Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đề tài cộng đồng ASEAN hướng tới thị trường chung AEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.67 KB, 22 trang )

BÀI TẬP NHÓM
Môn :
KINH TẾ QUỐC TẾ
NHÓM 5
ĐỀ TÀI: CỘNG ĐỒNG ASEAN HƯỚNG TỚI THỊ TRƯỜNG CHUNG AEC
I.Khái quát chung về ASEAN
1. Sự thành lập ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967
trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc, với 5 nước thành viên ban đầu là In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po
Ma-lay-xi-a, Phi-líp-pin, và Thái Lan. Sau 40 năm tồn tại và phát triển với nhiều thăng
trầm, ASEAN ngày nay đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực liên Chính phủ bao
gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á (thêm 5 nước là Brunei, Cămpuchia, Lào, Mianma và
Việt Nam), là một thực thể chính trị-kinh tế quan trọng ở Châu Á - Thái Bình Dương và
là đối tác không thể thiếu trong chính sách khu vực của các nước lớn và các trung tâm
quan trọng trên thế giới. Hiện nay, ASEAN đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới
với mục tiêu bao trùm là hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và hoạt động dựa
trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN.
2. Mục đích và nguyên tắc hoạt động
2.1) Mục đích hoạt động
Tuyên bố Băng Cốc (Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN - 8/8/1967)
được coi là Tuyên bố khai sinh ra ASEAN - nêu rõ tôn chỉ và mục đích của Hiệp hội là:
“Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực
thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở
cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng”
a) Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc luật
pháp trong quan hệ giữa các nước trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến
chương Liên Hợp Quốc;
b) Thúc đẩy sự cộng tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cần quan tâm trên
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và hành chính;
c) Giúp đỡ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu
trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính;


d) Cộng tác có hiệu quả hơn để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và các ngành công
nghiệp của nhau, mở rộng mậu dịch kể cả việc nghiên cứu các vấn đề về buôn bán hàng
hóa giữa các nước, cải thiện các phương tiện giao thông, liên lạc và nâng cao mức sống
của nhân dân;
e) Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á;
f) Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ
và mục đích tương tự và tìm kiếm các cách thức nhằm đạt đuợc một sự hợp tác chặt chẽ
hơn nữa giữa các tổ chức này
2.2) Nguyên tắc hoạt động
Các nước ASEAN luôn tuân theo 5 nguyên tắc chính là:
a) Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc
của tất cả các dân tộc b) Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc
mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
c) Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
d) Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện;
e) Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
f) Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
3. Thành tựu và hạn chế của thị trường chung ASEAN trong quá trình hoạt động
3.1 Thành tựu
a) Thành tựu quan trọng và nổi bật nhất của Hiệp hội là đã hoàn tất ý tưởng về một
ASEAN bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á, đưa đến những thay đổi căn bản về Hiệp
hội cũng như đối với tình hình khu vực.
ASEAN-10 đã giúp chấm dứt sự chia rẽ và đối đầu giữa các nước Đông Nam Á; tạo dựng
mối quan hệ mới về chất giữa các nước thành viên, trên cơ sở hữu nghị, hiểu biết và tin
cậy lẫn nhau, hợp tác toàn diện và ngày càng chặt chẽ cả về song phương và đa phương.
Đoàn kết và hợp tác ASEAN ngày càng được củng cố và tăng cường theo phương châm
bảo đảm sự “thống nhất trong đa dạng”, trên cơ sở các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của
Hiệp hội, nhất là nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau.
ASEAN-10 đã làm cho Hiệp hội trở thành một tổ chức hợp tác khu vực thực sự, mang

tính toàn diện và năng động hơn; và là nhân tố quan trọng bảo đảm hòa bình, an ninh,
hợp tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á và Châu Á-TBD. ASEAN cũng đã hình
thành được cách tiếp cận và phương thức giải quyết riêng đối với những vấn đề của khu
vực và quốc tế, đó là “Phương cách ASEAN”, trong đó chú trọng đối thoại và hợp tác,
năng động và linh hoạt để tìm được tiếng nói chung và đồng thuận.
b) Hợp tác nội khối ngày càng được đẩy mạnh cả về chiều sâu và bề rộng; và đã đạt được
những kết quả to lớn
+ Về chính trị-an ninh: ASEAN chủ động đề xướng và tích cực phát huy tác dụng của
nhiều cơ chế bảo đảm hòa bình và an ninh khu vực, như : Tuyên bố Đông Nam Á là Khu
vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN) năm 1971 ; Hiệp ước Thân thiện và Hợp
tác ở Đông Nam Á (TAC) ký năm 1976 ;Tuyên bố của các bên liên quan về cách ứng xử
ở Biển Đông (DOC) năm 2002, là bước quan trọng tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông,
ASEAN khởi xướng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) để tạo khuôn khổ thích hợp
cho ASEAN và các đối tác bên ngoài tiến hành đối thoại và hợp tác về các vấn đề chính
trị-an ninh ở Châu Á-TBD. ASEAN cũng tích cực đẩy mạnh hợp tác với nhau và với các
đối tác bên ngoài thông qua nhiều khuôn khổ, hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm
đối phó với những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như khủng bố
quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai, bệnh dịch,
+Về kinh tế: là lĩnh vực có những bước tiến quan trọng và hiện là động lực đẩy nhanh
tiến trình liên kết khu vực. Đến nay, ASEAN đã cơ bản hoàn tất các cam kết về hình
thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA), với hầu hết các dòng thuế đã
được giảm xuống mức 0-5%. Tiếp đó, ASEAN đã xác định 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập
sớm để đẩy mạnh hơn nữa thương mại nội khối. Kim ngạch thương mại nội khối hiện đạt
khoảng 300 tỷ USD và chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thương mại của ASEAN.
Việc thực hiện các thỏa thuận về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) đạt những tiến triển
quan trọng. Hợp tác ASEAN cũng được đẩy mạnh và mở rộng trong nhiều lĩnh vực kinh
tế như công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, giao thông vận tải, hải quan, thông tin viễn
thông, tiêu chuẩn đo lường chất lượng… ASEAN cũng coi trọng đẩy mạnh thực hiện
mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN, nhất là thông qua việc triển khai

Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) về hỗ trợ các nước thành viên mới (Cam-pu-chia, Lào,
Mi-an-ma và Việt Nam).
Mặt khác, ASEAN tích cực tăng cường hợp tác kinh tế-thương mại với các đối tác bên
ngoài, nhất là việc đàm phán thiết lập các khu vực mậu dịch tự do (FTA) với hầu hết các
nước đối thoại của ASEAN, như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôt-xtrây-lia
và Niu Di-lân, ….
+ Về văn hóa-xã hội: Các hoạt động hợp tác trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục-đào tạo,
khoa học – công nghệ, môi trường, y tế, phòng chống ma tuý, đã hỗ trợ cho các nước
thành viên nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề liên quan, đồng thời giúp tạo dựng
thói quen hợp tác khu vực, nâng cao nhận thức và ý thức cộng đồng ASEAN.
c/. Về quan hệ đối ngoại, ASEAN đã tạo dựng được quan hệ hợp tác nhiều mặt với nhiều
đối tác quan trọng trên thế giới, khởi xướng thành công và giữ vai trò chủ đạo trong một
số khuôn khổ hợp tác khu vực ở Châu Á-TBD. Hợp tác ASEAN rất đa dạng và phức tạp,
không chỉ bó hẹp trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và 10 nước thành viên ASEAN,
mà còn kể cả quan hệ đối ngoại của ASEAN thông qua các khuôn khổ hợp tác khu vực
do ASEAN lập ra và giữ vai trò chủ đạo như ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp cao Đông Á
(EAS) và Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF).Thông qua quan hệ đối ngoại, ASEAN đã
tranh thủ được sự hợp tác và hỗ trợ thiết thực từ các đối tác bên ngoài, phục vụ mục tiêu
an ninh và phát triển của Hiệp hội ; đồng thời góp phần quan trọng thúc đẩy và kết nối
các mối liên kết khu vực với nhiều tầng nấc khác nhau ở Châu Á-TBD.
3.2. Hạn chế
Kết quả hợp tác kinh tế trong thị trường chung ASEAN tuy đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn nhưng chưa thực sự tạo ra bước phát triển đột biến trong quan hệ kinh tế thương
mại. Thị phần thương mại nội khối mới chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị thương mại
của cả khối.
Tỷ lệ hàng hóa ASEAN tham gia thị trường toàn cầu chỉ ở mức 6%, là mức thấp so với
quy mô GDP của khối. Từng nền kinh tế ASEAN chưa thực sự là những nền kinh tế
mạnh và đang ở trong những giai đoạn phát triển kinh tế rất xa nhau. Vì vậy, cần đẩy
mạnh hơn nữa tiến trình hội nhập kinh tế toàn khối trong vòng 3 - 5 năm tới để cạnh tranh
với các đối tác đang trỗi dậy.

