Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Chuyên Đề đánh giá sự thay đổi hệ thống canh tác ảnh hưởng đến thu nhập nông hộ ở đồng bằng sông hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.28 KB, 26 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Đồng bằng sông Hồng là một trong hai đồng bằng lớn nhất nước. Đây
là vùng sản xuất nông nghiệp truyền thống, có tiềm năng lớn với hơn 1,5 triệu
ha đất canh tác (bằng 20% đất canh tác cả nước), sản lượng lương thực 7 triệu
tấn, dân số 17 triệu người (22%), mức bình quân ruộng đất đầu người bằng 40%
cả nước; cơ cấu kinh tế nông nghiệp có tỷ lệ: trồng trọt 72% (cây lương thực
80%) chăn nuôi 25%, dịch vụ 3%.
Các lợi thế so sánh của đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là: có khí hậu mùa
đông lạnh, đất tốt (80% diện tích là đất phù sa), là vùng có hệ thống thuỷ lợi tốt
nhất nước (tưới tiêu chủ động 80% diện tích, trong đó có 60% diện tích có nước
tưới phù sa). ĐBSH là một tam giác tăng trưởng với tốc độ đô thị hóa nhanh, có
điều kiện tốt thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay ĐBSH nằm trong vùng trọng điểm phát triển
kinh tế xã hội ở phía Bắc. Điều kiện trên là cơ sở cho vùng phát triển một nền
nông nghiệp, thuỷ sản hàng hóa đa dạng, năng suất, chất lượng cao. Nhưng hạn
chế của ĐBSH là: bình quân ruộng đất trên đầu người thấp nhất cả nước
(540m2/người), quỹ đất nông nghiệp tiếp tục giảm nhanh ,môi trường bị ô
nhiễm (do thâm canh, phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị hóa…), thu
nhập bình quân của hộ nông dân thấp nên khả năng đầu tư hạn chế, hệ thống
canh tác truyền thống là thuần nông, tâm lý bao cấp nặng nề… Khó khăn lớn
nhất của ĐBSH là hàng nông sản xuất khẩu ít, không ổn định. Sản phẩm hàng
hóa của vùng chủ yếu là gạo, thịt lợn, rau, hoa, quả, cây cảnh, thủy sản. Trừ
thuỷ sản là có khả năng xuất khẩu khá, các mặt hàng khác còn lại đều có sức
cạnh tranh kém trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Điểm xuất phát trong năm 2002 của vùng ĐBSH là: Mức thu nhập bình
quân nông dân khoảng 5 triệu đồng/năm, tổng thu nhập trên 1 ha đất canh tác
khoảng 28 - 30 triệu đồng/ha/năm (trong đó TP Hà Nội 37 triệu, Hà Tây 30
triệu, Thái Bình 32 triệu, Nam Định 36 triệu, Hải Phòng, 38 triệu, Hưng Yên 34
triệu, Hải Dương, 31 triệu, trong khi trung bình cả nước là 17 triệu đồng).
Hiện nay ở ĐBSH hàng lọat các chính sách thay đổi hệ thống canh tác
nhằm thúc đẩy công nghiệp chế biến phát triển, tạo nhu cầu cho phát triển các


ngành công nghiệp khác; tạo điều kiện thúc đẩy đưa khoa học – công nghệ mới
vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ; thu hút chất xám về nông thôn nhằm “xây
dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao” như tinh thần Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 (khóa IX) về “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn”, cũng là bước cụ thể hóa yêu cầu của Đại hội IX của Đảng
trong việc “đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị
diện tích”.
- 1 -
Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu gia tăng
hiệu quả sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của
khu vực nông nghiệp nói riêng ngày càng được đặt ra. Mục tiêu là tăng doanh
thu sản xuất hàng năm của một hộ, tạo ra khả năng mới trong cạnh tranh cho
sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, nâng cao thu nhập và khả năng đầu tư cho
mỗi hộ nông dân. Bên cạnh việc nâng cao doanh thu phải chú ý nâng cao chất
lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm gắn liền với quá trình chuyển đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi.
Xuất phát từ những yêu cầu xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp
và nông thôn ở đồng bằng sông Hồng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở các vùng đất đai cụ thể. Cùng ngành nông nghiệp chọn lựa được những mô
hình canh tác và luân canh có hiệu quả kinh tế cao (năng suất, chất lượng cao và
ổn định) trong điều kiện khí hậu và đất đai từng vùng ở đồng bằng sông Hồng
góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống xã hội. Với tất cả những lý do
trên, chúng tôi đã có sự thống nhất về chuyên đề “ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI
HỆ THỐNG CANH TÁC ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP NÔNG HỘ Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG”
- 2 -
PHẦN II: MỤC TIÊU ĐÁNH GIÁ
2.1. Mục đích chung
Giới thiệu khái quát về ĐBSH, đánh giá hiện trạng các hệ thống sản xuất

