Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Luận Văn Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng các phương pháp khác nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.91 MB, 38 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Sự cần thiết của đề tài
Với lợi thế tiềm năng nguồn nước ngọt dồi dào, những năm gần đây nghề
Nuôi trồng Thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long phát triển rất nhanh chóng
đã góp phần giải quyết việc làm, cải thiện thu nhập và nâng cao đời sống cho
người dân.
Cùng với sự phát triển của nghề nuôi cá thì nghề sản xuất cá giống hiện nay
cũng không ngừng phát triển. Các Viện Nghiên Cứu, các trường Đại Học,
Trung tâm giống Thủy sản,…đã và đang nghiên cứu sản xuất giống ra nhiều
loài thủy sản mới và đã mang lại kết quả rất cao. Đây không những là một
bước phát triển vượt bậc trong ngành Thủy sản mà còn là vấn đề rất cấp thiết
trong việc bảo vệ nguồn lợi các loài Thủy sản ngoài tự nhiên ngày càng bị
tuyệt chủng.
Trong rất nhiều loài cá được chủ động sinh sản, có cá mè vinh (Barbodes
gonionotus) là một trong số đó. Cá mè vinh là loài cá nhiệt đới, phân bố chủ
yếu ở các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Việt
Nam…Ở Việt Nam cá phân bố chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đây là
loài cá quý, thịt thơm ngon, sản lượng ngoài tự nhiên cao, mùa vụ khai thác
quanh năm, là loài cá dễ nuôi, lớn nhanh, là nguồn thực phẩm quen thuộc của
người dân và là đối tượng nuôi phổ biến ở ĐBSCL.
Cá mè vinh sống chủ yếu ở tầng đáy, là loài cá ăn tạp thiên về thực vật (lá,
rau…), ăn cả mùn bã hữu cơ, thức ăn chế biến và thức ăn viên, phân gia súc.
Cá nuôi được trong ao hồ nhỏ, không sống được trong vùng nhiễm phèn pH
thấp hơn 5. Tăng trưởng trung bình của cá mè vinh từ 150-200g sau 10-12
tháng nuôi. Sức sinh sản cá khá cao (400.000 trứng/1kg cá cái), cá có thể đẻ
nhiều lần trong năm.
Trong quá trình sản xuất giống các loài cá nói chung và cá mè vinh nói riêng
là phải tìm ra biện pháp để nâng cao chất lượng con giống hiện nay. Các vấn
đề quan trọng đó bao gồm từ khâu nuôi vỗ cá bố mẹ, kích thích sinh sản cá và
đặc biệt là nghiên cứu sâu về các biện pháp kỹ thuật khác nhau trong sinh sản


cá. Xuất phát từ thực tiễn của môn học và được sự đồng ý của Khoa Thủy Sản
– trường Đại Học Cần Thơ, đề tài “Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng các
phương pháp khác nhau” được tiến hành
1
1.2. Mục tiêu của đề tài
So sánh một số chỉ tiêu sinh sản của cá mè vinh được kích thích bằng LH-RHa
và bằng dòng chảy có lưu tốc khác nhau, tìm ra phương pháp tối ưu nhất trong
sinh sản nhân tạo cá mè vinh, góp phần bổ sung tư liệu cho quá trình sản xuất
giống ở Đồng bằng sông Cửu Long.
1.3. Nội dung nghiên cứu
- Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng cách tiêm kích dục tố LH-RHa
(kết hợp với DOM) với các liều lượng khác nhau.
- Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng cách tạo dòng chảy với lưu tốc
khác nhau.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm sinh học cá mè vinh
2.1.1. Phân loại và hình thái
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993). Cá mè vinh
(Barbodes gonionotus) là loài cá kinh tế nước ngọt thuộc:
Bộ: Cypriniformes
Họ: Cyprinidae
Giống: Barbodes
Loài: Barbodes gonionotus (Bleeker, 1850)
Tên tiếng Việt: cá mè vinh
Tên tiếng Anh: Silver barb
Cá mè vinh thuộc loại cá cỡ nhỏ, chiều dài tối đa chừng 35 cm. Thân có dẹp 2
bên, có dáng hình thoi cao. Đầu nhỏ, mõm tù. Miệng cá nhỏ nằm ở đầu mõm,
có 2 đôi râu (mõm và hàm) dài bằng nhau. Mắt cá to lệch về nữa trên của đầu.

Thân trắng bạc, lưng xám đen, bụng xám bạc, đôi khi ánh vàng. Vây bụng và
vây hậu môn có màu vàng da cam phớt đỏ ở phía ngoài.
Hình 1: Hình dạng bên ngoài cá mè vinh
(Nguồn:)
3
2.1.2. Phân bố
Cá mè vinh thường phân bố ở Thái Lan, Lào, Campuchia, Indonexia….Ở Việt
Nam cá phân bố rộng rãi trong các kênh rạch, sông ngòi, đặc biệt là ở Đồng
bằng sông Cửu Long và sông Đồng Nai. Cá được di nhập ra nuôi ở các tỉnh
phía Bắc.
2.1.3. Dinh dưỡng
Lúc còn nhỏ (cá giống nhỏ) ăn các loại thực vật thủy sinh mềm như các loại
rong nước, bèo cám Khi lớn cá có thể ăn các loại cỏ trên cạn. Ngoài ra cá
cũng có thể ăn được thức ăn chế biến từ các lọai phụ phế phẩm nông nghịêp
sẳn có tại địa phương (Dương Nhựt Long, 2003).
2.1.4. Sinh trưởng
Theo Lê Như Xuân và ctv (1994), cá mè vinh có tốc độ lớn tương đối thực tế
nhanh, nuôi trong ruộng lúa với mật độ vừa phải (1-2 con/m
2
) cá có thể đạt 0,3
- 0,35 kg/con/ sau 6 – 8 tháng. Trong hệ thống mương vườn kết hợp, mật độ
cá mè vinh thả 3 con/m
2
, sau 6 tháng nuôi, trọng lượng cá có thể đạt 150 – 240
gam/con.
2.1.5. Sinh sản
Theo Phạm Minh Thành (2009), cá mè vinh tham gia sinh sản lần đầu sau 1
năm tuổi. Ngoài tự nhiên, mùa vụ sinh sản của cá thường kéo dài từ tháng 5 –
9. Do vậy, trong hoạt động sinh sản nhân tạo, có thể cho cá mè vinh sinh sản
gần như quanh năm, chỉ trừ một vài tháng cuối năm như (tháng 11 và tháng