Hợp tác nội khối ASEAN đang đứng trước không ít khó khăn. Mặc dù thương mại nội
khối ASEAN đã duy trì ở mức ổn định 25% tổng khối lượng thương mại toàn khu vực,
song nếu so với trao đổi thương mại nội khối của EU (hơn 70%), thì rõ ràng mức hội
nhập và liên kết nội khối của ASEAN chưa cao.
Điều quan trọng nữa là mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển ASEAN 6
(Bruney, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore) với ASEAN 4 (Việt
Nam, Lào, Campuchia, Myanmar) khá cao - được coi là yếu tố cản trở chính của sự liên
kết kinh tế. Rõ ràng, những chênh lệch về kinh tế - xã hội, sự khác nhau về năng lực tổ
chức giữa các nhóm nước ASEAN đã kìm hãm tiến độ liên kết và hội nhập khu vực.
Chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên ASEAN còn được thể hiện ở chênh lệch
về sự phát triển của thị trường tài chính, năng lực tài chính , trong đó, việc thiếu tài trợ
tài chính trong khu vực được xem là khó khăn nhất. Chênh lệch về trình độ phát triển làm
cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực tập thể, tính khả thi của các chính sách chung
bị hạn chế
II. Thị trường chung ASEAN- Thách thức và trở ngại
Theo dự định của các nhà lãnh đạo ASEAN, AEC sẽ được thành lập vào năm 2015.
Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II nhấn mạnh: Cộng đồng Kinh tế ASEAN là việc thực hiện
mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020", nhằm hình
thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao,
trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do, và vốn được lưu chuyển tự
do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lêch kinh tế-xã hội được giảm
bớt vào năm 2020. Quá trình hiện thực hóa Thị trường chung ASEAN đang có nhiều
thuận lợi và thách thức.
1.Thuận lợi
Thứ nhất, ASEAN đã có các cơ chế mang tính ràng buộc hơn làm nền tảng cho các bên
liên quan trong việc thực hiện các cam kết APSC, đồng thời cuộc cải cách ở Myanmar
cũng mang lại những thuận lợi nhất định cho Hiệp hội.
APSC chứa đựng các vấn đề gai góc nhất và nhạy cảm nhất liên quan đến các vấn đề an
ninh (trong đó có tranh chấp chủ quyền quốc gia) và dân chủ - nhân quyền. Các nước
ASEAN sẽ bớt đi một nhân tố gây bất hòa khi bàn đến dân chủ và nhân quyền, theo đó,

ASEAN nhận được nhiều ủng hộ hiệu quả hơn từ Mỹ và phương Tây trong hiện thực hóa
APSC nói riêng và AC nói chung khi nút thắt Myanma được tháo gỡ.
Thứ hai, các nước thành viên ASEAN đang dần có tiếng nói chung trong một số vấn đề
nhạy cảm, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Trước những đòi hỏi vô lý và hành động ngày càng ngang ngược của Trung Quốc ở Biển
Đông, nhiều nước thành viên ASEAN dù không có tuyên bố chủ quyền trên vùng biển
này vẫn lên tiếng bày tỏ quan điểm. Trên thực tế, mặc dù Trung Quốc ra sức ngăn cản
nhưng đầu tháng 04/2012, các nước ASEAN đã họp thảo luận về COC (cuộc họp kết thúc
vào ngày 04/04/2012)(5). Ngày 25/05/2012, các quan chức cấp cao ASEAN họp tại
Campuchia đã thống nhất được các “yếu tố chính” của Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông.
Thứ ba, sự ủng hộ của hầu hết các nước lớn và cộng đồng quốc tế (trong đó có Liên Hợp
Quốc - LHQ) trước nỗ lực xây dựng AC.
Cho đến năm 2012, LHQ và ASEAN đã 4 lần tổ chức hội nghị cấp cao. Tại Hội nghị lần
thứ 4 tại Bali, Indonesia tháng 11/2011, hai bên đã ra Tuyên bố chung về đối tác toàn
diện, khẳng định việc thiết lập quan hệ đối tác toàn diện “là nhằm hỗ trợ các nỗ lực của
ASEAN trong việc xây dựng AC và đạt được các mục tiêu thiên niên kỷ”(6). LHQ ủng
hộ ASEAN trong các nỗ lực đảm bảo hòa bình và an ninh, thúc đẩy dân chủ và nhân
quyền (ủng hộ các cơ chế như Diễn đàn dân chủ Bali, AICHR, Ủy ban ASEAN về tăng
cường và bảo vệ quyền của Phụ nữ và trẻ em - ACWC…), đối thoại và cùng phối hợp
giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm(7).
2. Thách thức
Thứ nhất, về chính trị, việc ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin trong ASEAN đang
gặp nhiều
trở ngại. Trong khi giữa các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc cam kết tập thể
thúc đẩy hòa bình, ổn định, tin tưởng lẫn nhau và bảo đảm giải quyết hòa bình tranh chấp
ở Biển Đông, Trung Quốc vẫn ra lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương, vẫn thăm dò và khai
thác năng lượng trên vùng biển tranh chấp, mời thầu các lô dầu khí trong khu vực kinh tế
đặc quyền của Việt Nam. Ngoài ra, giữa các nước thành viên vẫn còn thiếu sự tin tưởng,
thậm chí là hoài nghi lẫn nhau, đe dọa thành quả hội nhập của Hiệp hội. Xung đột giữa
Campuchia và Thái Lan về đòi hỏi chủ quyền ngôi đền cổ Preah Vihear là ví dụ điển

hình. Suy giảm lòng tin đang là vấn đề đáng quan ngại trong nội bộ ASEAN.
Thứ hai, về kinh tế, có tám khó khăn mà ASEAN phải giải quyết:
Một là, chênh lệch phát triển giữa các thành viên. Đó là căn nguyên của hàng loạt vấn đề
như bất đối xứng trong quá trình thực hiện cam kết liên kết kinh tế, cản trở những quyết
sách hội nhập khu vực, quản lý kinh tế vĩ mô khó khăn có thể dẫn đến bất ổn. Tình trạng
chênh lệch về phát triển tác động bất lợi tới hợp tác xây dựng chính sách chung về
thương mại, đầu tư, đặc biệt về tài chính và tiền tệ.
Hai là, tầm quan trọng lớn hơn của thương mại đầu tư ngoài khối so với nội khối. Thực
tiễn ở ASEAN cho thấy thương mại và đầu tư nội khối đóng vai trò khiêm tốn hơn
thương mại và đầu tư với các đối tác bên ngoài. Thu hút đầu tư và thúc đẩy thương mại
quốc tế với đối tác bên ngoài bảo đảm tăng trưởng choASEAN, nhưng mặt trái của nó là
hiệp hội dễ bị tổn thương bởi những vấn đề bên ngoài hơn là bên trong. Sự phụ thuộc vào
bên ngoài dễ dẫn đến chệch hướng hội nhập, các nguồn lực khó được huy động tập trung
để giải quyết
Ba là, tính toán lợi ích quốc gia khác nhau của các nước thành viên ASEAN gây khó
khăn cho tiến trình hội nhập
Bốn là, tình trạng chia cắt thị phần khó khắc phục. Thị phần ASEAN bị chia nhỏ cho mỗi
đối tác, nguồn lực (tài lực, nhân lực, vật lực) ưu tiên dành cho AEC bị phân tán. AEC có
thể không thực hiện được mục tiêu xây dựng thị trường hàng hóa thống nhất, thay vào đó
là sự chia cắt mà những lợi ích từ tạo lập thương mại chưa thể bù đắp.
Năm là, “vấn đề Trung Quốc” của ASEAN. Kể từ khi ACFTA có hiệu lực, sức cạnh
tranh của hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc đã và đang thách thức các doanh nghiệp
ASEAN
Sáu là, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng mạnh hơn đang gây ra không ít trở ngại cho việc
hiện thực hóa AEC
Bảy là, hợp tác về tài chính và tiền tệ của ASEAN chưa tương thích với hợp tác thương
mại và đầu tư.
Sau cùng, năng lực thực hiện cam kết thấp do bản chất lỏng lẻo và mang tính tập hợp lực
lượng của ASEAN. Khác với EU, thành viên ASEAN không chịu sự “ràng buộc” trước
cáccam kết. Nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và tự

nguyện chính là điểm mấu chốt khiến hiện thực hóa những cam kết nội khối dễ bị bỏ qua
hoặc thực hiện nửa vời.
Ngoài ra, những thách thức liên quan đến môi trường ở các nước ASEAN như tỷ lệ bao
phủ của rừng giảm sút (do bị chặt phá, đốt hoặc cháy), sự gia tăng về dân số, sự tăng lên
nhanh chóng của dân cư thành thị, việc sử dụng thuốc trừ sâu và bảo vệ thực vật tràn lan
ở một số nước thành viên cùng việc sử dụng công nghệ lạc hậu (trong ngành công
nghiệp) phổ biến ở nhiều nước thành viên ASEAN đang là những thách thức lớn đối với
nỗ lực “đảm bảo sự bền vững của môi trường” như đã được vạch ra trong kế hoạch chi
tiết.
III. PHƯƠNG HƯỚNG , BIỆN PHÁP ĐỂ ASEAN THÀNH KHỐI
THỊ TRƯỜNG CHUNG AEC
1.Kinh tế
Cộng đồng kinh tế ASEAN là liên kết kinh tế của ASEAN, hình thành trên cơ sở một hệ
thống thể chế và thiết chế pháp lý, nhằm xây dựng ASEAN trở thành một thị trường và
cơ sở sản xuất thống nhất, có tính cạnh tranh cao, phát triển đồng đều giữa các thành viên
và hội nhập hoàn toàn vào nên kinh tế toàn cầu
Để có thể đưa ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, có tính phát
triển cao, phát triển đồng đều giữa các thành viên và hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế
toàn cầu thì các quốc gia ASEAN đã đưa hợp tác kinh tế lên một tầm cao mới phù hợp
với giai đoạn phát triển hiện nay của ASEAN. Chính vì vậy mà ý tưởng về thành lập một
cộng đồng kinh tế của ASEAN (AEC) đã được đưa ra và đang từng bước trở thành hiện
thực
a)Phương hướng:
Thứ nhất, thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất. Một thị trường và cơ sở sản xuất
thống nhất của ASEAN bao gồm năm yếu tố cốt lõi: Tự do hóa thương mại hàng hóa; Tự
do hóa thương mại dịch vụ; Tự do hóa đầu tư; Tự do hóa dòng vốn; Tự do di chuyển lao
động ngành nghề. Ngoài ra, thị trường và cơ sở sản xuất cũng bao gồm hai thành phần
quan trọng là: các lĩnh vực hội nhập ưu tiên; thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp.
ví dụ ở thái lan: Nhằm tăng cường năng lực cạnh trạnh cho các doanh nghiệp nước này
khi hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015, Thái Lan đã đang tiến hành các

