ro rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn, đột ngột về lãi suất, cả lãi suất huy động và lãi
suất cho vay cùng với những biện pháp điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính đã
khiến cho các ngân hàng thương mại thường xuyên trong trạng thái đối phó, khi thì chạy
đua tăng lãi suất huy động, khi lại giữ lãi suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến
động lãi suất, hiện tượng “vượt trần, phá rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến làm
giảm hiệu lực của các chính sách tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của
không ít cán bộ quản lý cũng như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng… do đó hoạt
động của không ít NHTM rất bấp bênh, chênh vênh giữa trạng thái lãi - lỗ, kỷ luật kinh
doanh không được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Bên cạnh đó,
do tình trạng đô-la hóa chậm được khắc phục với tổng tiền gửi ngoại tệ vẫn chiếm trên 20%
tổng tiền gửi, thậm chí còn phát sinh thêm tình trạng vàng hóa với cả trăm tấn vàng được
các NHTM huy động song không được sử dụng có hiệu quả nên các NHTM Việt Nam còn
phải đương đầu với rủi ro tỷ giá hối đoái và cả rủi ro giá vàng. Chỉ trong 10 tháng đầu năm
2011 mà tỷ giá hối đoái VND/USD đã tăng trên 10% và có thể còn biến động phức tạp
trong 2 tháng còn lại của năm 2011 trong khi do chênh lệch lãi suất giữa cho vay VND và
USD tới trên 10%/năm nên tín dụng ngoại tệ đã tăng rất nhanh trong thời gian qua. Cũng
trong thời gian đó, giá vàng cũng đã tăng tới 25%, có thời điểm lên tới hơn 49 triệu
VND/lượng. Những biến động đó đã tác động rất mạnh tới mức độ an toàn của cả tài sản Có
và tài sản Nợ của các NHTM.
Vì những rủi ro trên mà chúng ta cần có những giải pháp phù hợp để hoàn thiện hệ
thống ngân hàng. Rõ ràng, việc tái cấu trúc toàn diện hệ thống ngân hàng Việt Nam là điều
hết sức cần thiết nhưng hành động phải được thực hiện hết sức thận trọng với hệ thống tiêu
chí đánh giá, phân nhóm khoa học là công việc đầu tiên cần thực hiện trước khi bắt tay vào
các kỹ thuật tái cấu trúc.
Kinh nghiệm giải quyết các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới cho thấy việc

xác định kịp thời nợ xấu nợ dưới chuẩn, nhanh chóng huy động vốn tự có để bù đắp các
khoản nợ này và thực hiện các biện pháp mạnh trong việc cơ cấu lại ngành ngân hàng là yếu
tố thúc đẩy nhanh kinh tế nhanh hồi phục và khôi phục lại năn lực cho vay của lĩnh vực
ngân hàng.
Trong cuộc Khủng hoảng Tài chính Thế giới và Nợ công đang diễn ra, nhiều nước đã
thực hiện các biện pháp mạnh mẽ và nhanh chóng giải cứu hệ thống ngân hàng để làm bàn
đạp cho việc khôi phục kinh tế. Chính phủ Anh bỏ ra 37 tỷ Bảng (US$63 tỷ) vốn để quốc
hữu hóa một phần ngân hàng Royal Bank of Scotland và Lloyds. Mỹ chỉ cứu AIG (US$85
tỷ) và đã không ngại khi cho Lehman Brothers phá sản, Gần đây nhất Chính phủ Pháp và Bỉ
đã đưa ra kế hoạch EUR 90 tỷ (US$123 tỷ) để giải cứu Dexia Bank
Các giải pháp :
1- Tái cấu trúc về vốn tự có của các ngân hàng bằng sát nhập
Mục tiêu chính của nhóm biện pháp này là phải xác định được mức vốn chủ sở hữu
thực tế (sau khi đã lập dự phòng đầy đủ cho nợ dưới chuẩn NPL và giảm giá các tài sản) của
hệ thống ngân hàng. Từ đó Chính phủ mới đưa ra được các biện pháp cụ thể ví dụ như yêu
cầu các ngân hàng phát hành thêm vốn, cho vay thêm hoặc phải yêu cầu các ngân hàng có
mức an toàn vốn thực tế dưới mức tối thiểuphải sáp nhập hoặc giải thể. Nếu các ngân hàng
không có đủ số vốn tối thiểu tự có sẽ khó tồn tại và khó huy động được vốn trên thị trường
do được coi là có mức đội rủi ro mất khả năng thanh toán cao.