12). Một cá mẹ có thể tham gia sinh sản 4 – 5 lần/năm. Sức sinh sản của cá mè
vinh dao động từ 200.000 – 300.000 trứng/kg. Trứng cá mè vinh thuộc lọai
bán trôi nổi như cá mè trắng, cá trôi Ấn độ. Trong điều kiện nhiệt độ nước dao
động từ 27 – 29
0
C, trứng cá mè vinh sẽ nở sau 12 giờ.
Hình 2: Vuốt trứng cá mè vinh (Nguồn: />4
Cá mè vinh là loài di cư sinh sản, nuôi trong ao ruộng mương vườn mặc dù cá
có trứng nhưng cá không đẻ đó là do thiếu các điều kiện thích hợp cho cá sinh
sản.
2.2. Một số nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sinh sản cá mè vinh
Theo Nguyễn Tường Anh (1999) và Phạm Minh Thành (2009) thì các yếu tố
bên ngoài, các yếu tố hữu sinh và vô sinh của môi trường là rất quan trọng liên
quan đến sự thành thục và sinh sản của cá và được coi là khâu đầu tiên trong
những tác nhân dẫn đến sự sinh sản của cá. Một số chỉ tiêu sinh thái giúp kích
thích cá mè vinh sinh sản bao gồm:
2.2.1. Dòng chảy
Cá mè vinh ở nước ta có thể đẻ tự nhiên trên các con sông. Cá thành thục tốt
trong điều kiện có dòng nước chảy. Mùa cá đẻ tự nhiên trùng với mùa lũ về,
lúc đó mưa nhiều nên dòng chảy mạnh và mức nước dâng cao, kích thích cá
đẻ tự nhiên ở sông (Phạm Văn Khánh, 2009).
Dòng chảy trên sông có lưu tốc lớn, thời gian kéo dài thường là tín hiệu sinh
thái của các loài cá như mè trắng, mè hoa, trắm cỏ. Nhưng đối với cá mè vinh
chỉ cần một dòng chảy có lưu tốc không mạnh, không cần thời gian dài (tính
bằng ngày) thì sẽ kích thích sinh sản cá sinh sản (Phạm Minh Thành, 2009).
2.2.2. Nhiệt độ
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) các loài cá nói chung và
cá mè vinh nói riêng là động vật biến nhiệt nên nhiệt độ là yếu tố môi trường
ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến quá trình trao đổi chất, từ đó ảnh hưởng suốt
đến quá trình sinh sản của cá.

Nhiệt độ cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình rụng trứng của cá mè vinh.
Trong mùa đẻ trứng nếu nhiệt độ quá thấp thì mặc dù tuyến sinh dục đã đạt
đến thời kỳ cuối của giai đoạn IV, có kích thích bằng các loại hormone thì
trứng vẫn không rụng, phải đợi đến lúc nhiệt độ tăng đến một khoảng thích
hợp thì cá mới bắt đầu rụng trứng. Nhiệt độ không thích hợp còn ảnh hưởng
đến sự thụ tinh và phát triển của phôi. Nếu nhiệt độ quá cao sẽ làm giảm tỉ lệ
thụ tinh, tỉ lệ nở và tỉ lệ dị hình (Nguyễn Tường Anh, 1999)
2.2.3. Ánh sáng
Cường độ chiếu sáng của mặt trời thay đổi trong năm theo các mùa khác nhau,
mùa nắng thì cường độ chiếu sáng cao, mùa mưa thì cường độ chiếu sáng sẽ
giảm. Sự thay đổi của cường độ chiếu sáng là yếu tố hoạt hóa đối với sự chín
và rụng rứng (Nguyễn Văn Kiểm, 2005)
5
2.2.4. Dinh dưỡng
Dinh dưỡng là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể cá tôm hoạt động, đồng
thời dinh dưỡng còn là nguồn nguyên liệu cho sự phát triển của tuyến sinh dục
nên ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thành thục của cá. Trong điều kiện nuôi
vỗ tốt, cơ thể cá tích lũy nhiều chất dinh dưỡng, sẽ có tỉ lệ thành thục cao hơn
những cá cùng lứa nhưng nuôi vỗ kém (Phạm Minh Thành, 2009)
2.2.5. Yếu tố pH
pH và hàm lượng ôxy là hai yếu tố có tác dụng tương tự như nhiệt độ. Sự sinh
sản của cá có một phạm vi thích ứng nhất định đối với những nhân tố này.
Phần nhiều trong mùa cá đẻ, những yếu tố này đều ở phạm vi thích hợp: độ pH
7.5-8.5; ôxy hòa tan 4-5 mg/l (Phạm Minh Thành, 2009)
Tóm lại các yếu tố làm cho cá đẻ là có tính chất tổng hợp, bất kỳ một yếu tố
riêng lẻ nào cũng làm cho cá chuyển trạng thái đẻ được. Ngược lại, nếu như
một yếu tố như nhiệt độ, lượng ôxy hòa tan, pH nếu vượt quá giới hạn cho
phép, thì dù các yếu tố khác có sự phối hợp rất tốt cũng sẽ gây bất lợi đến sự
sinh sản cá (Nguyễn Văn Kiểm, 2005)
2.3. Kỹ thuật ấp trứng cá mè vinh

Trứng cá mè vinh thuộc loại trứng bán trôi nổi nên khi kết thức trương nước
thì trứng cá mè vinh tăng kích thước gấp 2 – 3 lần (Nguyễn Văn Kiểm, 2005).
Tỷ trọng của trứng sau khi trương nước xấp xỉ với tỷ trọng của nước. Do đặc
tính như vậy, trứng cá mè vinh sẽ lắng đáy, nếu gặp lớp bùn loãng thì trứng cá
sẽ dính vào đó, bị thiếu ôxy thì trứng cá sẽ chết. Điều này lý giải tại sao trong
tự nhiên đa số cá con sống sót không nhiều so với lượng trứng đẻ ra.
Để nâng cao tỷ lệ nở trong sinh sản nhân tạo phải tạo điều kiện cho trứng lơ
lửng như dòng chảy và sục khí…Phương tiện dùng để ấp các loại trứng này
đòi hỏi các yêu cầu kỹ thuật sau: (1) Tạo dòng chảy, sục khí liên tục trong quá
trình ấp trứng, hệ thống cấp nước phải thiết kế hoàn chỉnh và bể cấp nước phải
đặt ở vị trí cao hơn hệ thống ấp trứng ít nhất 1 mét. (2) cung cấp đủ ôxy trong
quá trình phát triển của phôi. Hiện nay có nhiều loại bể ấp trứng như bể vòng,
bình Jar, bể composite tùy vào điều kiện kinh tế của gia đình…
Theo Phạm Minh Thành (2009) kích thích sinh sản cá mè vinh được thực hiện
tại bể vòng. Cá mè vinh thành thục được thả vào bể lúc buổi chiều, tỷ lệ
đực/cái là 1/1. Dòng chảy là yếu tố sinh thái kích thích mạnh cho cá sinh sản.
Trong quá trình quản lý cá sinh sản trên bể thường xuyên có lưu tốc dòng chảy
0,3 – 0,5m/s. Khi phát hiện cá phát tiếng kêu râm rang trong bể (cá đực phát
ra) thì khóa van nước không cho chảy nữa, tiến hành sục khí để tăng hàm
lượng ôxy. Sau khoảng 20 - 30 phút sau thì cá đẻ. Cá mè vinh đẻ sau 6 -7 giờ
sau khi bắt đầu kích thích sinh sản bằng dòng nước.
6
2.4. Đặc điểm quá trình phát triển phôi cá mè vinh
Theo Nguyễn Hữu Trường (1993), quá trình phát triển của phôi cá mè vinh
chia làm 2 thời kỳ: tiền phôi và hậu phôi.
- Thời kỳ tiền phôi: Là thời kỳ từ khi trứng được thụ tinh đến khi cá nở, thời
kỳ được chia ra như sau:
+ Từ khi trứng đẻ ra đến khi phân cắt xong: Trứng đẻ ra được thụ tinh hay
không được thụ tinh cũng đều thực hiện quá trình phân cắt thành 2, 4, 8 tế bào,
…Ở nước tĩnh trứng cá sẽ chìm, ở nước chảy thì trứng cá trôi nổi. Vỏ trứng