biện pháp đồng bộ nhằm hỗ trợ toàn diện ở mức cao nhất cho các doanh nghiệp của
mình.Theo đó, các doanh nghiệp được cung cấp thông tin cụ thể và chi tiết các lĩnh vực
xuất nhập khẩu các nước trong ASEAN, các thế mạnh và những điểm chưa khắc phục
được của các đối tác mà doanh nghiệp Thái Lan sẽ cùng tiến hành kinh doanh khi
ASEAN ngày càng trở thành một thị trường thống nhất. Bộ Công nghiệp Thái Lan cho
biết, thời gian vừa qua đã tiến hành tập huấn và đào tạo cho hơn 7 nghìn doanh nghiệp
kinh doanh các lĩnh vực nội thất, may mặc, thực phẩm… về các kiến thức cơ bản trong
cạnh tranh kinh doanh tại môi trường ASEAN khi khối này hình thành cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) vào năm 2015. Bộ này cho biết, trong thời gian tới sẽ tiếp tục tập huấn,
đào tạo tiếp cho khoảng 1 nghìn doanh nghiệp có nhu cầu nhất, nhằm đạt mục tiêu hỗ trợ
8 nghìn doanh nghiệp trong năm nay.Kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh cho các
doanh nghiệp của Bộ Công nghiệp Thái Lan nằm trong 8 chiến lược mà Thái Lan đang
theo đuổi được chính phủ của Thủ tướng Yingluck Shinawatra vạch ra nhằm đưa Thái
Lan hội nhập toàn diện vào cộng đồng ASEAN theo dự kiến được hình thành vào năm
Thứ hai, khu vực kinh tế cạnh tranh cao. Có sáu yếu tố chủ yếu trong khu vực kinh tế
cạnh tranh ASEAN: chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ,
phát triển cơ sở hạ tầng, thuế và thương mại điện tử.
ví dụ: Malaysia khẳng định sẽ thực hiện phần lớn các biện pháp theo kế hoạch chi tiết của
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015. Tính đến thời điểm 3/2014, Malaysia
đã thực hiện gần 88% các biện pháp theo kế hoạch chi tiết về AEC. Trong khi tỷ lệ thực
hiện trung bình của các nước ASEAN đối với kế hoạch này mới chỉ ở mức 72%. Ưu tiên
của Malaysia là xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan, sự di chuyển của lao động lành nghề,
dịch vụ chuyên nghiệp và thúc đẩy đầu tư trong nội khối ASEAN. Do đó, Malaixia cần
phải tạo sự nhận thức về lợi ích của AEC. Đầu năm 2014, Malayxia đã tổ chức một cuộc
đối thoại không chính thức giữa Chính phủ và các doanh nghiệp với mục đích là nhằm
thu thập những phản hồi từ các bên liên quan về những sáng kiến hội nhập kinh tế khu
vực và sự phát triển tiếp theo của ASEAN sau năm 2015 và cũng nhằm phục vụ cho năm
Chủ tịch ASEAN 2015 của Malaysia. Indonesia cho rằng việc tăng cường hợp tác xây
dựng cơ sở hạ tầng giữa các nước ASEAN là yếu tố tiên quyết trước khi hội nhập. Tuyến
đường sắt xuyên Đông Nam Á sẽ được hoàn thành vào năm 2015, nối liền Singapore -

Malaysia - Thái Lan - Campuchia -Việt nam - Trung Quốc (Côn Minh) là ví dụ tiêu biểu
Thứ ba, khu vực phát triển kinh tế đồng đều. Phát triển khu vực kinh tế đồng đều của
AEC tập trung vào hai nội dung chính: phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia thành viên.
ví dụ:Singapore nhấn mạnh đến việc mở cửa thị trường chung ASEAN cần tập trung kết
nối trên 3 phương diện: trên đất liền, trên biển và kết nối không dây (Internet). Bà cũng
cho rằng, việc ASEAN kết nối thành một khối thống nhất sẽ tăng cường sức cạnh tranh
của khu vực khi đàm phán các hiệp định hàng không với các cường quốc kinh tế lớn như
Nhật Bản, Trung Quốc… hay các khu vực kinh tế thế giới như EU, NAFTA
Thứ tư, khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu. Để làm được điều này thì
AEC cần có cách tiếp cận thống nhất với các quan hệ kinh tế đối ngoại; tăng cường sự
tham gia của ASEAN vào mạng lưới cung ứng toàn cầu.
Theo thông tin từ phòng Thương mại và Đầu tư Philippines cho rằng nước này đã
chuẩn bị sẵn sàng cho kế hoạch mở cửa. Từ nhiều năm nay, Philippines đã đàm phán
giảm bớt gánh nặng thuế quan trên hầu hết các mặt hàng và dịch vụ với các nước trong
khối ASEAN, tiến dần tới mục tiêu thuế quan 0% năm 2015.
Thứ trưởng Bộ thương mại Adrian S. Cristobal Jr khẳng định, đối với Philippines
việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ tạo ra nhiều cơ hội thúc đẩy tăng trưởng
và đầu tư nội khối ASEAN, đồng thời tăng cường khả năng cạnh trạnh và sự mở rộng
hoạt động kinh doanh của các công ty trong khu vực.
Sự chuẩn bị cho AEC 2015 bắt đầu từ nhiều năm trước và một trong những
phương án là tham gia các thị trường ngoài Đông Nam Á. EEI, tập đoàn xây dựng sừng
sỏ của Philippines đã chọn Trung Đông để “rèn quân”. EEI có nhiều công trình quy mô
lớn tại địa phương, như sân bay Iloilo, hay hợp tác xây dựng nhà máy với nhiều công ty
hàng đầu thế giới như Coca-Cola, Ford, Nestlé, Intel… Kết quả là tổng giá trị hợp đồng
chưa hoàn tất của EEI vào tháng 6.2013 vào khoảng 600 triệu USD, với 45% thuộc về
các dự án nội địa, 55% ở nước ngoài. Mấy năm nay EEI cố gắng duy trì “tỷ lệ vàng” đó.
b)Biện pháp:
Xác định phương thức xây dựng và thực hiện AEC như sau:
Đẩy nhanh và hoàn thành các chương trình sáng kiến kinh tế hiện có với các “thời hạn rõ

ràng”; Xây dựng các sáng kiến, chương trình và tiếp tục hoàn thiện cơ chế liên kết kinh
tế; Áp dụng công thức trong hợp tác kinh tế để đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế; Phát
triển nguồn lực và truyền thông; Tăng cường hợp tác với bên ngoài.
Thiết chế pháp lý Thông qua các văn bản pháp lý về AEC, các thiết chế pháp lý của AEC
được xác định bao gồm:
- Hội nghị cấp cao ASEAN có quyền quyết tối cao đối với việc thi hành AEC như là một
phần của Cộng đồng ASEAN.
- Hội đồng điều phối ASEAN, gồm các bộ trưởng ngoại giao ASEAN, có trách nhiệm
điều phối việc thi hành ba cộng đồng.
- Hội đồng AEC bao gồm các bộ trưởng phụ trách lĩnh vực kinh tế của các nước thành
viên ASEAN có trách nhiệm đưa ra các định hướng, chính sách, các biện pháp tăng
cường hợp tác kinh tế của ASEAN và phối hợp với các cơ quan chuyên ngành cấp bộ
trưởng về hợp tác kinh tế trong từng lĩnh vực cụ thể. Hội đồng AEC có hai cơ quan giúp
việc là nhóm đặc trách cao cấp về hội nhập kinh tế ASEAN (HLTF) và hội nghị quan
chức kinh tế cao cấp (SEOM).
- Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng, bao gồm: Hội nghị bộ trưởng kinh tế
ASEAN (AEM); hội đồng khu vực thương mại tự do ASEAN (Hội đồng AFTA); Hội
đồng khu vực đầu tư ASEAN (AIA); Hội nghị bộ trưởng tài chính ASEAN (AFMM);
Hội nghị bộ trưởng nông – lâm nghiệp ASEAN (AMAF); Hội nghị bộ trưởng năng lượng
ASEAN (AMEM); Hội nghị cấp bộ trưởng về khoáng sản ASEAN (AMMin); Hội nghị
bộ trưởng khoa học và công nghệ ASEAN (AMMST); Hội nghị bộ trưởng ASEAN về
viễn thông và công nghệ thông tin (TELMIN); Hội nghị bộ trưởng giao thông vận tải
ASEAN (ATM); Hội nghị bộ trưởng du lịch ASEAN (M -ATM); Cơ quan hợp tác phát
triển lưu vực sông Mekong của ASEAN (AMBDC); Trung tâm năng lượng ASEAN
(ACE); Trung tâm ASEAN – Nhật Bản tại Tokyo. - Ban thư ký ASEAN Cấp độ liên kết
Theo lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế, xét về mặt nội dung, các liên kết khu vực
được cấu thành từ một hoặc một số hoặc từ tất cả các nội dung sau: Sự tự do thương mại
về hàng hóa; sự tự do thương mại về dịch vụ; sự tự do luân chuyển về đấu tư; sự tự do di
chuyển lao động; thuế quan chung đối với bên ngoài; hài hòa hóa và phối hợp chính sách
kinh tế vĩ mô; đông tiền và chính sách tiền tệ chung. Cũng căn cứ vào số lượng và tính