Mặt khác, việc sát nhập các NH “nhỏ” với vốn tự có thấp một mặt sẽ làm tăng vốn tự
có của NH sát nhập nhưng điều đó cũng không giải quyết được các vấn đề nợ xấu ban đầu
mà của mỗi NH xác nhập. Thay vì tập trung vào việc tăng vốn điều lệ và tăng quy mô tài
sản, tái cấu trúc cần tập trung vào mục tiêu tối thượng là sự an toàn và hiệu quả của từng
ngân hàng riêng lẻ, từ đó mới có thể có được hệ thống ngân hàng lành mạnh. Các tiêu
chuẩn để đo lường mức độ an toàn, lành mạnh và hiệu quả của ngân hàng phải được xây
dựng theo hướng tuân thủ chuẩn mực quốc tế - Basel II và Basel III - chứ không phải chỉ là
tiêu chuẩn của riêng Việt Nam.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) và các tỷ lệ an toàn khác: Hệ số CAR theo quy định
hiện hành của Việt Nam giới hạn tối thiểu ở mức 9% trong lúc theo tiêu chuẩn Basel III
mức tối thiểu chỉ 8%. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng theo quy định Basel III, dù đạt mức 8%

nhưng nếu vẫn dưới 10,5% (sau khi cộng thêm tỷ lệ đệm chuyển đổi 2,5%) thì các ngân
hàng này vẫn còn phải đặt dưới sự kiểm soát với các hạn chế. Mặt khác, Basel III còn quy
định tỷ lệ giới hạn đối với vốn cấp 1 và vốn cổ phần phổ thông -điều mà quy định của Việt
Nam hiện chưa đề cập đến. Hơn nữa, điều quan trọng là các chuẩn mực đo lường vốn và
phân loại tài sản của Basel III khắt khe hơn nhiều so với quy định hiện hành của Việt Nam.
Vì vậy, thay vì quy định tỷ lệ tối thiểu cao hơn quy định Basel trong lúc chuẩn mực đo
lườngvốn và phân loại tài sản thấp hơn quy định của Basel, Việt Nam nên cải cách theo
hướng chấp nhận các tỷ lệ tối thiểu thấp hơn quy định của Basel nhưng phải sử dụng các
chuẩn mực theo quy định của Basel để đo lường vốn và phân loại tài sản. Đồng thời, phải
đặt ra lộ trình cụ thể tăng dần mức tối thiểu nhằm hướng đến việc đạt chuẩn tỷ lệ tối thiểu
của Basel III trong 10-15 năm tới. Ngoài ra, cũng cần phải chú ý đến các tỷ lệ an toàn khác
theo quy định của Basel III như tỷ lệ đòn bẩy, tỷ lệ đảm bảo thanh khoản và tỷ lệ quỹ ổn
định ròng.
Tái cấu trúc bằng cách sáp nhập cơ học các ngân hàng với nhau chỉ giúp tăng vốn
điều lệ và quy mô tài sản mà không thể cải thiện sự an toàn vì CAR và các chỉ tiêu an toàn
khác không thể tăng lên nếu không có sự cải tổ toàn diện ngân hàng sau khi sáp nhập. Kỳ
vọng việc sáp nhập một ngân hàng mạnh với một ngân hàng yếu có thể biến thành một ngân
hàng mạnh. Mà ngược lại, trong một số trường hợp có thể biến ngân hàng mạnh trở nên yếu
hơn. Cũng không nên cho rằng các ngân hàng nhỏ là những ngân hàng yếu. Do đó, quá trình
mua bán hoặc sáp nhập cần phải được tính toán kỹ lưỡng.