nông nghiệp, tình hình thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ nông
dân trong các vùng khác nhau
Xác định các yếu tố gây ra sự biến động về thu nhập của hộ nông dân và
các vấn đề hiện nay mà hộ nông dân gặp phải khi muốn tăng thu nhập.
Đưa ra các giải pháp điều chỉnh hệ thống canh tác góp phần nâng cao thu
nhập cho người dân
2.2. Mục đích cụ thể
Hệ thống hoá được thông tin về các hệ thống sản xuất nông nghiệp và tình
hình thu nhập của hộ nông dân trong các vùng khác nhau của đồng bằng sông
Hồng.
Giới thiệu về vùng đánh giá
Đánh giá tình hình phát triển hệ thống canh tác tại vùng
Xác định các yếu tố nâng cao thu nhập cho người dân gắn liền với phát
triển bền vững.
Đề xuất những kiến nghị các chính sách hỗ trợ phát triển, cải thiện cơ sở hạ
tầng, chuyển dịch cơ cấu và chuyển giao khoa học công nghệ tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân phát triển.
- 3 -
PHẦN III: NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
3.1 Tổng quan về vùng đáng giá
Đồng bằng sông Hồng, còn gọi là Đồng bằng Bắc Bộ, là vùng đồng
bằng châu thổ của sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng là
một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc
và Vùng Tây Bắc)
Đây là vùng đất màu mỡ, được hình thành do sự bồi đắp phù sa của hệ
thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình, là các sông nhánh cận Bắc và cận
Nam của sông Hồng và một hệ thống sông ngòi phức tạp chảy ra vịnh Bắc Bộ
qua trên 10 cửa sông .
Vùng đất có điều kiện thích hợp cho phát triển nông nghiệp. Nó được
nhiều nhà sử học coi là nơi hình thành và phát triển của dân tộc Việt, một nôi

văn hóa quan trọng của người Việt.
-
Vùng đồng bằng sông Hồng nằm ngay cạnh phía Nam của đường bắc chí
tuyến, giữa vĩ độ 22°00' và 21°30' Bắc và kinh độ 105°30' và 107°00' Đông. Nó
có hình dáng điển hình của một vùng châu thổ, với đáy là đường bờ biển kéo
dài 130 km từ trung tâm mỏ than và cảng Thành phố Hạ Long ở phía Bắc, đến
điểm cực Nam của tỉnh Ninh Bình ở phía Nam.
Khu trung tâm của vùng ĐBSH rất bằng phẳng, phần lớn nằm ở độ cao từ
0,4 m đến 12 m so với mực nước biển, với 56% có độ cao thấp hơn 2 m. Tuy
nhiên cũng có những khu vực đất cao, dưới dạng cacxtơ đá vôi hình thành các
đồi riêng biệt giống như các đỉnh núi nhọn và những dãy đồi núi dọc theo hai
cánh tây-nam và đông-bắc của vùng.
Phần lớn vùng đất của đồng bằng sông Hồng được 2 loại đê bảo vệ: 3000
km đê ngăn lũ của hệ thống sông và 1500 km đê biển ngăn sóng lớn của các
cơn bão ở vịnh Bắc Bộ.
3.1.1. Điều kiện tự nhiên đồng bằng sông Hồng
3.1.1.1. Tài nguyên đất :
• Đất nông nghiệp : 50%
• Đất lâm nghiệp : 15%
• Đất hoang : 30%
• Đất chuyên dùng : 5%
3.1.1.2. Khí hậu :
• Đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh với mưa
phùn, tạo điều kiện cho đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp.
• Nhiệt độ trung bình năm : 26
o
C
• Mưa trung bình năm : 1600mm + Nứơc :
• Mật độ sông trung bình 0,5 - 1km/km2,
• Lượng nước dồi dào : 122 x 109m3/năm.