trong suốt, noãn hoàng lớn, vào nước vỏ trứng trương nước. Sau khi thụ tinh,
nguyên sinh chất chuyển về cực động vật tạo thành đĩa phôi, sau đó tiếp tục
phân cắt và chuyển qua giai đoạn phôi nang. Như vậy trong giai đoạn này có 2
trường hợp xãy ra cùng một lúc. Nếu trứng không được thụ tinh thì trứng cũng
qua các lần phân cắt, nhưng quá trình phát triển đó sẽ kết thúc và bị phân hủy
trước khi chuyển sang phôi vị, còn trứng được thụ tinh thì được tiếp tục phát
triển qua các giai đoạn sau.
+ Từ phôi nang đến phôi vị: Trứng phát triển thành nhiều tế bào, xếp thành
từng tầng, gọi là phôi tầng. Lúc đầu phôi tầng dâng lên cao, sau hạ thấp xuống
hình thành xoang phôi nang sau 3 giờ. Phôi nang sinh trưởng về phía dưới
chiếm khoảng 1/3 trứng. Các tầng tế bào tiếp tục phát triển bao xuống, một bộ
phận tế bào chuyển vào trong thành phôi vòng và nuôi phôi. Nếu nhiệt độ từ
22
o
C – 24
o
C thì phôi vị bao tới ¾ trứng (khoảng trên 10 giờ).
+ Phôi thần kinh: Phôi bao xuống noãn hoàng, một số cơ quan bên trong bắt
đầu có mầm sống như: dây sống, đốt cơ thứ 2, mắt, mũi, thân phôi. Kết thúc là
sự xuất hiện của mũi và thân phôi.
+ Từ mầm đuôi đến khi nở: Phôi dài dần, đầu đuôi xích gần nhau, đốt cột
sống tăng lên, mầm đuôi xuất hiện, đuôi dần dần nở tới khi đầu đuôi thành
đường thẳng, noãn hoàng từ tròn chuyển sang dài, các cơ quan như: tim,
đường vây bên, hậu môn xuất hiện và tiếp tục phát triển. Đây là thời kỳ cá mè
vinh nở.
- Thời kỳ hậu phôi: là thời kỳ sau khi cá nở, cá dài khoảng 4,5 mm đến 5,2
mm, màu trong suốt, có khoảng 36 – 38 đốt, noãn hoàng hình lưỡi hái, các cơ
quan chưa hoàn thiện, tim đập. Thời kỳ này chia làm 2 giai đoạn:
+ Cá bột: Cá nở sau 1 ngày, dài 5, 8 – 6,5 mm, noãn hoàng nhỏ, có 40 đốt cơ,
mắt có. Cá nở sau 2 ngày, dài 7,5 – 8,0 mm, có 43 đốt cơ và sắc tố đen. Cá nở

sau 3 ngày dài 8,2 – 8,5 mm, bong bóng đầy khí, lược mang có 8 – 10 đốt tia
mang, noãn hoàng gần hết, bắt đầu ăn động vật nhỏ. Cá nở sau 4 ngày, dài 8,7
– 9,0 mm, lược mang từ 26 – 27 cái, răng hàm xuất hiện và cá ăn mạnh hơn.
7
+ Cá hương: Sau 5 – 6 ngày nở, cá khỏe, ăn nhiều. Cá nở sau 7 ngày dài 12 –
13 mm. Cá nở sau 10 ngày dài 18 mm. Cá nở sau 13 ngày các lược mang hình
thành màng liên kết, cá bắt đầu ăn động vật phù du. thành. Cá nở sau 17 ngày
dài 27 mm, xuất hiện vẩy, cấu tạo giống như cá trưởng. Cá nở sau 25 ngày kết
thúc giai đoạn cá bột, cá hương và kết thúc toàn bộ thời kỳ phôi.
2.5. Một số vấn đề liên quan đến sinh sản ở cá mè vinh
2.5.1. Chuẩn bị trước khi kích thích sinh sản cá
Đối với bể đẻ, bể ấp: kiểm tra độ an toàn và điều kiện kỹ thuật vận hành rồi
rữa sạch, bố trí sục khí và cấp nước. Đối với thí nghiệm kích thích sinh sản cá
bằng dòng chảy, cho cá đẻ và ấp trứng trong bể vòng (bể Trung Quốc). Bể
được xây bằng xi măng, hình vành khăn, đường kính bên trong rộng 0,8 – 1
mét và đường kính ngoài rộng khoảng 3 mét. Nước cấp để ấp trứng được cấp
qua phần vành khăn qua van điều tiết và hệ thống vùi phun (6 – 8 cái) đặt ở
đáy vành khăn. Nước tiêu từ vành khăn được lọc qua lưới, chảy vào lõi bể
(hình tròn) rồi thoát ra ngoài theo ống đặt ngầm dưới đáy bể. Nhờ cấu tạo như
vậy nước chảy trong của bể vòng luôn thành dòng liên tục, quay tròn (Nguyễn
Tường Anh, 2005).

Hình 3: Bể vòng sử dụng cho đẻ cá mè vinh
Chuẩn bị hormone và vật tư phục vụ việc tiêm hormone (cối, nước muối sinh
lý, kim tiêm, ống chích,…). Kiểm tra thiết bị bơm nước, máy sục khí chuẩn bị
để bắt cá bố mẹ thành thục.
Khi có kế hoạch kích thích sinh sản cá thì ngưng cho cá ăn 1 ngày trước khi
tiến hành kéo lưới. Tỷ lệ chọn lựa đực cái là 1/1 (thụ tinh tự nhiên), 1/4 – 1/3
đối với thụ tinh nhân tạo.
Cần tính toán và sắp xếp thời gian kéo lưới bắt cá hợp lý, tránh lúc nắng gắt và