1.1 Mua lại ngân hàng hay quốc hữu hóa một phần để tăng vốn
Biện pháp quốc hữu hóa ngân hàng như một số nước đã làm để giải quyết nhanh vấn
đề nợ xấu xử lý nợ xấu là một trong những nội dung quan trọng trong đề án cơ cấu lại hệ
thống các tổ chức tín dụng. Thời gian qua, đã có nhiều ý kiến về xử lý nợ xấu và nhiều giải
pháp đã được đưa ra như thành lập công ty mua bán nợ xấu, bán cổ phần cho đối tác… Hiện
NHNN đang cùng lúc sử dụng nhiều giải pháp để thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
và việc mua lại hay quốc hữu hóa một phần để tăng vốn là một trong những giải pháp được
cân nhắc đến. Sở dĩ dùng từ cân nhắc ở đây vì hệ thống NH ở VN không như các nước khác
đã sử dụng biện pháp này hiệu quả, về mặt lý thuyết đây là một đề xuất có ích nhưng trên
thực tế còn rất nhiều vấn đề còn thiếu logic.

Biểu đồ: tỷ lệ tợ xấu trên TTS và nợ xấu trên tổng dư nợ quý I năm 2012 của một số
NHTMCP tại Việt Nam.
Chính phủ có thể đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng. Đây là giải pháp đã
được thực hiện tại Mỹ và nhiều nước Châu Âu. Khởi đầu tại Anh, Chính phủ đã mua cổ
phiếu Royal Bank of Scotland (RBS) với giá 50.5 xu/cổ phiếu và sở hữu 67% ngân hàng
này. Chính phủ Anh hiện cũng sở hữu 43% ngân hàng Lloyds. Chính phủ Hà lan hiện sở
hữu Ngân hàng ABN Amro. Tuy nhiên, việc đầu tư vào các ngân hàng thương mại chỉ là
tạm thời, chính phủ có chiến lược bán lại cổ phiếu cho khối tư nhân khi hai ngân hàng này
hồi phục. Thực tế trước đó, RBS đã lỗ kỷ lục 24.1 tỷ bảng (US$34.2 tỷ) trong năm 2008 do
hạch toán dự phòng nợ NPL vào chi phí và do đó ăn gần hết vốn của RBS. Hậu quả là tỷ lệ
an toàn vốn CAR thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 8% theo yêu cầu và mức 10% theo kỳ
vọng của thị trường. RBS có hệ số dư nợ/ tiền gửi là 163% vào năm 2008, có nghĩa là RBS
phải đi vay 63% số vốn trên thị trường vốn. Một điểm cực kỳ quan trọng và có thể khác với
ở Việt Nam là, khi RBS có hệ số CAR rất thấp thì các ngân hàng và định chế tài chính khác
sẽ cắt đứt quan hệ tín dụng với RBS và RBS sẽ mất khả năng vay vốn trên thị trường liên
ngân hàng do lo ngại là số vốn còn lại của RBS sẽ không đủ để bù đắp các khoản lỗ trong
tương lai. Trong tình huống này, RBS mất thanh khoản hoàn toàn và lẽ đương nhiên, Chính
phủ đã ra tay thay vì để phá sản như Lehman Brothers. Chính phủ ra tay bằng cách mua cổ
phiếu của ngân hàng với giá rất rẻ (50 xu/cổ phiếu) và yêu cầu RBS thực hiện chương trình
tái cấu trúc tài sản và nguồn vốn trong đó bao gồm bán đi hết các tài sản không thuộc phạm
vi hoạt động cốt lõi. Tương tự, ngân hàng Lloyds đã phải đóng cửa nhiều chi nhánh ở nước
ngoài và bán 300 tỷ bảng tài sản (25% tổng tài sản) không nằm trong hoạt động cốt lõi.