chất các yếu tố trên, các liên kết kinh tế khu vực được phân thành các cấp độ: Câu lạc bộ
thương mại ưu đãi (PTC); Khu vực thương mại tự do (FTA) hay còn gọi là khu vực mậu
dịch tự do; Liên minh thuế quan (CU); Thị trường chung (CM); Liên minh kinh tế tiền tệ
(EMU). Ta có thể biểu diễn các liên kết như sau: - Đồng tiền chung - Chính sách tiền tệ
chung - Phối hợp chính sách kinh tế - Tự do đầu tư - Tự do lao động - Thuế quan chung -
Tự do hàng hóa - Tự do dịch vụ .Khu vực thương mại tự do Liên minh thuế quan Thị
trường chung Liên minh kinh tế tiền tệ AEC
+) Liên hệ với các nước trong ASEAN
Đối với Malaixia
Để hướng tới sự hình thành AEC 2015, Malaysia khẳng định sẽ thực hiện phần lớn
các biện pháp theo kế hoạch chi tiết của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm
2015. Tính đến thời điểm 3/2014, Malaysia đã thực hiện gần 88% các biện pháp theo kế
hoạch chi tiết về AEC. Trong khi tỷ lệ thực hiện trung bình của các nước ASEAN đối
với
kế hoạch này mới chỉ ở mức 72%. Ưu tiên của Malaysia là xóa bỏ các hàng rào phi thuế
quan, sự di chuyển của lao động lành nghề, dịch vụ chuyên nghiệp và thúc đẩy đầu tư
trong nội khối ASEAN. Do đó, Malaixia cần phải tạo sự nhận thức về lợi ích của AEC.
Đầu năm 2014, Malaixia đã tổ chức một cuộc đối thoại không chính thức giữa Chính
phủ
và các doanh nghiệp với mục đích là nhằm thu thập những phản hồi từ các bên liên quan
về những sáng kiến hội nhập kinh tế khu vực và sự phát triển tiếp theo của ASEAN sau
năm 2015 và cũng nhằm phục vụ cho năm Chủ tịch ASEAN 2015 của Malaysia. Cuộc
đối thoại này cũng là diễn đàn giữa những người hoạch định chính sách và những nhà
kinh doanh trên thương trường nhằm chia sẻ những thông tin và những hiểu biết cần
thiết
nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Malaysia trong định hướng hội nhập kinh tế
ASEAN sau năm 2015. Tuy nhiên trong thực tế, vẫn còn những khoảng cách giữa kế
hoạch về một AEC và những gì đang thực hiện trên thực tế. Về khía cạnh đơn giản hóa
các thủ tục, Malaixia cho rằng các thành viên ASEAN cần phải đóng vai trò tích cực hơn
nữa trong việc giải quyết những rào cản về cơ chế và quy định nhằm đạt được một thị

trường năng động duy nhất, với sự di chuyển tự do của các dòng hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư và tự do luân chuyển của các dòng vốn và công nhân lành nghề
Đối với Campuchia
Theo Kinh tế trưởng của văn phòng Hội nhập Kinh tế Khu vực của ADB, Jayant
Menon: mặc dù, Campuchia là một trong 4 nước CLMV có sự chuẩn bị hội nhập AEC
kém hơn so với Thái Lan, Singapore, Malaixia và Indonesia, nhưng xét về tổng thể
những động thái chuẩn bị cho hội nhập AEC 2015, Campuchia vẫn vượt Lào, Việt Nam
và Myanmar. Campuchia tập trung phát triển chính sách thương mại mở cửa để thu hút
đầu tư, nới lỏng luật đầu tư và luật sở hữu, đồng thời tăng cường giáo dục đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao.Tuy nhiên, ông này khuyến cáo Campuchia cần đẩy nhanh cải
cách hải quan và để đẩy mạnh quá trình tự động hóa để giảm chi phí thương mại, giảm
thiểu tham nhũng và sẵn sàng cho việc trao đổi hải quan một cửa vào năm 2015.
Đối với Lào
Lào đang thực hiện chủ trương “Thu hẹp khoảng cách và phát triển theo hướng hội
nhập ASEAN (LPP)”. Để đẩy nhanh tiến trình chuẩn bị cho AEC của các doanh
nghiệp quốc doanh và tư doanh, Chính phủ Lào đã thông qua các hội thảo để nâng cao
nhận thức ASEAN và tập trung vào những mục tiêu quan trọng như cải thiện các quy
chế, phát triển nguồn nhân lực cùng hệ thống quản lí tài chính, nâng cao tiêu chuẩn và
chất lượng sản xuất hàng hoá. Tổng giám đốc sở ASEAN thuộc bộ ngoại giao Lào, ông
Khiane Phansourivong cho hay: “Khả năng cạnh tranh của Lào với các nước thuộc khu
vực ASEAN vẫn còn thấp. Cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải và dịch vụ chưa phát triển
cùng hệ thống ngân hàng còn nhiều thiếu sót có thể đặt Lào vào thế bất lợi.”
Đối với Myanmar
Myanmar đã từng là một nền kinh tế lớn của khu vực, sau một thời gian khá dài
đóng cửa nay lại trở thành một thị trường mới nổi, hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, để
nắm bắt những cơ hội mà AEC mang lại thì Chính phủ Myanmar cần phải tiến hành
hành
triệt để hàng loạt chính sách nhằm khắc phục tình trạng cơ sở hạ tầng yếu và thiếu, môi
trường chính trị chưa thực sự ổn định.
2. Chính trị

a) Phương hướng
Cộng đồng an ninh chính trị ASEAN (APFC) không nhằm tạo ra một khối phòng thủ
chung, một khối quân sự hoặc liên minh quân sự. Mà mục tiêu là tạo ra môi trường hòa
bình và an ninh cho sự phát triển ở khu vực Đông Nam Á, thông qua việc nâng cao hợp
tác an ninh chính trị ASEAN lên tầm cao mới với sự tham gia đóng góp xây dựng của các
đối tác bên ngoài.
ASEAN hoạt động dựa trên nguyên tắc “tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn
vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của các quốc gia thành viên” và được duy trì như là nền
tảng của sự hợp tác an ninh chính trị. Thúc đẩy khái niệm an ninh toàn diện với các khía
cạnh về chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội. Không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp; tiếp tục đề cao và phát triển các cơ chế và công
cụ có sẵn của ASEAN về hợp tác chính trị an ninh. Sẵn sàng mở rộng các quan hệ hợp
tác với các nước ngoài khu vực nhằm thúc đẩy hòa bình ổn định. ASEAN sẽ có một nền
an ninh chính trị hướng tới bảo đảm hòa bình lâu dài và vững chắc cho nhân dân các
nước thành viên qua đó góp phần tạo dựng môi trường khu vực và thế giới hòa bình,
công bằng và hòa hợp.
Các nước ASEAN lập ra các cơ chế hợp tác, trước hết là hợp tác trong các lĩnh vực an
ninh phi truyền thống.Không có một quốc gia nào có thể giải quyết tốt được vấn đề phát
sinh trong thảm họa mà không có sự hợp tác. Hợp tác đa phương là khuôn khổ tốt nhất để
giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống như cứu hộ, cứu nạn hoặc khắc phục
thảm họa.
Các nước thành viên ASEAN không tham gia liên minh quân sự với bất kỳ nước nào,
không để các lực lượng tổ chức nước ngoài sử dụng lãnh thổ của nước mình để chống lại
các nước thành viên khác. Vì vậy, các nước thành viên ASEAN cần nỗ lực phối hợp với
nhau để có một cơ chế hợp tác đa phương hiệu quả.
b) Nhiệm vụ và biện pháp
Thực hiện kế hoạch tổng thế xây dựng cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN. Các nước
thành viên tích cực tham gia vào các hoạt động thuộc phạm vi hợp tác chính trị, xây dựng
và chia sẽ chuẩn mực, ngăn ngừa xung đột, tham gia các hoạt động thuộc nội dung giải
quyết xung đột và kiến tạo hòa bình sau xung đột.