tránh lưu giữ cá lâu trên bể đẻ. Sau khi kéo lưới bắt được cá thành thục thì lưu
giữ cá lâu trên bể chứa có điều kiện thuận lợi về không gian bơi lội, về hàm
lượng ôxy, tránh tình trạng cá bị mệt, thiếu ôxy, cá sẽ sinh sản kém.
8
2.5.2. Nguyên tắc chung khi kích thích sinh sản cá
Việc sử dụng các kích thích tố để kích thích sinh sản cá đúng với giai đoạn
thành thục của cá sẽ đem lại hiệu quả cao vả ngược lại sẽ cho kết quả âm
(Nguyễn Văn Kiểm, 2005). Do đó, nguyên tắc cơ bản trong quá trình dùng
kích dục tố kích thích sinh sản cá là phải dùng đúng loại kích dục tố, đúng liều
lượng theo nghiên cứu và đúng thứ tự trước sau theo bản chất tác dụng của
kích dục tố.
Trong quá trình sinh sản nhân tạo, tùy từng đối tượng sinh sản, tùy từng
trường hợp cụ thể mà tiêm với liều lượng và số lần khác nhau. Trong nghiên
cứu sinh sản cá, nguyên tắc chung trong việc tiêm kích dục tố kích thích sinh
sản cá là tiêm nhiều lần với liều lượng thấp phù hợp với từng giai đoạn thành
thục của tế bào trứng.
Đối với cho đẻ cá mè vinh thì ngoài việc sử dụng các loại hormone KTSS như
LH-RHa, HCG…thì dòng chảy là tác nhân chính kích thích sinh sản. Trong tự
nhiên, tác nhân sinh thái có vị trí đầu tiên trong dây chuyền phản ứng gây nên
sự sinh sản của cá. Nghĩa là dòng chảy và một số tác nhân sinh thái khác giữ
vai trò phát động, khởi xướng cho sự xuất hiện các tác nhân sinh lý (chủ yếu là
hormone) gây nên sự sinh sản của cá (Nguyễn Văn Kiểm, 2005).
Cá mè vinh thuộc nhóm cá đẻ trứng bán trôi nổi, chỉ cần dòng không cần lưu
tốc mạnh, không cần thời gian dài (tính bằng giờ). Vì vậy trong sinh sản cá mè
vinh ngoài việc sử dụng kích dục tố thì cho cá đẻ bằng dòng chảy cũng cho kết
quả cao (Phạm Minh Thành, 2009).
2.5.3. Sử dụng kích tố LH-RHa cho sinh sản cá
LH-RHa (Luteotropin Hormone Releasing Hormone Analog) là hormone nhân
tạo, có hoạt tính cao, loại hormone này có tác dụng như GnRH và được sử
dụng kèm theo thụ thể nhân tạo kháng Dopamine là Domperidon.

GnRH (Gonadotropin Releasing Hormone) là hormone phóng thích kích dục
tố. Dưới tác dụng của các yếu tố môi trường như: nhiệt độ, ánh sáng, dòng
nước, giới tính…vùng dưới đồi (hypothalamus) và não trước tiết ta GnRH
kích thích não thùy tiết ra kích dục tố. GnRH được sử dụng rộng rãi trên từng
thế giới vì có nhiều ưu điểm như: (i) có thể tổng hợp được và có chất lượng
luôn ổn định, (ii) tránh sự lan truyền của bệnh, (iii) sử dụng được với nhiều
loài cá khác nhau (Nguyễn Văn Kiểm, 2005).
Ở nước ta, LH-RHa và Domperidon được sử dụng khoảng 20 năm gần đây,
hiện nay được dùng phổ biến trên nhiều loài cá, được nhập từ Trung Quốc, có
giá rẽ lại không gây phản ứng phụ và phản ứng miễn dịch đối với cá nếu sử
dụng liều lượng hợp lý (Phạm Minh Thành, 2009).
9
LH-RHa có tác dụng làm chuyển hóa buồng trứng và đồng thời gián tiếp gây
rụng trứng. Tuy nhiên, khi sử dụng LH-RHa kích thích sinh sản cá thì có
nhược điểm là kéo dài thời gian tái phát dục của cá so với sử dụng HCG hoặc
não thùy. Nguyên nhân chủ yếu là LH-RHa đã làm cho cá sử dụng cạn kiệt
FSH và LH từ não thùy cho quá trình chín và rụng trứng.
Theo Nguyễn Tường Anh (1999), LH-RHa là hormone nhân tạo, được sử
dụng rộng rãi cho cá và động vật nối chung, là hormone giải phóng LH và
FSH từ não thùy thể.
Hình 4: Kích dục tố LH- RHa và DOM kích thích cá sinh sản
2.5.4. Cơ sở của việc dùng chất kháng Domperidone cho cá sinh sản
Peter và ctv (1986) được trích dẫn bởi Thạch Văn Mỹ (2010) đã kết luận khi
nghiên cứu sâu về sinh sản cá đã phát hiện chất Dopamine hoạt động như một
yếu tố ngăn cản sự tổng hợp kích dục tố. Chính cơ chế này đã làm hạn chế tác
dụng của GnRH đối với cơ chết tiết kích dục tố của não thùy từ đó làm ảnh
hưởng đến quá trình sinh sản của cá. Để làm mất cơ chế này, Peter đã tìm ra
một chất kháng Dopamine, đó là một chất dùng kết hợp với GnRH có tác dụng
rất tốt trong quá trình trong quá trình sinh sản nhân tạo các loài cá (chất kháng
Dopamine hiện nay được sử dụng kết hợp với GnRH phổ biến là dạng

Motilium – viên DOM).
Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) cho rằng Domperidon là tên
hóa học của thụ thể nhân tạo, có nhiều tên thương mại khác nhau, nhưng tên
thường dùng là Motilium (viên DOM), 1 viên DOM có khối lượng 10mg.
2.6. Một số thử nghiệm kích thích sinh sản cá mè vinh
2.6.1. Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy
Mai Đình Yên (1983) cho đẻ cá mè vinh bằng cách chọn cá bố mẹ thành thục
sắp đẻ, chuẩn bị ao cho đẻ 0.1 – 0.2 ha sau đó phun mưa nhân tạo, ở giữa ao
có đào 1 hố khoảng 16m
2
để cho cá đẻ trú ẩn, sâu một thời gian gây mưa cho
ao, cá bố mẹ đã đẻ. Cá mè vinh nuôi trong ao từ 3 – 4 tháng cho đẻ 1 lần.
10
Theo Chung Lân (1969), đối với cá nuôi ở ao nước tĩnh, nếu trước khi kích
thích sinh sản cho cá đẻ không có xử lý bằng dòng nước chảy nhẹ và chất
lượng nước xấu thì tỷ lệ rụng trứng, tỷ lệ nở sẽ thấp.
Theo Lê Như Xuân và ctv (1994) cho rằng cá mè vinh là loài cá có khả năng
sinh sản bằng việc kích thích nguồn nước kết hợp với sục khí mà không cần
tiêm kích dục tố. Biện pháp sử dụng dòng nước kích thích cá sinh sản có hiệu
quả tốt nhất khi cá đã thành thục (tháng 3, tháng 4 vào cuối mùa khô).
Theo Nguyễn Văn Kiểm và Phạm Minh Thành (2009), ở Đồng bằng sông Cửu
Long cá tập trung sinh sản vào đầu các tháng mùa mưa (tháng 5, tháng 6), còn
vào những tháng khác trong năm cá vẫn sinh sản nhưng đó không phải là mùa
chính, năng suất và hiệu quả nuôi không cao.
2.6.2. Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng LH-RH (kết hợp với DOM)
Theo Danh Long Vương (2000) đã dùng 0.2mg LH-RHa kết hợp với 1 viên
DOM/2kg cá cái để kích thích sinh sản cá mè vinh đã cho kết quả sinh sản rất
tốt, tỷ lệ đẻ đạt 80%, tỷ lệ thụ tinh đạt 79.42%, tỷ lệ nở đạt 89.99%.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2005) đã kích thích sinh sản cá mè vinh bằng LH-
RHa với liều lượng 20-25µg/1 kg cá cái + 10mg DOM.