Tại Việt Nam, theo một số chuyên gia đề nghị phải quốc hữu hóa những ngân hàng
có hệ số vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản dưới 8%, mà nợ xấu lên tới trên 10%, tức là đã
mất hết vốn. Hiện NHNN đang cùng lúc sử dụng nhiều giải pháp để thực hiện tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng, và “đó là một cách làm khôn ngoan của NHNN khi kịp thời can thiệp
xử lý những ngân hàng có nguy cơ sụp đổ lớn nhất, đã thành công và đã loại bỏ được tác
động xấu lan truyền của nó đến toàn hệ thống. "Một số ngân hàng khó khăn khác cũng được
NHNN hỗ trợ thanh khoản, và tạo điều kiện cho việc mua lại hoặc sáp nhập theo nguyên tắc
thị trường. Bằng cách này, việc xử lý các ngân hàng yếu đỡ tốn kém hơn, đồng thời cùng

tận dụng được lực lượng thị trường để giải quyết
Tuy nhiên, quốc hữu hóa ngân hàng có thể giải quyết nhanh vấn đề nợ xấu nhưng
chưa hẳn đã xử lý được nợ xấu. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi: Nếu NHTM có chủ sở hữu
về tay nhà nước, thì như vậy có “hô biến” được nợ xấu hay không, Hay cục nợ xấu vẫn còn
nằm nguyên ở đó.Bên cạnh đó với nợ xấu đang không ngừng tăng như hiện nay, thì để quốc
hữu hóa các ngân hàng, nguồn lực cả tài chính để tái cấp vốn và bảo đảm toàn bộ, bao gồm
mà còn là cơ chế và thẩm quyển của những cá nhân và đơn vị trực tiếp tham gia vào quá
trình quốc hữu hóa ngân hàng, phải rất khổng lồ. Thậm chí khổng lồ đến đâu chúng ta cũng
chưa ước tính được hết khi mỗi cấp cơ quan quản lý lại có một con số nợ xấu riêng. Ngoài
ra, thực tiễn của quá trình tái cơ cấu hệ thống tín dụng đang bị chậm lại mà nguyên do theo
tôi là lợi ích của nhóm tìm đặc lợi đang “ngáng chân”, cũng cho thấy nếu muốn quốc hữu
hóa ngân hàng là không dễ.
Suy cho cùng thì Quốc hữu hóa các ngân hàng mất sạch vốn do nợ khủng là một ý kiến hay,
cũng là một trường hợp đã có nhiều kinh nghiệm hay được thực thi từ các quốc gia khác.
Nhưng khi ứng dụng vào VN, có một số vấn đề cần đặt ra. Trong đó, quan trọng nhất là tình
trạng sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng VN. Quốc hữu hóa ngân hàng này chắc chắn sẽ
đụng chạm đến lợi ích, quyền lợi, nền móng và thượng tầng của những ngân hàng khác,
những ngân hàng đang có cùng các ông chủ, các nhóm lợi ích là cổ đông sáng lập, cổ đông
lớn. Như vậy liệu có quốc hữu hóa được không? Hơn nữa, câu hỏi đặt ra tiền đâu để xử lý
nợ xấu? Mà có, lại xử lý như thế nào để không phải lấy tiền của dân cứu các ngân hàng.
1.2: Chuyển các khoản vay của Ngân hàng Nhà nước sang cổ phần
Theo số liệu báo cáo, tổng các khoản NHNN cho các ngân hàng thương mại vay vào
thời điểm 31/12/2010 là 210 ngàn tỷ đồng (US$10 tỷ), nếu không tính các khoản vay cho
các ngân hàng quốc doanh và bán quốc doanh thì tổng dư nợ cho vay là 87 ngàn tỷ đồng
(US$4.3 tỷ). Theo kinh nghiệm của Thái Lan năm 1998, Chính phủ Thái bắt tất cả các ngân
hàng phải hạch toán đầy đủ dự phòng cho các khoản nợ xấu vào chi phí (xóa nợ hay
writeoff) và qua đó giảm vốn chủ sở hữu. Khi đó các ngân hàng có vốn chủ sở hữu rất thấp
so với trước khi xóa các khoản nợ xấu.
Cũng như phương án 1.1 nhưng điểm hay của phương án này là sau khi writeoff thì
vốn chủ sở hữu của các ngân hàng sẽ rất thấp và khi đó rất có lợi cho Chính phủ. Ví dụ nếu

trước khi hạch toán vốn của ngân hàng cần tái cấu trúc và 1.000 tỷ thì Chính phủ góp thêm
vốn 200 tỷ thì chỉ chiếm 20%. Tuy nhiên nếu nợ xấu của ngân hàng này cần writeoff là 800
tỷ thì vốn sau khi điều chỉnh chỉ còn 200 tỷ. Khi đó Chính phủ Thái bơm thêm 200 tỷ vào
vốn điều lệ tức là đã được sở hữu 50% ngân hàng này.
Đây đã được xem là biện pháp rất cứng rắn của Chính phủ Thái Lan trước sức ép của
Ngân hàng Thế giới WB và Quỹ tiền Tệ Quốc tế IMF, những đơn vị tài trợ chính cho cuộc
tái cấu trúc này. Nhiều ngân hàng thương mại Thái đã phải tìm mọi biện pháp tự đi tìm đối
tác tăng vốn thay vì sử dụng vốn của Ngân hàng Trung ương Thái.