Nên thành lập các tổ chức như: Lực lượng gìn giữ hòa bình ASEAN, tập trận chung
ASEAN… nhằm nâng cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ học hỏi lẫn nhau giữa các nước
ASEAN.
Các nước thành viên nên tích cực đóng góp và xây dựng vào các văn kiện chung của
ASEAN. Về nhân quyền, chủ động tham gia với các giải pháp phù hợp tại cơ quan nhân
quyền ASEAN. Các nước thành viên nên chủ động đóng góp, bổ sung các giá trị, chuẩn
mực của nước mình, của châu Á, góp phần tạo nên “Bản sắc ASEAN” về nhân quyền,
tạo cơ sở bác bỏ các lập luận, quan điểm áp đặt của phương Tây.
Các nước thành viên tích cực phát huy tác dụng của các cơ chế bảo đảm an ninh khu
vực như: Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TDC) và Hiệp ước khu vực
Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ).
Tăng cường phối hợp giữa các nước ASEAN, cần có yêu sách chủ quyền nhằm duy trì
ổn định và giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông, các nước thành viên tích cực
thúc đẩy việc thực hiện tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), hướng
tới sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC), triệt để tận
dụng các diễn đàn khu vực như ARF, ASEAN+1 (Trung Quốc), ASEAN+3 (với 3 nước
Đông Bắc Á) và cấp cao Đông Á (EAF) để thúc đẩy hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu
vực. Tích cực triển khai đề án tổng thể về Biển Đông, xử lý phù hợp các đề xuất hợp tác
ở Biển Đông giữa các nước ASEAN với nhau và giữa các nước ASEAN với Trung Quốc.
Tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng trong khuôn khổ ASEAN, đẩy mạnh hợp tác
đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là đấu tranh phòng chống các
loại tội phạm có tổ chức và khủng bố quốc tế.
Thực hiện các Công ước và thỏa thuận của ASEAN cả đa phương và song phương để
tạo khuôn khổ pháp lý cho sự gia tăng, hợp tác về an ninh quốc phòng.
Quân đội các nước Asean chú trọng huấn luyện nâng cao khả năng chỉ huy tác chiến
hiệp đồng giữa các quân chủng, binh chủng và các lực lượng theo thời gian thực, nhất là
chỉ huy vượt cấp, trực tiếp từ cơ quan chiến lược xuống các đơn vị, phân đội chiến thuật,
thậm chí xuống đến người lính để kịp thời đối phó với mọi tình huống trên chiến trường.
Cùng với đó, Quân đội một số nước Asean chú trọng huấn luyện nâng cao khả năng tác
chiến điện tử (TCĐT) để đối phó thắng lợi với các thủ đoạn chiến tranh CBCNC. Đối với

các đơn vị chuyên trách TCĐT, tập trung huấn luyện làm chủ các loại vũ khí, trang, thiết
bị kỹ thuật, chiến thuật chuyên ngành TCĐT, nhằm đấu tranh bảo vệ điện tử và làm vô
hiệu hóa khả năng chế áp điện tử của đối phương. Để đối phó với các đòn tiến công bằng
vũ khí công nghệ cao, quân đội một số nước ASEAN đã coi trọng huấn luyện cơ động,
phòng tránh, đánh trả cho các lực lượng: thông tin, sở chỉ huy, pháo binh, pháo phòng
không, tên lửa, không quân, hải quân. Đồng thời, huấn luyện cho các đơn vị thành thạo
kỹ năng lợi dụng địa hình, kết hợp với sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để ngụy
trang, nghi trang và nghi binh, nhằm vừa bảo đảm bí mật, hạn chế tối đa thiệt hại về lực
lượng, phương tiện chiến đấu, vừa đối phó hiệu quả với các đòn tiến công bằng hỏa lực
mạnh của đối phương. Trong huấn luyện bảo đảm HC-KT, các nước này cũng chú trọng
phương châm “3 đúng” - về thời gian, địa điểm, số lượng và chất lượng. Do đó, họ huấn
luyện nâng cao năng lực xây dựng kế hoạch bảo đảm HC-KT cho chỉ huy các cấp; đồng
thời, tăng cường luyện tập các phương án bảo đảm HC-KT cho quân đội trong các nhiệm
vụ: động viên quốc phòng, cứu trợ thảm họa, …
Quân đội các nước Asean còn huấn luyện một số nội dung cần thiết để đối phó với
những thách thức, nguy cơ an ninh phi truyền thống, như: khủng bố, bạo loạn và các
thảm họa (lụt, bão, sóng thần, rò rỉ phóng xạ,…) đang có chiều hướng gia tăng cả về quy
mô, tính chất và cấp độ nguy hiểm. Để thực hiện nhiệm vụ này, họ tập trung biên soạn hệ
thống giáo trình, tài liệu về điều lệnh, điều lệ, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật;
đồng thời, tổ chức huấn luyện nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật cho các lực lượng chuyên
trách và huấn luyện hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị, lực lượng, nhằm tạo sức mạnh
tổng hợp để xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống thường xuyên và đột xuất của quân
đội, quốc gia.
Trong quá trình huấn luyện, các nước luôn bám sát đường hướng xây dựng quân đội; tổ
chức biên chế, vũ khí trang bị; đặc điểm đối tượng và điều kiện địa lý mỗi nước để xác
định nội dung huấn luyện; chú trọng huấn luyện, diễn tập các phương án tác chiến trên
nhiều loại địa hình và trong điều kiện thời tiết phức tạp
3. Giáo dục - văn hóa – xã hội
a) văn hóa-xã hội
Các quốc gia tích cực thham gia thực hiên kế hoạch tổng thể xây dựng cộng đồng văn

hóa xã hội asean. thúc đẩy hợp tác hướng tới 4 mục tiêu:
+)Xây dựng hệ thống an sinh xã hội vững mạnh nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi
với bình đẳng và công bằng xã hội.
+) Đảm bảo tính bền vững của môi trường và quản lí bền vững nguồn tài nguyên.
+) Kiểm soát tác động của hội nhập kinh tế.
+) Giữ gìn và phát huy di sản bản sắc văn hóa dân tộc.
Xây dựng kế hoach và lộ trình ,biện phapps phát triển nguồn nhân lực ,phát riển phúc lơi
và an sinh xã hội ,quyền bình đẳng xã hội ,bảo đảm môi trường bền vững .Tạo dựng bản
sắc ASEAN.
Tăng cường hoạt động giao lưu kinh tế ,văn hóa trao đổi quần chúng xử lí linh hoạt các
vấn đề nhạy cảm như về di cư, quền phụ nữ và trẻ em theo một khuôn khổ chung.
Chú trọng tham gia các hoạt động hợp tác phát triển xã hội ,văn hóa , giáo dục , thanh
niên , phụ nữ.Ví dụ như thành lập các tổ chức phát triển quyền của phụ nữ.
Đưa ra chính sách và sáng kiến cụ thể để thúc đẩy xây dựng bản sắc ASEAN ,phát triển
ngành công nghiệp văn hóa , khai thác hợp lí di sản văn hóa nhằm phục vụ tăng trưởng
kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Đẩy mạnh tình đoàn kết các quốc gia,hướng tới cộng đồng chung ,có nét văn hóa chung
không dùng vũ lực tẩy chay lẫn nhau trong khu vưc, cùng hướng tới cộng đồng chung
giải quyết các mâu thuẫn bằng thương lượng đàm phán hòa bình. Ví dụ : Trước mắt giải
quyết vần đề biển Đông , biển trung Đông, tình hình bán đảo TRIỀU TIÊN, bạo lực ở
Trung Đông hay vấn đề dich ebolla
Chú trọng mở rộng liên kết các học viên ,các trường văn hóa nghệ thuật trong ASEAN
nhằm chia sẻ kinh nghiệm và cải tiến chất lượng. Ví dụ : Tiến hành hội nghị phụ trách
văn hóa của ASEAN vơi Hàn Quốc, Nhật Bản.
b) Về giáo dục
Cần tập trung nhiều hơn cho giáo dục vì giáo dục là yếu tố then chốt ,đóng vai trò quan
trọng trong việc thu hẹp phát triển giữa các nước trong khu vực ASEAN .
Tăng cường nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục với mục tiêu đào tạo tiếng nước
ngoài ,ngoài tiếng anh còn bổ sung một ngôn ngữ chung trong khu vực ASEAN.
Ví dụ :đến năm 2015 hầu hết sinh viên tốt nghiệp ra trường có thể giao tiếp thành thạo.