Phạm Văn Khánh (2009) đã dùng LH-RHa kết hợp với DOM với liều lượng
80-100µg/1 kg cá cái + 5mg DOM, cá đực dùng 1/3-1/2 liều của cá cái. Sau
4.5-5 giờ sau liều tiêm quyết định thì cá bắt đầu hiệu ứng thuốc, cá vật đẻ kéo
dài khoảng 2-3 giờ. Trứng cá sau khi đẻ thì trôi nổi theo dòng nước chảy. Ấp
trứng trong bể vòng hoặc bình Weis. Sau 12-13 giờ thì trứng nở.
Huỳnh Tấn Đạt (2009) đã kích thích sinh sản cá mè vinh bằng LH-RHa kết
hợp với DOM với liều lượng (100µg LH-RHa + 10mg/DOM/1 kg cá cái) thì
100% cá đều tham gia sinh sản, tỷ lệ thụ tinh (93%), ty lệ nở đạt (89%).
Thạch Văn Mỹ (2010) đã kích thích sinh sản nhân tạo cá mè vinh bằng LH-
RHa kết hợp với DOM với 3 nghiệm thức:(Nghiệm thức 1): LH-RHa + DOM
với liều lượng 60µg/kg cá cái cho tỷ lệ cá đẻ (66.66%), tỷ lệ thụ tinh (73%),
sức sinh sản tương đối thực tế (750.000 trứng/kg cá cái) thấp nhất trong 3
nghiệm thức; (Nghiệm thức 2): LH-RHa + DOM với liều lượng 80µg/kg cá
cái cho tỷ lệ cá đẻ (100%), tỷ lệ thụ tinh (77.5%), sức sinh sản tương đối thực
tế (774.500 trứng/kg cá cái); (Nghiệm thức 3): LH-RHa + DOM với liều
lượng 100µg/1kg cá cái cho tỷ lệ cá đẻ (100%), tỷ lệ thụ tinh (84.5%), tỷ lệ nở
(92.5%) với sức sinh sản tương đối thực tế (810.000 trứng/kg cá cái) cao nhất
trong 3 nghiệm thức.
11
PHẦN III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài “Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng một số phương pháp khác nhau”
được thực hiện tại trại sản xuất cá giống Minh Trang – Quận Cái Răng – TP.
Cần Thơ từ tháng 01 năm 2012 đến tháng 05 năm 2012.
3.2. Vật liệu nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cá mè vinh Barbodes gonionotus (Bleeker, 1850)
Hình 5: Cá mè vinh bố mẹ tham gia sinh sản
3.2.2. Dụng cụ nghiên cứu

Dụng cụ nghiên cứu bao gồm: bể vòng, khai nhựa, kéo, kẹp, cân đồng hồ, cân
điện tử, thau, nhiệt kế, cốc thủy tinh, vợt vớt trứng, vợt thu trứng, rây, máy
thổi khí, hệ thống cấp và thoát nước, hệ thống bể composite, bể chứa cá bố
mẹ, lưới đậy cá, mạng tràng và một số dụng cụ khác…
12


Hình 6: Một số dụng cụ dùng trong sinh sản cá mè vinh
3.2.3. Các loại hóa chất và kích tố
Các loại hóa chất và kích tố sinh sản bao gồm: hộp test môi trường (pH, Ôxy),
dung dịch nước muối sinh lý 0.9%, viên DOM (Domperidone), LH-RHa
(Luteotropin Hormone Releasing Hormone – Analog).
3.3. Phương pháp tiến hành thí nghiệm
3.3.1. Chọn cá bố mẹ
Cá bố mẹ sau khi nuôi vỗ từ 1-2 tháng, cá bắt đầu phát dục và dễ dàng phân
biệt đực cái.
13
Hình 7: Ao nuôi vỗ cá bố mẹ tại trại cá giống Minh Trang
Dựa vào các đặc điểm hình thái bên ngoài chọn cá bố mẹ như sau:
Chọn cá bố mẹ khỏe mạnh, không bị xây xát, dị tật dịnh hình. Cá bố mẹ được
chọn phải đạt các tiêu chuẩn sau:
Cá đực : thân cá thon dài, nắp mang nhám, lỗ sinh dục hơi khuyết. Khi vuốt
nhẹ gần lỗ sinh dục thấy có tinh dịch màu trắng sữa chảy ra.
Cá cái: cá phải có bụng trứng to, hậu môn hơi lồi, đỏ mọng. Dùng que thăm
trứng để lấy trứng quan sát. Quan sát hạt trứng đạt thành thục có kích thước
đều, căng tròn.
Hình 8: Kiểm tra sự thành thục cá mè vinh bố mẹ
3.3.2. Tiến hành thí nghiệm
Cá mè vinh là một trong những loài cá khi sinh sản đòi hỏi phải có những điều
kiện nhất định như bãi đẻ, lưu tốc dòng chảy, nhiệt độ, ôxy, pH…Trên cơ sở

đó, chúng tôi tiến hành kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy và bằng
kích dục tố LH-RHa. Các nghiệm thức thí nghiệm trong cùng đợt sinh sản
được bố trí cùng địa điểm, cùng điều kiện thời tiết, khí hậu. Mỗi nghiệm thức
được thực hiện với 3 lần lặp lại. Các thí nghiệm được trình bày theo bảng sau:
3.3.2.1. Thí nghiệm 1: Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy
Thí nghiệm kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy với lưu tốc khác
nhau được thực hiện trong bể vòng. Cá bố mẹ sau khi đã đủ các tiêu chuẩn
thành thục thì bố trí cho vào bể. Xác định lưu tốc dòng chảy bằng cách thả trôi
chiếc lá một đoạn khoảng 1 mét xem coi khoảng thời gian nó trôi là bao lâu, từ
đó có thể điều chỉnh được lưu tốc dòng nước nhanh hay chậm để tiến hành bố
trí thí nghiệm. Mỗi nghiệm thức trong thí nghiệm được bố trí một cách ngẫu
nhiên với 3 lần lặp lại.
14
Bảng 1: Thí nghiệm ảnh hưởng của lưu tốc dòng chảy đến quá trình sinh sản
cá mè vinh
Thí nghiệm Lưu tốc (m/s) Tỷ lệ (đực:cái)
Nghiệm thức 1 0 1:1
Nghiệm thức 2 0,1 1:1
Nghiệm thức 3 0,3 1:1
Nghiệm thức 4 0,5 1:1
15
3.3.2.2. Thí nghiệm 2: Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng LH-RHa
Sử dụng LH-RHa với các liều lượng khác nhau để kích thích cá mè vinh sinh
sản. Các thí nghiệm được trình bày ở Bảng 2. Thí nghiệm được bố trí 3 lần lặp
lại.
Bảng 2: Thí nghiệm kích thích sinh sản bằng LH-RHa
Thí nghiệm Kích tố
Liều lượng/ kg
cá cái
Tỷ lệ