1.3: Vốn đối ứng (Matching Fund Scheme)
Chính phủ tiến hành rà soát và xác định nhóm ngân hàng “xấu” cần phải tái cấu trúc
và lúc đó Chính phủ sẽ khuyến khích nhà đầu tư từ bên ngoài. Đây là hình thức đồng tài trợ
hay đầu tư. Ví dụ nếu nhà đầu tư bỏ 1.000 tỷ vào tăng vốn cho ngân hàng nào đó gặp khó
khăn thì Chính phủ cũng cam kết góp vốn thêm 1.000 ngàn tỷ để vực dậy ngân hàng này.
Vốn này thường được dùng từ các quỹ đặc biệt do Chính phủ lập ra để tái cấu trúc ngành.
1.4: Mở rộng room sở hữu nước ngoài trong thời gian nhất định
Đây là biện pháp mà Thái Lan và Thổ Nhĩ Kỳ đã áp dụng thành công. Một số ngân
hàng được tăng hạn mức cho nhà đầu tư nước ngoài (room) lên mức rất cao, ví dụ 75% từ
mức 30% hiện tại của Việt Nam, để nhà đầu tư mới có thể vào kiểm soát, chi phối và vực
dậy trong khoảng thời gian 10 năm. Cổ đông nước ngoài phải cam kết sau thời hạn 10 năm
thì phải giảm tỷ lệ sở hữu của họ xuống mức theo luật định thông qua việc bán lại cho cổ
đông trong nước hoặc chỉ phát hành cho cổ đông trong nước để giảm tỷ lệ sở hữu nước
ngoài. Theo chúng tôi, đây là biện pháp mà Ngân hàng Nhà nước có thể tính để nhằm thu
hút nhà đầu tư nước ngoài trong khoảng thời gian khó khăn nhất định của một nhóm ngân
hàng. Một số ý kiến cho rằng nên cho nước ngoài chi phối các ngân hàng tại Việt Nam để
tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu ngành ngân hàng Việt nam. Theo chúng tôi, điều này sẽ làm
gia tăng rủi ro bị nước ngoài chi phối ngành huyết mạch này của chúng ta. Nếu bị nước
ngoài chi phối thì hậu quả có thể sẽ vô cùng lớn chứ không phải như một số ngành khác như
thức ăn chăn nuôi, một số mặt hàng nông sản vốn đã bị phía Trung Quốc chi phối.
2- Giải quyết vấn đề thanh khoản
Cần làm rõ bản chất của vấn đề thanh khoản mà các ngân hàng thương mại, đặc biệt

là ngân hàng thương mại nhỏ, hiện đang gặp phải. Thực tế thời gian qua cho thấy nguyên
nhân chủ yếu của nó không phải là sự chênh lệch tạm thời giữa kỳ hạn cho vay và kỳ hạn
huy động trong hoạt động kinh doanh, mà thực chất là do nợ xấu không thu hồi được của
các ngân hàng này. Các khoản nợ xấu này chủ yếu nằm ở lĩnh vực bất động sản và các lĩnh
vực sản xuất có liên quan do sức cầu ở các thị trường này suy giảm mạnh trong hơn một
năm qua. Theo tính toán của ngân hàng Nhà nước (NHNN) thì chỉ riêng tổng dư nợ bất
động sản là xấp xỉ 200.000 tỉ đồng vào cuối năm 2011. Các khoản nợ này, nếu không thanh
toán được, sẽ ngày càng phình to với tốc độ tăng bằng với mức lãi suất trên dưới 20%/năm.
Với các khoản cho vay thuộc lĩnh vực bất động sản, sản xuất vật liệu xây dựng và cả
chứng khoán thì các ngân hàng thương mại hầu như chưa thu hồi được do các thị trường
này sụt giảm mạnh cả về giá lẫn giao dịch. Mỗi khi các khoản huy động đáo hạn, các ngân
hàng thương mại lại lâm vào tình trạng “đói” thanh khoản và sẵn sàng lao vào cuộc chạy
đua lãi suất gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ. Do vậy, vấn đề thanh khoản sẽ không thể
được giải quyết triệt để bằng cách tạm thời bơm tiền qua thị trường mở hay qua cửa sổ tái
cấp vốn/tái chiết khấu của NHNN. Hơn nữa, trong điều kiện lạm phát những tháng đầu năm
còn cao, dư âm lạm phát của những năm trước chưa mờ nhạt, nếu bơm tiền lâu dài cứu
thanh khoản có thể khiến nền kinh tế quay trở lại vòng xoáy lạm phát một lần nữa.