Phát triển nguồn nhân lực ,nhân lực phải có hiểu biết và làm được để nâng cấp máy móc
đồng bộ.
Các quóc gia có chính sách ưu đãi riêng cho giáo dục,ưu tiên phát triển nguồn chất lượng
cao. Ví dụ: chính phủ Indonexia hỗ rợ cung cấp các chương trình đào tạo gióa dục nhằm
nâng cao nguồn nhân lực trong nước và thành lập tổ chức phối hợp đào tạo nghề( VTCI)
và hệ thống đào tạo nghề quốc gia.
Đẩy mạnh tăng chi cho giáo dục. Ví dụ :XIN GAPO tăng chi cho giáo dục từ 2.8 % lên
4.1%(1990) và hướng tới 10% năm 2015.ngoài ra còn thành lập ủy ban tuyển dụng nhân
tài.
Chú trọng đầu tư khoa học công nghệ,khoa học tự nhiên.ví dụ:tăng lượng giáo viên
trong lĩnh vực KHCN, tăng tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp nghành KHCN lên 40% so với toàn
bộ sinh viên ra trường mỗi năm.thực hiện đảo dòng chất xám .tăng tài chính để các
chuyên gia về nước nghiên cứu khoa học.
Việc hướng tới xây dựng cộng dồng kinh tế chung asean năm 2015 tạo cho các nước
nhũng cơ hội khác nhau trong văn hóa giáo dục xã hội.nét đẹp văn hóa các nước được
cùng nhau giữ gìn và phát huy.đồng thời các nước hợp tác về giáo dục giúp các nước
giảm bớt khoảng cách về trình độ.trao đổi kinh nghiệm cùn phát triển .Bảo đảm tình đoàn
kết hữu nghị giữa các quốc gia.Đồng thời tạo ra những khó khăn như việc làm quen với
nét văn hóa có sự riêng biệt rất khó khăn,đồng thời có sự chảy máu chất xám giữa các
nước.
III. VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HÓA THỊ
TRƯỜNG CHUNG AEC
1.Kinh tế
a) Sự chuẩn bị của Việt Nam để tham gia vào thị trường chung
Nhằm tiến tới tự do hóa hoàn toàn về thuế quan, ASEAN đã thống nhất sẽ xóa bỏ toàn
bộ thuế quan, đối với ASEAN 6 (gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan) vào năm 2010 và với các nước CLMV (Campuchia, Lào,
Myanmar, Việt Nam) vào năm 2015 với một số linh hoạt đến 2018 (khoảng 7% tổng số
dòng thuế).
Ngoài ra, một số mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm của Việt Nam như mía đường được

phép duy trì mức thuế suất 5% sau giai đoạn 2018. Để hoàn thiện lộ trình cắt giảm thuế
quan trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), Bộ Công Thương đang
tích cực phối hợp với Bộ Tài chính để lấy ý kiến các bộ, ngành cũng như các hiệp hội DN
xây dựng danh mục 7% số dòng thuế linh hoạt sẽ được xóa bỏ vào năm 2018.
Bộ Công Thương đang tích cực phối hợp với các nước để xây dựng cơ chế vận hành và
các vấn đề kỹ thuật khác liên quan đến cơ sở dữ liệu thương mại ASEAN (ATR). Với
mục tiêu thúc đẩy sự phát triển các mạng lưới sản xuất, thương mại trong khu vực, bên
cạnh việc cắt giảm thuế quan, các nước ASEAN cũng đang nỗ lực cắt giảm các hàng rào
phi thuế quan (NTM). Các nước đang tiếp tục trao đổi về mặt kỹ thuật đối với việc xác
định và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan này.
Việt Nam cũng đang tích cực triển khai các biện pháp khác để thực hiện cam kết về dịch
vụ và đầu tư trong ASEAN để hướng tới hình thành một thị trường đơn nhất, một cơ sở
sản xuất và phân phối chung. Thực hiện Quyết định 48/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc thí điểm cơ chế một cửa quốc gia, ngày 26-2-2014, Việt Nam đã chính
thức khởi động hệ thống một cửa quốc gia với sự tham gia của Bộ Công Thương, Bộ
Giao thông-Vận tải và Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan). Hiện nay các bộ, ngành có liên
quan khác cũng đang chuẩn bị các công việc phục vụ kết nối giai đoạn 2 của Quyết định
48/2011/QĐ-TTg nêu trên. Việt Nam đang cân nhắc để tham gia dự án tự chứng nhận
xuất xứ số 2 trong ASEAN.
Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ cho phép các doanh nghiệ (DN) được chứng nhận, bao
gồm các nhà xuất khẩu, thương nhân, các nhà sản xuất đã chứng minh được khả năng
tuân thủ các yêu cầu về xuất xứ để có thể tự xác định rõ nguồn gốc của hàng hóa thay vì
phải có giấy chứng nhận xuất xứ do cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ cấp.
Việc Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ gặp nhiều cơ hội cũng như thách
thức trong lĩnh vực kinh tế .
b) Cơ hội
+) Cơ hội có được một thị trường rộng lớn hơn
AEC với việc tự do hóa dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ
khuyến khích các hoạt động kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Đầu tư nước ngoài
trực tiếp gia tăng và hoạt động kinh tế ở khu vực đương nhiên sẽ mang lại việc gia tăng

nhu cầu bảo hiểm ở Đông Nam Á. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đầu tư hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ nhiều hơn ở các nước khác trong khu vực ASEAN… Đây là cơ
hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường. Mặt khác,
AEC tạo lập một khu vực thị trường và sản xuất thống nhất, dẫn đến kinh tế của nhiều
nước trở nên phồn vinh hơn, dẫn đến tăng thu nhập và hình thành nên một lượng mới
người tiêu dùng trung lưu với thu nhập cao - cũng là đối tượng khách hàng rất tiềm năng
của các doanh nghiệp.
+)Cơ hội mở rộng xuất khẩu
Khi tham gia vào AEC, thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam sẽ ngày càng
mở rộng. Thêm vào đó, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài
hơn, đặc biệt là từ các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore, Indonesia
AEC giúp tăng trưởng xuất khẩu. ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng
đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và
xuất khẩu trong nhiều năm qua, vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ.
Với lợi thế là khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. Xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN
chủ yếu là nông sản, hải sản và khoáng sản thô. Những mặt hàng này tuy hầu hết đều
được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá
cả phụ thuộc vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn định.
Khi AEC hình thành, các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán hàng sang các nước
ASEAN gần như bán hàng trong nước. Đây là một trong những thuận lợi đối với việc lưu
chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp. Hơn nữa, các thủ tục xuất nhập khẩu sẽ đỡ rườm
rà hơn và việc cải cách thủ tục xuất xứ, tiến tới cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận
xuất xứ cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thông quan hàng hoá sang các
thị trường ASEAN.
Doanh nghiệp trong nước sẽ tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
từ các nước ASEAN cũng như các đối tác ngoài ASEAN, cải thiện chất lượng, mẫu mã
sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng thương hiệu, hình ảnh. Cùng với
việc tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu của ngành và giảm thiểu phụ thuộc vào
các nhà cung cấp nước ngoài, các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược phát triển liên

kết nội khối tạo chuỗi sản xuất lớn để có thể nhận những đơn hàng lớn
+)Cơ hội thu hút các nguồn đầu tư
Cơ hội được trông đợi nhất đó là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát
triển. Bởi vì việc kết nối và xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt chia cắt hơn, sẽ khiến
các nhà đầu tư lớn nhìn ASEAN như một sân chơi chung, một công xưởng chung, ở đó
có khối nguồn lực thống nhất, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá còn tương
đối rẻ. AEC cũng sẽ giúp Việt Nam cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh từ thủ tục
hải quan, thủ tục hành chính cho tới việc tạo ra ưu đãi đầu tư cân bằng hơn. Thu hút đầu
tư nhiều hơn đồng nghĩa với quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh và tích cực
hơn, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp, tạo đà cho nền công nghiệp
Việt Nam hướng tới phát triển cân bằng với các quốc gia khác.
+)Bên cạnh đó còn có một số cơ hội khác như :
-Thúc đẩy quá trình thực hiện các đột phá chiến lược để đửa Việt Nam về cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học- công nghệ. Đường lối hội nhập quốc tế chủ
động, tích cực được thực hiện thành công.
- Tạo cơ hội để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng khu vực
trước hết là chuỗi cung ứng giá trị hàng nông sản và các sản phẩm chế tạo trung gian.
-Tăng cường sự hiểu biết toàn diện giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC khác, mở
rộng giao lưu văn hóa- xã hội giữa các quốc gia, tạo điều kiện để phát huy các giá trị và
bản sắc Việt Nam trong AEC, góp phần giảm bớt sự khác biệt trong nhận thức và trình độ
phát triển
c) Thách thức
Những gì là cơ hội cũng đồng thời có thể là thách thức đối với Việt Nam. Việt Nam gặp
rất nhiều thách thức như :
Một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam khi tham gia vào AEC là sự chênh
lệch về trình độ phát triển so với các nước ASEAN , thể hiện cả ở quy mô vốn của nền
kinh tế, các doanh nghiệp, trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề lao động,…
Vấn đề năng suất lao động của Việt Nam thấp là một trong những thách thức của Việt

Nam. So với các nước trong khu vực ASEAN, năng suất trung bình của người lao động
Việt Nam thấp dưới một nửa so với Philippines, 2 người lao động Thái Lan, Mailaysia
bằng 5 người lao động Việt Nam, 1 người lao động Singapore bằng 15 người lao động
Việt Nam. Như thế chúng ta có thể hình dung chất lượng của lao động Việt Nam hiện nay
thấp như thế nào. Lao động chất lượng thấp đồng nghĩa với tính kém đa dạng của các loại
kỹ năng, khả năng sáng tạo cũng như hiệu quả tổ chức. Với những đặc điểm này, Việt
Nam sẽ không phải là một điểm đến hấp dẫn cho những dự án đầu tư mang tính tiên
phong về công nghệ hoặc quy mô. Và điều này sẽ là nguyên nhân tách Việt Nam (và các
nước đi sau) ra ngày càng xa các nước đã có một nền tảng tốt hơn trong ASEAN (như
Malaysia, Thái Lan hoặc Indonesia).
Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Với
việc đẩy mạnh tự do hóa thương mại nội khối, hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa
các nước thành viên AEC sẽ dần bị xóa bỏ. Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ
phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng hóa từ các nước khác trên thị trường ASEAN do
AEC hình thành sẽ tạo ra thị trường chung, không còn các rào cản hàng hóa, dịch vụ,
vốn.
2.Chính trị
Cộng đồng Chính trị - An ninh(APSC) là một trong ba trụ cột chính trong quá trình hình
thành một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
APSC hoạt động dựa trên nguyên tắc "tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn
lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia thành viên" và được duy trì như là nền
tảng của hợp tác chính trị - an ninh
a. Quan điểm của Việt Nam về vấn đề này
APSC là bước phát triển cao hơn của hợp tác chính trị - an ninh ASEAN
Mục đích của APSC là tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở
khu vực Đông Nam Á,chứ không nhằm tạo ra một khối phòng thủ chung như NATO hiện
nay,hay SEATO trước đây.
Nhấn mạnh tới tầm quan trọng của sự tham gia của các đối tác bên ngoài đối với sự
thành công của APSC.
b.Việt nam có vai trò và đóng góp rất lớn trong vấn đề chính trị - an ninh của ASEAN