(đực:cái)
Nghiệm thức 1 LH-RHa + DOM
30µgLH-RHa+ 10mg
DOM
1:1
Nghiệm thức 2 LH-RHa + DOM
60µgLH-RHa+ 10mg
DOM
1:1
Nghiệm thức 3 LH-RHa + DOM
90µgLH-RHa+ 10mg
DOM
1:1
3.3.3. Theo dõi một số chỉ tiêu môi trường
Các yếu tố môi trường bao gồm nhiệt độ, ôxy và pH được xác định tại bể đẻ
và bể ấp trứng, cụ thể:
Nhiệt độ: Được xác định bằng nhiệt kế, đo 2 lần/ngày. Sáng đo lúc 7giờ, chiều
đo lúc 14 giờ.
Ôxy: Được xác định bằng hộp test O
2
. Hàm lượng Ôxy được đo 2 lần/ngày
vào lúc 7 giờ, chiều đo lúc 14 giờ.
pH: Được xác định bằng hộp test pH. Hàm lượng pH được đo 2 lần/ngày vào
lúc 7 giờ, chiều đo lúc 14 giờ.
3.3.4. Tính toán kết quả
Sau khi tiến hành kích thích sinh sản xong thì tiến hành tính toán một số kết
quả. Các kết quả về các chỉ tiêu theo dõi bao gồm:
Thời gian hiệu ứng (giờ): được tính từ lúc tiêm kích dục tố hoặc lúc thả cá
vào bể vòng (trường hợp kích thích sinh sản cá bằng dòng chảy) đến khi cá đẻ
hết trứng.

16
Tỷ lệ cá đẻ (cá tham gia sinh sản): dựa trên số cá đẻ được và số cá tham gia
sinh sản.
Sức sinh sản tương đối thực tế: Được xác định bằng phương pháp thể tích, là
số trứng thu được tính trên khối lượng cá tham gia sinh sản.
Tỷ lệ thụ tinh: là tổng số trứng đã thụ tinh trên tổng số trứng đem đi ấp, tỷ lệ
thụ tinh được xác định khi phôi phát triển đến giai đoạn đầu phôi vị.
Tỉ lệ nở: là tỷ lệ % tổng số trứng nở ra trên tổng số trứng đã được thụ tinh.
Tỉ lệ dị hình: là tỷ lệ % tổng số cá dị hình trên tổng số cá thể nở ra
17
Tỷ lệ đẻ (%) =
Số cá đẻ
x 100
Tổng số cá tham gia sinh sản
Sức sinh sản tương Lượng trứng thu được
Khối lượng cá đẻ
Tỷ lệ thụ tinh (%) =
Tổng số trứng thụ tinh
x 100
Tổng số trứng quan sát
Tỉ lệ nở (%)=
Tổng trứng nở
x 100
Tổng trứng thụ tinh
Tỉ lệ dị hình (%) =
Tổng số cá thể dị hình
x 100
Tổng số cá nở ra
3.4. Phương pháp xử lý số liệu và đánh giá kết quả
3.4.1. Xử lý số liệu

Số liệu thu thập được tính toán thành các giá trị trung bình cộng và độ lệch
chuẩn. Xử lý thống kê xem xét sự khác biệt giữa các nghiệm thức bằng
phương pháp phân tích ANOVA với phần mềm Statistica và phần mềm
Micosoft Excel. Sử dụng phần mềm Microsoft Word để viết báo cáo.
3.4.2. Đánh giá kết quả
Sau khi tính toán số liệu chúng tôi tiến hành so sánh, đánh giá các kết quả
trong từng nghiệm thức và giữa các nghiệm thức với nhau, trên cơ sở đó
chúng tôi tiến hành so sánh với các nghiên cứu kích thích sinh sản cá mè vinh
trước đây.
18
PHẦN IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Sau khi tiến hành kích thích cá mè vinh sinh sản, tiến hành xử lý số liệu,
chúng tôi thu được một số kết quả như sau:
4.1. Thí nghiệm 1: Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy
4.1.1. Kết quả một số chỉ tiêu tố môi trường
Các chỉ tiêu môi trường xác định bao gồm nhiệt độ, pH, hàm lượng ôxy hòa
tan được ghi nhận trong quá trình bố trí thí nghiệm cho cá mè vinh sinh sản và
được trình bày qua Bảng 3
Bảng 3: Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu môi trường trong sinh sản cá mè vinh
bằng dòng từ ngày 28/03/2012 đến ngày 01/04/2012
Chỉ tiêu
Thời gian theo dõi
Sáng Chiều
Nhiệt độ (
o
C) 27,50±0,35 28,60±0,42
pH 7,38±0,08 7,50±0,07
Ôxy (mg/l) 4,35±0,13 4,20±0,08
Qua bảng số liệu trên cho thấy hầu hết các chỉ tiêu môi trường đều nằm trong

khoảng thích hợp cho quá trình sinh sản và phát triển trứng của cá mè vinh.
Qua 5 ngày theo dõi thì nhiệt độ trung bình ở các nghiệm thức dao động từ
27,5
o
C – 28,6
o
C, khoảng chênh lệch nhiệt độ giữa sáng và chiều không đáng
kể (1
o
C - 2
o
C). Hầu hết các loài cá nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và những
vùng phân bố có vĩ độ thấp thì nhiệt độ thích hợp cho phôi cá phát triển từ
27
o
C – 31
o
C (Phạm Minh Thành, 2009). Trong sản xuất giống đây là điều kiện
lý tưởng cho quá trình phát triển của phôi và cá con. Ảnh hưởng của nhiệt độ
tới thời gian phát triển phôi cá tuân theo quy luật tổng nhiệt, nhiệt độ tăng
trong giới hạn thích hợp thì thời gian phát triển phôi càng được rút ngắn hơn.
Ngoài yếu tố nhiệt độ thì pH cũng ảnh hưởng đến quá trình sinh sản cá bố mẹ
và sự phát triển phôi và cá con. Theo bảng số liệu trên cho thấy pH nằm trong
khoảng thích hợp cho sự phát triển của trứng và cá con (dao động từ 7,38 –
7,50). Theo Phạm Minh Thành (2009) thì hầu hết phôi các loài cá điều không
có khả năng phát triển trong môi trường có pH quá cao hoặc quá thấp (pH nhỏ
hơn 5 hoặc pH lớn hơn 9). Do đó pH nằm trong khoảng thích hợp trên là điều
kiện lý tưởng cho sự phát triển phôi và ấu trùng cá mè vinh.
Hàm lượng ôxy hòa tan cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển
phôi của các loài cá nói chung. Trứng cá mè vinh thuộc loại trứng bán trôi nổi,