Giải pháp triệt để đối với vấn đề thanh khoản hiện nay phải là những biện pháp xử lý
nợ xấu đi kèm với quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và thay đổi một số
công cụ chính sách.
Giải pháp đơn giản thứ nhất là gỡ bỏ trần lãi suất huy động. Việc làm này sẽ giúp các
ngân hàng thương mại có thể huy động được các khoản tiền gửi mới từ công chúng, chứ
không chỉ là các khoản tiền gửi chạy từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Thực tế thời
gian qua đã cho thấy không thể ép các ngân hàng thương mại tuân thủ trần lãi suất trong
điều kiện họ thiếu thanh khoản. Với xu hướng giảm dần của lạm phát (so với cùng kỳ) và
các ngân hàng thương mại đang tự nguyện cắt giảm lãi suất huy động như hiện nay, việc gỡ
bỏ quy định trần này sẽ không gây xáo trộn gì nhiều trên thị trường tiền tệ.
Thứ hai, cùng với việc gỡ bỏ trần lãi suất thì việc phát triển và thực hiện các hợp
đồng tín dụng với lãi suất điều chỉnh theo lạm phát nhằm đảm bảo lãi suất thực dương sẽ
giúp làm tăng các hợp đồng tín dụng dài hạn, và từ đó giảm bớt căng thẳng thanh khoản.

Tuy nhiên, vì sự thiếu hụt thanh khoản hiện nay là do nợ xấu và xảy ra trên toàn hệ thống,
nên chỉ riêng những biện pháp này là không đủ. Giải pháp mấu chốt ở đây phải là đẩy nhanh
quá trình thu hồi, cơ cấu lại, bán các khoản nợ quá hạn và giải chấp các tài sản đảm bảo cho
các tổ chức tài chính có tiềm lực, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài nhằm huy động
nguồn lực. Quá trình này có thể mất nhiều thời gian và trong quá trình thực hiện nhiều ngân
hàng yếu có thể mất khả năng thanh toán. Để tránh sự đổ vỡ và tháo chạy dây chuyền thì
quá trình mua/bán sáp nhập giữa các ngân hàng cần phải được thực hiện nhanh với sự giám
sát, và nếu cần thiết là cả sự bảo trợ, của NHNN.
Thứ 3, Ngân hàng Nhà nước có thể đưa ra cơ chế thanh khoản đặc biệt hay còn gọi là
Special Liquidity Scheme và dùng các giao dịch phi tiền mặt như bảo lãnh các khoản vay
trên thị trường liên ngân hàng để tạo sự tin tưởng khi các ngân hàng và các tổ chức cho vay
lẫn nhau. Nhưng không phải bảo lãnh “suông” hay bảo lãnh “ngầm”. NHNN sẽ công khai
tính phí bảo lãnh rất cao nhằm cứu thanh khoản của các ngân hàng gặp khó về luồng tiền.
Biện pháp này đã từng được áp dụng ở Việt Nam qua trường hợp của ngân hàng Nam Đô
sau đó được BIDV mua lại vào năm 1998. Ngoài ra, để giải quyết thanh khoản, NHNN có
thể cho vay nhưng có đảm bảo dưới hình thức trái phiếu có bảo đảm. Ví dụ như
Techcombank muốn vay NHNN 1.000 tỷ đồng thì không phải vay thuần túy mà phải theo
trái phiếu có đảm bảo hay còn gọi là covered bonds. Tức lTechcombank phải tìm được ra
các khoản vay tốt (có giá trị cao hơn 1.000 ngàn tỷ đồng) và gói lại thành các trái phiếu.
NHNN sẽ mua trái phiếu bảo(repo) có đảm bằng ròng tiền từ các khoản vay tốt của
Techcombank với giá chiết khấu, ví dụ 80%. Lúc đó khoản vay được đảm bởi ròng tiền của
các khoản vay thương mại tốt này. Với hình thức này, ngân hàng sẽ có vốn hoạt động và
NHNN có được sự an toàn trong việc cho vay các ngân hàng thương mại.