• Nước mang nặng phù sa là nguồn phân bón : 131g/m3.
- 4 -
3.1.1.3. Sinh vật
• Tài nguyên rừng tuy hiếm, nhưng tài nguyên sinh vật đặc biệt là thuỷ
sản phong phú : 1 vạn ha nước mặt nuôi cá ; có bãi cá gần các vùng cửa sông.
3.1.1.4. Khoáng sản :
• Khí đốt Tiền Hải
• Than nâu chôn vùi dưới đồng bằng Hưng Yên, Thái Bình.
• Nước ngầm rất phong phú. Sông Hồng có dải chảy ngầm chiếm 37%
tổng lượng dòng chảy.
3.1.2. Dân số, cơ sở hạ tầng.
3.1.2.1. Dân số
+ Mật độ dân cư ở đồng bằng châu thổ sông Hồng cao nhất Việt Nam
(1.225 người/km²)(2006). Tổng dân số của vùng là 17.649.700 người (2003)
trong đó gần 50% số dân đang ở trong độ tuổi lao động.
+ Dân đồng bằng có nhiều kinh nghiệm trồng lúa, đánh bắt nuôi trồng hải
sản và nhiều nghề thủ công truyền thống.
Đồng bằng sông Hồng đã được khai thác từ lâu đời và có các điều kiện tự
nhiên khá thuận lợi cho hoạt động sản xuất và cư trú của con người.
Nền kinh tế ở đồng bằng sông Hồng tuy tương đối phát triển, nhưng đang
phải chịu áp lực rất lớn của dân số.
Dân số đông và sự gia tăng dân số đã để lại những dấu ấn đậm nét về
kinh tế - xã hội. Hàng loạt vấn đề xã hội như việc làm, nhà ở, y tế, văn hoá, giáo
dục vẫn còn là bức xúc.
Ngoài vấn đề chuyển cư, giải pháp hàng đầu ở đồng bằng sông Hồng là
việc triển khai có hiệu quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm
tỉ lệ sinh. Đồng thời, trên cơ sở lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lí, từng bước giải
quyết việc làm tại chỗ cho lực lượng lao động thường xuyên tăng lên, tiến tới
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong vùng
3.1.2.2. Cơ sở hạ tầng :

+ Đồng bằng sông Hồng la nơi duy nhất trong cả nước tập trung nhiều
trung tâm và thành phố công nghiệp, văn hoá, khoa học kĩ thuật, trong đó có thủ
đô Hà Nội, trực tiếp hoặc gián tiếp giúp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đồng bằng.
+ Có hệ thống giao thông và thông tin liên lạc thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế - xã hội.
3.1.3. Hành chính
Về mặt hành chính, có 85 huyện và 96 thị trấn nằm trong vùng đồng bằng
sông Hồng, với tổng diện tích là 14.806 km². Chúng nằm trong 8 tỉnh hay thành
phố cộng với một phần của 2 tỉnh khác.
- 5 -
Tên Cấp đơn vị hành chính
Diện tích
(km²)
Dân số (người)
Bắc Ninh tỉnh 807,6 987.400
Hà Nam tỉnh 849,50 811.126
Hà Nội thành phố trực thuộc trung ương, thủ đô 3.344,70 6.232.940
Hải Dương tỉnh 1.662 1.689.200
Hải Phòng thành phố trực thuộc trung ương 1.523 1.772.500
Hưng Yên tỉnh 923,09 1.116.000
Nam Định tỉnh 1.676 1.934.000
Ninh Bình tỉnh 1.400 900.000
Thái Bình tỉnh 1.542 1.827.000
Bảng 1: Bảng hành chính các tỉnh ĐBSH
3.1.4. Hệ thống các phân vùng đồng bằng Sông Hồng.
3.1.4.1. Vùng chuyển tiếp
Vùng chuyển tiếp có diện tích 54.541 ha còn được gọi là vùng phát triển
bền vững, nơi cộng tác của các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân địa
phương. Tạo điều kiện thuận lợi và đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế,