Việt Nam đã hoàn thành tốt trọng trách Chủ tịch ASEAN năm 2010, theo đúng chủ đề
“Hướng tới Cộng đồng ASEAN: từ tầm nhìn đến hành động”, Việt Nam đóng vai trò
quan trọng trong việc đề xuất định hướng hợp tác và hoạt động của ASEAN trong suốt
năm 2010. Việt Nam tập trung vào các ưu tiên như thúc đẩy đoàn kết và hợp tác ASEAN,
đẩy mạnh liên kết khu vực nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN,
hoàn tất việc đưa Hiến chương ASEAN vào cuộc sống; mở rộng và tăng cường hơn nữa
quan hệ hợp tác toàn diện giữa ASEAN với các bên đối tác; củng cố và duy trì vai trò
quan trọng của ASEAN tại các khuôn khổ hợp tác khu vực, đóng góp cho hòa bình, ổn
định và phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có vai trò quan trọng đưa hai
nhóm nước ASEAN xích lại gần nhau nhờ vị trí địa - chính trị và quá trình lịch sử của
Việt Nam tạo ra .Việt Nam đã đóng góp lớn trong việc xây dựng Tuyên bố về cách ứng
xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thúc đẩy sớm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (COC).
Chúng ta cũng đã chủ trì bàn bạc với ASEAN và các đối tác để đưa ra nhiều quyết sách
quan trọng trong năm 2010. Đáng chú ý là việc xây dựng Kế hoạch hành động Hà Nội
thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF (2010); thúc đẩy ASEAN đồng thuận quyết định mở
rộng Cấp cao Đông Á (EAS) cho Nga và Mỹ tham gia; vận động và chủ trì thành công
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN với các đối tác (ADMM+) lần đầu tiên ở Hà
Nội;Việt Nam là nước điều phối quan hệ ASEAN-EU (2012-2015); duy trì vai trò chủ
đạo của ASEAN trong cấu trúc khu vực…
Tựu chung lại, chúng ta đã luôn thể hiện tinh thần tích cực, chủ động và trách nhiệm
trong các công việc chung của ASEAN, cùng ASEAN không ngừng củng cố và thúc đẩy
môi trường hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển ở khu vực. Nhìn chung, các nước đã
đánh giá rất cao vai trò chủ động tích cực của Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực phát
triển mà còn cả trong đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác của khu vực, góp
phần cùng các nước trong ASEAN hướng tới một Cộng đồng ASEAN thịnh vượng vào
năm 2015.
c.Thuận lơi
Tiếp tục phát huy vai trò chủ động, tích cực cho việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn
định, an ninh và phát triển thịnh vượng ở khu vực.

Phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN trong cấu trúc hợp tác khu vực và khuyến khích
các đối tác tham gia tích cực vào hợp tác vì hòa bình, an nih và phát triển ở khu vực,
trong đó có việc thúc đẩy xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử chung, phát huy giá
trị và vai trò của các diễn đàn khu vực do ASEAN chủ xướng (ASEAN+1, ASEAN+3,
hội nghị cấp cao Đông Á, ARF, ADMM+ ), cũng như hợp tác ứng phó hiệu quả với các
thách thức đang đặt ra cho khu vực. Góp phần quan trọng trong phá thế bao vây về chính
trị, cô lập về kinh tế, tạo thuận lợi cho triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ; đa
phương hóa, đa dạng hoá của Đảng ta.
Ta dần có tiếng nói chung với cộng đồng ASEAN trong một số vấn đề nhạy cảm, đặc
biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông.trước những đòi hỏi vô lí và ngày càng
ngang ngược của Trung Quốc ở biển Đông, nhiều nước thành viên ASEAN dù không có
tuyên bố chủ quyền trên vùng biển này vẫn lên tiếng bày tỏ quan điểm.
d.Khó khăn
Việc ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin với các nước thành viên khác trong
ASEAN đang gặp nhiều trở ngại. Do vấn đề nội bộ đang phức tạp nên có rất nhiều
chương trình hành động về ASEAN chưa được hoàn thành như: chống phá sản xuất buôn
bán và sử dụng trái phép các loại ma túy (2009-2015) hay diễn đàn tư vấn đánh bắt cá
đang gặp nhiều vướng mắc.hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN (2004) chưa
có hiệu lực do Thái Lan vẫn chưa phê chuẩn,hiệp định ASEAN về chống khủng bố
(ACCT) đã không thể có hiệu lực vào năm 2009 như đề ra trong kế hoạch chi tiết APSC
do chưa đủ 6 nước phê chuẩn Tất cả những vướng mắc đó gây ảnh hưởng rất lớn đến
Việt Nam.
3. Giáo dục - văn hóa – xã hội
Cộng đồng văn hóa-xã hội (ASCC) chính là trụ cột thứ 3 trong trong quá trình hình
thành một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.Mục tiêu của ASCC là” Cộng đồng các xã
hội đùm bọc lẫn nhau”.
Cộng đồng Văn hoá – Xã hội ASEAN ưu tiên đối phó với các thách thức toàn cầu hiện
nay, nhất là việc khắc phục khó khăn thời kỳ hậu khủng hoảng; biến đổi khí hậu, thiên
tai, dịch bệnh; phát triển nguồn nhân lực cho phục hồi và phát triển kinh tế; thúc đẩy
phúc lợi xã hội và phát triển cho phụ nữ và trẻ em ASEAN; nâng cao bản sắc văn hoá

ASEAN.
Sự phát triển của Cộng đồng Văn hoá - Xã hội hội được xem xét và đánh giá trên cơ sở
việc tổ chức thực hiện và triển khai kế hoạch tổng thể của cộng đồng văn hoá xã hội. Kế
hoạch Tổng thể ASCC bao gồm 6 lĩnh vực trọng tâm (a) Phát triển Con người; (b) Phúc
lợi và Bảo hiểm Xã hội; (c) Các Quyền và Bình đẳng Xã hội; (d) Đảm bảo Môi trường
Bền vững; (e)Tạo dựng Bản sắc ASEAN; và (f) Thu hẹp Khoảng cách Phát triển. Kế
hoạch của Cộng đồng Văn hoá - Xã hội thực hiện trong giai đoạn 2009-2015 bao gồm 40
cấu phần với 340 hoạt động.
a.Quan điểm của Việt Nam và 4 trọng tâm thúc đẩy thực hiện kế hoạch tổng thể xây
dựng ASCC
Một là, đẩy mạnh hơn nữa các nỗ lực và tiến hành các biện pháp phù hợp để thực hiện
các cam kết và các ưu tiên đã được xác định trong Kế hoạch tổng thể về xây dựng ASCC,
trong đó tập trung nguồn lực thích đáng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để bảo
đảm tính thực thi hiệu quả các thoả thuận.
Hai là, coi trọng việc tăng cường điều phối và phối hợp hành động giữa các cơ quan
thuộc trụ cột Văn hoá –Xã hội, nhất là vai trò điều phối của Hội đồng Cộng đồng Văn
hoá-Xã hội.
Ba là, có giải pháp bảo đảm nguồn lực để thực hiện kế hoạch tổng thể xây dựng ASCC
theo đúng lộ trình. Trước hết phải xây dựng một cơ chế thích hợp nhằm huy động và
quản lý hiệu quả các nguồn lực, từ cả các nước thành viên cũng như các đối tác của
ASEAN, trong đó quan tâm hơn sự tham gia của khu vực tư nhân.
Bốn là, các nước thành viên cần tích cực và chủ động lồng ghép các mục tiêu và biện
pháp của Kế hoạch tổng thể về xây dựng ASCC với các mục tiêu và kế hoạch phát triển
quốc gia, đảm bảo các mục tiêu và hoạt động của ASEAN trong lĩnh vực văn hoá xã hội
được nội hoá ở cấp quốc gia, qua đó hỗ trợ thúc đẩy và bổ sung cho những nhu cầu phát
triển của quốc gia cũng như việc thực hiện tốt hơn kế hoạch chung của ASCC.
Trong một hội nghị ASCC4 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu: “Để hiện thực hoá
mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, trong nhiều năm qua, các quốc
gia ASEAN đẩy mạnh hợp tác về văn hoá, xã hội nhằm xây dựng Cộng đồng Văn hoá -
Xã hội ASEAN. Đó là một cộng đồng đoàn kết và thống nhất bền lâu giữa các quốc gia,