19
có hàm lượng carotenonid thấp cần có hàm lượng ôxy cao hơn các loài cá
khác (từ 3mg/l trở lên). Ở thí nghiệm trên, hàm lượng ôxy giữa các nghiệm
thức nằm trong khoảng thích hợp (từ 4,2 mg/l – 4,35 mg/l) và có sự chênh lệch
không đáng kể giữa sáng và chiều. Nhưng nhìn chung, hàm lượng ôxy nằm
trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của trứng và ấu trùng cá con.
Ở thí nghiệm kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy, sau khi cá đẻ hết
trứng, trứng cá được giữ lại ấp trong bể vòng, có sục khí liên tục nên chất
lượng nước đảm bảo đủ hàm lượng ôxy, các yếu tố pH, nhiệt độ điều nằm
trong khoảng thích hợp, đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển phôi và ấu trùng cá
mè vinh.
20
4.1.2. Kết quả một số chỉ tiêu kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng
chảy với lưu tốc khác nhau
Bảng 4: Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy
từ ngày 07/04/2012 đến ngày 11/04/2012
Chỉ tiêu quan sát
Lưu tốc dòng chảy (m/s)
(I) 0 m/s (II) 0,1 m/s (III) 0,3 m/s (IV) 0,5 m/s
Thời gian
hiệu ứng (giờ)
- 6h50 6h10 5h30
Tỷ lệ cá đẻ (%) 0 23,60 77,78 96,60
Sức sinh tương
đối thực tế
(trứng/kg cá cái)
- 682.484±34.310
a
819.355±92.867
b

824.318±27.479
b
Tỷ lệ thụ tinh (%) - 70,67±5,13
a
80,67±3,06
b
91,00±2,00
c
Tỷ lệ nở (%) - 92,67±1,53
a
98,00±1,00
a
94,33±2,52
a
Tỷ lệ dị hình (%) - 2,51±0,59
a
1,72±1,16
b
2,48±0,67
a
Chú thích: (-): không tạo lưu tốc dòng chảy nên cá không đẻ được, các chỉ tiêu không xác định được giá trị (trừ
tỷ lệ cá đẻ (0%)
Qua bảng số liệu trên, chúng tôi có nhận xét một số kết quả chỉ tiêu sinh sản
như sau:
4.1.2.1. Thời gian hiệu ứng
Tại nghiệm thức I (NT I) do không có tạo dòng chảy nên cá không đẻ, thời
gian hiệu ứng không xác định được. Cá mè vinh là loài có sức sinh sản cao và
đẻ dễ nếu có một tác nhân sinh thái nào đó kích thích (quan trọng nhất là dòng
chảy), nếu không có dòng chảy mặc dù cá có biểu hiện thành thục sinh dục tốt
thì cũng không tham gia sinh sản được.

Tại nghiệm thức II (NT II) có thời gian hiệu ứng là 6 giờ 50 phút, giá trị này
cao nhất so với cả 2 nghiệm thức III (NT III) và nghiệm thức IV (NT IV). Tuy
nhiên sự khác biệt giữa NT II, NT III không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Tại NT IV có thời gian hiệu ứng thấp nhất (5 giờ 30 phút) và khác biệt có ý
nghĩa thống kê so với NT II và NT III (p<0,05). Từ kết quả 4 nghiệm thức trên
có thế thấy rằng lưu tốc dòng chảy có ảnh hưởng đến thời gian hiệu ứng của
cá, lưu tốc càng lớn thì thời gian hiệu ứng của cá càng được rút ngắn.
Trong tự nhiên, các loài cá đẻ trứng bán trôi nổi (mè vinh, mè trắng, trắm cỏ,
…) chỉ cần có lưu tốc dòng chảy thì mới sinh sản được. Riêng cá mè vinh chỉ
cần dòng chảy nhẹ vừa đủ làm tín hiệu sinh sản thì cũng làm cá đẻ tốt.
21
Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng dòng chảy hiện nay có sử dụng nhưng
không rộng rãi lắm, chỉ thường xuyên đối với các loài cá như cá mè vinh, tai
tượng, cá hường, cá nàng hai,…Nguyên nhân chủ yếu của việc cho đẻ không
phổ biến này là đàn cá được kích thích sinh sản không đẻ tập trung như
phương thức cho cá đẻ bằng tiêm hormone.
4.1.2.2. Tỷ lệ cá đẻ
Từ bảng số liệu trên cho thấy có sự khác biệt rõ giữa NT II, NT III và NT IV
về tỷ lệ cá đẻ. Tỷ lệ cá đẻ thấp nhất ở NT II (23,6%), kế đến là NT III
(77,78%) và cao nhất ở NT IV (96,6%). Riêng với NT I cho cá đẻ bằng dòng
chảy với lưu tốc 0m/s thì cá không đẻ nên không xác định được tỷ lệ cá đẻ
Nếu so sánh về mặt thống kê thì tỷ lệ cá đẻ có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các
nghiệm thức (p<0,05). Kết quả ở bảng 4 cho thấy rằng tỷ lệ cá đẻ gia tăng theo
lưu tốc dòng chảy. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Phạm Minh
Thành (2009): “Dòng chảy là yếu tố sinh thái quết định đến sự sinh sản của cá.
Dòng chảy càng mạnh thì càng kích thích càng nhanh đến quá trình sinh sản
của cá”.
Nhìn chung, các loài cá ở tự nhiên đều có đặc tính di cư sinh sản, điều kiện
thích hợp cho mỗi loài cá cũng khác nhau về nhiệt độ, hàm lượng ôxy hòa tan,
ánh sáng, dòng chảy, cây cỏ thủy sinh,…quyết định cho sinh sản tùy loài. Cá

mè vinh thuộc nhóm cá đẻ trứng bán trôi nổi, chỉ cần có dòng chảy sẽ làm tín
hiệu kích thích sinh sản cho cá.
4.1.2.3. Sức sinh sản
Số liệu thu thập được về sức sinh sản của cá ở các nghiệm thức có sự khác
nhau. Khi so sánh thống kê thì sức sinh sản ở NT III và NT IV là khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), nhưng 2 NT này có sự khác biệt có ý
nghĩa với NT II (p<0,05). Nguyên nhân gây ra sự khác biệt có thể là do mức
độ thành thục của cá bố mẹ từng nghiệm thức, do tác dụng của dòng chảy với
lưu tốc khác nhau.
Theo Phạm Văn Khánh (1998), cá mè vinh là loài cá có sức sinh sản cao nhất
trong các loài cá nước ngọt. Ngoài tự nhiên, sức sinh sản của cá từ 700.000 -
900.000 trứng/kg cá cái. Điều này cũng phù hợp với kết quả của thí nghiệm
trên. Ở NT IV cho cá đẻ với lưu tốc dòng chảy 0.5m/s, trọng lượng cá cái cao
hơn các nghiệm thức khác, điều này cho thấy sức sinh sản của cá tương quan
tỷ lệ thuận với trọng lượng cơ thể cá. Trọng lượng cá càng lớn thì sức sinh sản
và tỷ lệ cá đẻ trứng càng cao.
4.1.2.4. Tỷ lệ thụ tinh
Tỷ lệ thụ tinh được xác định bằng cách đếm ngẫu nhiên số trứng thụ tinh trên
tổng số trứng theo dõi. Qua kết quả ở Bảng 4 cho thấy tỷ lệ thụ tinh ở NT II,
22
NT III và NT IV đều cao hơn 70% và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Tỷ lệ thụ tinh ở NT II (70,67%) thấp hơn so với NT II (80,67%) và NT IV
(91%) là do tác dụng của dòng chảy đối với quá trình đẻ trứng cũng như sự
hưng phấn phối hợp nhịp nhàng giữa cá đực và cá cái trong quá trình sinh sản.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (1998), tỷ lệ thụ tinh của cá phụ thuộc vào nhiệt độ.
Nhiệt độ càng cao thì tỷ lệ thụ tinh càng nhiều và ngược lại. Do thí nghiệm
kích thích cho đẻ cá mè vinh bằng dòng chảy nên lưu tốc nước cũng quyết
định không nhỏ so với nhiệt độ, lưu tốc dòng chảy càng lớn, nhiệt độ cao thì
cho kết quả tỷ lệ thụ tinh cao.
Ở NT IV, cho cá đẻ với dòng chảy có lưu tốc 0.5m/s, cá bố mẹ có chất lượng