3- Cải thiện lòng tin vào hệ thống ngân hàng
Đây có lẽ là giải pháp quan trọng nhất và khó nhất. Để có được lòng tin tốt hơn của
công chúng vào hệ thống ngân hàng là minh bạch hóa thông tin và thể hiện một kế hoạch tái
cấu trúc mạnh mẽ và quyết liệt theo tinh thần của Nghị Quyết Ban Chấp hành Trung Ương
Đảng Khóa XI. Câu chuyện minh bạch này rất giống với thông điệp của Ủy Ban An toàn
Giao thông của nước Úc là “hãy để các đối tượng tham gia giao thông biết được những gì
đang diễn ra trên đường và rủi ro để tránh họ bị bất ngờ. Còn việc họ tham gia giao thông là

một việc họ phải và sẽ vẫn phải làm hàng ngày”.
Ngoài ra, Chính phủ có thể xem sét tăng mức bảo hiểm tiền gửi lên để gia tăng lòng
tin của công chúng. Ở Việt nam hiện tại mức bảo hiểm tiền gửi tối đa là 50 triệu đồng (US$
2.500) và đã có một số ý kiến nâng mức bảo hiểm này. Ví dụ ở Anh đã gia tăng mức bảo
hiểm tiền gửi tối đa từ GBP 35.000 (US$55.000) lên GBP 85.000 (US$ 135.000) sau khủng
hoảng tài chính năm 2008. Tại Philiphines, mức bảo bảo hiểm tiền gửi là 500.000 peso
(US$12.000).
Việc chọn ra nhóm 12 ngân hàng thương mại mạnh, ông S. Goyal cho rằng, điều này
không tránh khỏi cảm giác của một số người cho rằng đó là những ngân hàng được ưa thích
hơn. Từ đó sẽ mang lại cảm giác không tin tưởng đối với các ngân hàng còn lại việc này có
vẻ như không công bằng cho lắm đối với các NH. Nhà nước dù có các biện pháp xếp hạng
đi nữa cũng không nên công bố các danh sách này rộng rãi, nó sẽ làm đánh giá sai từ phía
khách hàng về việc cho là ngân hàng này thì không tốt bằng ngân hàng kia.
4 Nhóm giải pháp chính sách
Cải thiện về môi trường kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và quản lý rủi ro, v.v.
Đây là nhóm các giải pháp mang tính lâu dài và đòi hỏi sự đồng bộ. Ví dụ tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng muốn thành công thì phải tái cấu trúc cả hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là
khối các doanh nghiệp nhà nước, các vấn đề về mất cân đối về kỳ hạn cho vay và huy động,
v.v. Đây là các rất học búa trong mọi chương trình cải tổ bởi nó không đơn thuần là các vấn
đề về mặt kỹ thuật tài chính.
Do tình hình kinh tế vĩ mô vẫn còn nhiều khó khăn nên việc xử lý nợ xấu sẽ mất thời
gian hơn và tốn nhiều chi phí hơn. Các nhà đầu tư cũng không thật sự tích cực bỏ vốn xử lý
"cục máu đông" trong cơ thể, dù biết là cần thiết. Bên cạnh đó, tình trạng sở hữu chồng chéo
giữa các ngân hàng dẫn tới khó nhận định chính xác con số nợ xấu cũng làm tiến trình xử lý
giẫm chân tại chỗ. Đồng thời, có lẽ thị trường vẫn còn tâm lý mong chờ một giải pháp hoàn
hảo, không gây thiệt hại cho hệ thống như xử lý nợ xấu không cần dùng đến tiền của nhà
nước, không để ngân hàng nào đổ bể… Thực tế, sẽ rất khó có một phương án đảm bảo được
lợi ích của tất cả thành phần kinh tế và không phải trả bất kỳ phí tổn nào. "Đặc biệt, xử lý
nợ xấu - ai làm? Người nào gánh lấy trách nhiệm và chịu hoàn toàn trách nhiệm và rủi ro về
mặt chính trị đó? Có lẽ đó là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc", TS

Lê Xuân Nghĩa chia sẻ.
5. Cải thiện hành lang pháp lý và xây dựng tiêu chuẩn ngân hàng hiện đại

×