các dân tộc ASEAN; một cộng đồng chia sẻ, đùm bọc và rộng mở, không ngừng thu hẹp
khoảng cách và xây dựng bản sắc chung. Một cộng đồng trong đó lấy con người làm
trung tâm, luôn hướng tới phục vụ, nâng cao chất lượng cuộc sống, sự phát triển của con
người; tăng cường phúc lợi, bảo trợ xã hội; bảo đảm công bằng xã hội và các quyền cơ
bản của con người; bảo đảm tính bền vững và thân thiện với môi trường”.
b.Trong vấn đề văn hóa xã hội Việt Nam có vai trò đóng góp rất lớn
Việt Nam đã đề xuất và chủ trì xây dựng 2 dự thảo Tuyên bố quan trọng (về phát triển
nguồn nhân lực và về thúc đẩy phúc lợi và phát triển cho phụ nữ và trẻ em ASEAN); đưa
ra các sáng kiến và tích cực thực hiện các cam kết trong hoạt động chuyên ngành thuộc
Cộng đồng Văn hoá - Xã hội (như tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN, Cuộc
họp của Uỷ ban Thúc đẩy và Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em ASEAN ).
Năm 2010 với vai trò là Chủ tịch Cộng đồng Văn hoá - Xã hội ASEAN, Chủ tịch Hội
nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN lần thứ 21, Chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Phúc lợi Xã
hội và Phát triển ASEAN lần thứ 6, Việt Nam đã đóng góp tích cực trong hoạt động của
Cộng đồng Văn hoá - Xã hội thông qua việc đưa ra các sáng kiến, xác định ưu tiên cho
hoạt động của Cộng đồng Văn hoá - Xã hội và ưu tiên cho lĩnh vực hoạt động hợp tác
chuyên ngành về lao động và xã hội. Trong nhiệm kỳ là chủ tịch của Cộng đồng Văn hoá.
Xã hội Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Văn hóa - Xã
hội ASEAN lần thứ ba (ASCC 3) vào ngày 7/4/2010 trước thềm Hội nghị Cấp cao
ASEAN lần thứ 16 tại Hà Nội, và Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội
ASEAN lần thứ 4 tại Đà Nẵng với sự tham gia của các Bộ trưởng phụ trách Văn hóa –
Xã hội của các nước ASEAN. Các Hội nghị của Cộng đồng Văn hoá - Xã hội ASEAN
năm 2010 đã thống nhất tiến trình thực hiện các ưu tiên của Cộng đồng trong năm 2010,
đó là đối phó với thách thức toàn cầu; phát triển nguồn nhân lực trong phục hồi kinh tế;
tăng cường phúc lợi xã hội và phát triển cho phụ nữ và trẻ em ASEAN; tăng cường hợp
tác văn hoá nhằm tạo dựng nhận thức về ASEAN và xây dựng Cộng đồng ASEAN. Đặc
biệt trong năm 2010, các Bộ trưởng ASEAN phụ trách Hội đồng Cộng đồng Văn hoá -
Xã hội đã thể hiện quyết tâm và sự cam kết mạnh mẽ trong việc thực hiện các ưu tiên của
Cộng đồng thông qua việc xây dựng dự thảo hai Tuyên bố: Tuyên bố của các nhà Lãnh
đạo Cấp cao ASEAN về Phát triển Nguồn nhân lực và Kỹ năng cho Phục hồi kinh tế và

Tăng trưởng bền vững và Tuyên bố Hà Nội về Thúc đẩy Phúc lợi và Phát triển cho Phụ
nữ và Trẻ em ASEAN. Việt Nam đã tích cực phối hợp với các bộ ngành trong nước, đồng
thời nỗ lực tham vấn, vận động các nước thành viên thống nhất về nội dung và hoàn thiện
các Dự thảo Tuyên bố này để Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 17 thông qua tại Việt
Nam.
Với vị trí là Chủ tịch của Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN lần thứ 21 (ALMM
21), Việt Nam đã chủ động và tích cực trong việc thực hiện các cam kết cững như đưa ra
các sáng kiến thúc đẩy và mở rộng hợp tác của ASEAN trong hoạt động chuyên ngành
thuộc Cộng đồng Văn hoá - Xã hội như tổ chức Hội Nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN
lần thứ 21 tại Việt Nam, Hội nghị phát triển nguồn nhân lực ASEAN lần thứ 2.; Cũng
trong năm 2010, . Ttrong khuôn khổ của Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN lần thứ
21, gần 20 các hội nghị cấp quan chức đã được tổ chức tại Việt Nam như: cuộc họp
Nhóm Công tác ASEAN nhằm thực hiện Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền
của lao động di cư (ACMW); Diễn đàn lao động di cư ASEAN lần thứ 3 với những
khuyến nghị về việc nâng cao nhận thức về vấn đề di cư an toàn và việc làm bền vững;
Hội nghị Thanh tra Lao động ASEAN với Khuyến nghị Hạ Long về chia sẻ kinh nghiệm
trong công tác thanh tra lao động. Đặc biệt, tại Hội nghị ALMM 21, các Bộ trưởng đã
thông qua 02 văn kiện quan trọng: i) Chương trình làm việc của Bộ trưởng Lao động
ASEAN giai đoạn 2010 – 2015; ii) Bộ Hướng dẫn của ASEAN về những kinh nghiệm
Quan hệ lao động hài hoà làm cơ sở cho các hoạt động mở rộng hợp tác của ASEAN
trong lĩnh vực lao động.
c.Thuận lợi
Khắc phục khó khăn thời kỳ hậu khủng hoảng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch
bệnh,HIV/AIDS, phát triển nguồn nhân lực cho phục hồi và phát triển kinh tế , xây dựng
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của Cộng đồng, xây dựng lộ trình và xác định các giai
đoạn ưu tiên để thực hiện các kế hoạch, xây dựng các chương trình và giải pháp để giải
quyết nhiều vấn đề chính thuộc lĩnh vực của cộng đồng như lao động, y tế, giáo dục, môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và hỗ trợ nhân đạo, thúc đẩy bảo vệ quyền của
người lao động di cư, của phụ nữ và trẻ em …
VD: Uỷ ban về Thúc đẩy và Bảo vệ quyền Phụ nữ và Trẻ em đã được thành lập tại Hội

nghị Thượng đỉnh ASEAN lầấn thứ 16 vào tháng 4 năm 2010 tại Hà Nội, Việt Nam.
d.Khó khăn
Thách thức lớn nhất là thiếu nguồn lực, xác định ưu tiên, cách phối hợp và giám sát
Tổng quan lại Việt Nam đã hoàn thành rất tốt việc góp phần xây dựng cộng đồng
ASCC và cũng nhận được rất nhiều cơ hội và ơt tương lai Việt Nam cần hoàn thiện tốt
hơn nữa như về:
Về phúc lợi và bảo trợ xã hội: cần tập trung hợp tác y tế ngăn ngừa và kiểm soát bệnh
dịch truyền nhiễm, HIV và AIDS, các bệnh dịch truyền nhiễm mới nổi khác; giảm nghèo,
bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng, xây dựng qViệt Nam không có ma túy, dự
phòng và ứng phó thiên tai thảm họa Về các quyền và công bằng xã hội: đẩy mạnh hợp
tác thúc đẩy và bảo vệ quyền của các nhóm đối tượng yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người
già, người khuyết tật, người lao động di cư ; Về bảo đảm bền vững môi trường: tăng
cường hợp tác ứng phó các thách thức môi trường xuyên biên giới như ô nhiễm khói mù,
chất thải, bảo vệ môi trường biển, đa dạng sinh học, ứng phó biến đổi khí hậu. Về xây
dựng bản sắc và nâng cao ý thức cộng đồng:chú trọng gìn giữ và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của khu vực, thúc đẩy trao đổi văn hóa, giao lưu nhân dân, đề cao
nguyên tắc thống nhất trong đa dạng, tăng cường sự hiểu biết và chia sẻ giữa người dân
về văn hóa, lịch sử, tôn giáo và văn minh. Về phát triển nguồn nhân lực: cần khuyến
khích phát triển giáo dục suốt đời và sử dụng ICT như những phương tiện thúc đẩy nền
giáo dục và nâng cao nhận thức về ASEAN.
Việt Nam cần phải tập trung nhiều hơn cho giáo dục vì giáo dục là yếu tố then chốt, đóng
vai trò quan trọng trong việc thu hẹp phát triển giữa các nước trong khu vực ASEAN.
Thời gian qua, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng ghi nhận trong việc nâng cao chất
lượng của hệ thống giáo dục. Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và Đào tạo năm
2012-2015 cũng được thực hiện hiệu quả. Việt Nam hiện đang triển khai các chương
trình đào tạo tiếng nước ngoài, với mục tiêu đến năm 2020, các sinh viên tốt nghiệp đại
học có thể giao tiếp và sử dụng ngoại ngữ thành thạo. Điều này sẽ mở thêm cơ hội việc
làm cho thanh niên Việt Nam không chỉ ở trong nước mà còn tại các quốc gia thành viên
khu vực ASEAN khi Cộng đồng ASEAN được thiết lập vào năm 2015. Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng cần nâng cao hơn nữa nhận thức và hiểu biết của người dân về ASEAN.

Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của ASEAN, vì vậy, nhận thức của từng
người dân về ASEAN sẽ là thành tố cơ bản để Việt Nam bước vào ASEAN năm 2015.
HẾT

×