tốt, sức sinh sản cao, tỷ lệ cá đẻ nhiều. Điều này cũng phù hợp với nhận xét
của Nguyễn Tường Anh (2004): tỷ lệ thụ tinh cho phép đánh giá được chất
lượng tinh dịch, chất lượng trứng cũng như thao tác kỹ thuật của người kỹ
thuật. Tỷ lệ thụ tinh càng cao thì chất lượng tinh dịch, chất lượng trứng càng
tốt.
4.1.2.5. Tỷ lệ nở
Tỷ lệ nở được xác định bằng tổng số trứng nở trên tổng số trứng thụ tinh. Từ
bảng 4 cho thấy, tỷ lệ nở của cá ở 3 NT đều có giá trị cao, gần bằng nhau và
không khác biệt thống kê (p>0,05). Ở NT III cho tỷ lệ nở cao nhất (98%), NT
II cho tỷ lệ thấp nhất (92,07%). Riêng ở NT I (lưu tốc dòng chảy 0m/s), cá
không đẻ nên không xác định được tỷ lệ nở của cá.
Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến tỷ lệ nở bao gồm nhiệt độ, pH, hàm
lượng ôxy hòa tan. Trong đợt kích thích sinh sản bằng dòng chảy, nhiệt độ đo
được là (28,05
o
C), pH (7,44), hàm lượng ôxy hòa tan (4,32mg/l). Nhìn chung,
các yếu tố môi trường và nguồn nước ở đây tốt rất thích hợp cho cá nở nên
cho kết quả tỷ lệ cá bột nở khá cao.
4.1.2.6. Tỷ lệ dị hình
Tỷ lệ dị hình được tính bằng số cá thể dị hình trên tổng số cá thể nở ra. Qua
kết quả trên cho thấy, tỷ lệ cá thể dị hình ở các nghiệm thức khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) giữa NT III (1,72%) với NT II (2,51%) và NT IV
(2,48%).
Sau khi trứng cá mè vinh thụ tinh, trứng được ấp trong điều kiện có sục khí
thường xuyên, liên tục nên các yếu tố độc hại (H
2
S, NH
3
…) cũng giảm đến
mức thấp nhất. Điều này cũng lý giải cho các kết quả tỷ lệ dị hình của cá con ở

thí nghiệm này không cao trong các nghiệm thức. Kết quả trên cũng phù hợp
với nhận xét của Phạm Minh Thành (2009) rằng “trong suốt quá trình phát
triển phôi có hai thời kỳ nhạy cảm nhất với các yếu tố môi trường. Đó là thời
23
kỳ phôi vị và thời kỳ phần đuôi tách ra khỏi noãn hoàng. Ở thời kỳ này có sự
thay đổi đột ngột các yếu tố môi trường (nhất là nhiệt độ) đều ảnh hưởng đến
(tỷ lệ dị hình và tỷ lệ phôi chết trước khi nở”.
24
4.2. Thí nghiệm 2: Kích thích sinh sản cá mè vinh bằng LH-RHa
4.2.1. Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu môi trường
Bảng 5: Một số chỉ tiêu môi trường trong trong kích thích sinh sản cá mè vinh
bằng LH-RHa từ ngày 07/04/2012 đến ngày 11/04/2012
Chỉ tiêu
theo dõi
Thời gian theo dõi
Sáng Chiều
Nhiệt độ (
o
C) 27,68±0,29 28,40±0,42
pH 7,37±0,08 7,52±0,08
Ôxy (mg/l) 4,41±0,09 4,24±0,11
Qua bảng số liệu trên cho thấy nhiệt độ trung bình của quá trình kích thích
sinh sản cá nằm trong ngưỡng cho phép (27,68
o
C – 28,40
o
C), thích hợp cho
quá trình sinh sản và phát triển của trứng. Theo Phạm Văn Khánh (1998) thì
nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển phôi và cá bột từ khoảng 27 – 30
0

C, nếu
nhiệt độ cao hơn 31
0
C thì trứng ung nhiều, dẫn đến tỉ lệ nở thấp, cá con yếu và
tỉ lệ dị hình cao. Nhìn chung, nhiệt độ có sự chênh lệch giữa sáng và chiều
nhưng không đáng kể và đều ở mức thích hợp cho quá trình phát triển của
trứng cá mè vinh. Nhiệt độ cao trong khoảng thích hợp cũng là một trong
những yếu tố thúc đẩy quá trình hiệu ứng thuốc khi sử dụng kích dục tố để
kích thích cá đẻ nhân tạo.
Ngoài yếu tố nhiệt độ, thì hàm lượng ôxy hòa tan cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình phát triển của trứng và cá con. Mỗi loài cá và mỗi giai đoạn phát
triển của tuyến sinh dục đều có nhu cầu ôxy khác nhau. Hàm lượng ôxy hòa
tan tối thiểu trong nước để đảm bảo cho hoạt động bình thường của cá phải từ
3 – 5 ppm. Nếu thấp hơn 2 ppm cá có hiện tượng nổi đầu nhẹ. Ôxy hòa tan
thấp từ 0,5 – 1,0 ppm cá nổi đầu nặng và từ 0,1 – 0,5 ppm cá có thể chết hàng
loạt (Nguyễn Văn Kiểm, 2005).
Nhìn chung, hàm lượng ôxy hòa tan trung bình trong 2 đợt thí nghiệm đều ở
mức phù hợp (4,24mg/l – 4,41mg/l) do có sục khí liên tục nên đảm bảo đủ ôxy
cho cá đẻ tốt và trứng phát triển bình thường.
Yếu tố pH có ảnh hưởng trực tiếp đến tính độc của 2 chất khí NH
3
và H
2
S.
Đảm bảo pH thích hợp là điều cần phải thực hiện tốt trong quá trình nuôi vỗ
cũng như kích thích sinh sản (Phạm Minh Thành, 2009).
Từ kết quả bảng 5 cho thấy pH nằm trong ngưỡng cho phép và thích hợp cho
quá trình sản xuất cá giống (dao động từ 7,37 – 7,52). Do nguồn nước được
lấy từ sông và có qua lắng lọc trước khi sử dụng, đồng thời kết hợp hệ thống
sục khí liên tục nên pH đảm bảo tốt cho quá trình đẻ và ấp trứng cá mè vinh.

25

×