du lịch, dịch vụ đi đôi với tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng.
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng có năm vùng chuyển tiếp thuộc địa
giới hành chính của 5 huyện.
+ Vùng chuyển tiếp huyện Thái Thuỵ : 10.579 ha
+ Vùng chuyển tiếp huyện Tiền Hải :13.000 ha
+ Vùng chuyển tiếp huyện Giao Thuỷ : 11.183 ha
+ Vùng chuyển tiếp huyện Nghĩa Hưng : 9.745 ha
+ Vùng chuyển tiếp huyện Kim Sơn :10.034 ha
3.1.4.2. Vùng đệm
Vùng đệm có diện tích 36.849 ha, là vùng tiếp giáp với vùng lõi, có thể
tiến hành các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí nhưng không
ảnh hưởng đến mục đích bảo tồn trong vùng lõi. Khu dự trữ sinh quyển châu
thổ sông Hồng có năm vùng đệm thuộc địa giới hành chính của 5 huyện: Thái
Thuỵ và Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình; Giao Thuỷ và Nghĩa Hưng thuộc tỉnh
Nam Định; Kim Sơn thuộc tỉnh Ninh Bình.
+ Vùng đệm huyện Thái Thuỵ : 8.463 ha
+ Vùng đệm huyện Tiền Hải : 9.050 ha
+ Vùng đệm huyện Giao Thuỷ :8.250 ha
+ Vùng đệm huyện Nghĩa Hưng : 6.232 ha
+ Vùng đệm huyện Kim Sơn : 4.854 ha
- 6 -
3.1.4.3. Vùng lõi
+ Vùng lõi có diện tích (14.167 ha). Mục tiêu quản lý vùng lõi là bảo
tồn đa dạng sinh học, hạn chế các hoạt động của con người. Khu dự trữ sinh
quyển châu thổ sông Hồng có hai vùng lõi.
+ Vùng lõi 1: 4.100 ha (Nội địa: 3.100 ha; biển 1.000 ha) thuộc
Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ
+ Vùng lõi 2: 4.000 ha (Nội địa: 3.000 ha; biển 1.000 ha) thuộc Khu
Bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Tiền Hải.
Việc bảo tồn đa dạng sinh học vùng lõi gắn liền với việc bảo tồn rừng

ngập mặn và những bãi bồi ven biển, cửa sông. Không giống như các khu bảo
tồn trong nội địa, vùng lõi trong khu dự trữ sinh quyển này vẫn thường xuyên
chịu sức ép của việc khai thác và đánh bắt thuỷ sản quá mức. Có thể nói rất khó
phân chia diện tích vùng lõi hay vùng đệm, bởi vì việc đánh bắt thuỷ sản ở vùng
đệm sẽ trực tiếp làm suy giảm đa dạng sinh học vùng lõi. Các bãi bồi nuôi vạng
hay các loài thuỷ sản khác không chỉ làm mất đi vẻ đẹp cảnh quan mà còn làm
đảo lộn các chuỗi và lưới thức ăn trong tự nhiên.
3.1.5. Sinh cảnh
Đây là khu vực liên tỉnh vùng Nam đồng bằng sông Hồng bao gồm cả
khu vực bãi ngang Kim Sơn, cửa sông Đáy, sông Càn, VQG Giao Thủy, khu
bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Tiền Hải, và các vùng phụ cận, Khu Ramsar
Xuân Thuỷ.
Khu vực có khoảng 200 loài chim, trong đó có gần 60 loài chim di cư,
hơn 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới
như: cò thìa, mòng bể, rẽ mỏ thìa, cò trắng bắc, Sinh cảnh đặc sắc nơi đây là
những cánh rừng ngập mặn rộng hàng ngàn ha, đầm lầy mặn, bãi bồi ven biển
và cửa sông. Những cánh rừng này được ví như bức tường xanh bảo vệ đê biển,
làng xóm khỏi bị tàn phá bởi gió bão, nước biển dâng, và cả thảm hoạ sóng thần
nếu xảy ra.
Rừng ngập mặn là nơi nuôi dưỡng sinh đẻ của các loài hải sản. Như một
vườn ươm cho sự sống của biển, rừng ngập mặn cung cấp nguồn lợi thuỷ sản
phong phú cùng với 500 loài động thực vật thuỷ sinh và cỏ biển cung cấp nhiều
loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, cá biển, vạng, trai, sò, cá
tráp, rong câu chỉ vàng .v.v.
Miêu tả các vùng
Tổng
DĐĐT
canh tác
(ha)
DĐĐT đất

lúa (ha)
Diện tích
cây lâu
năm
(ha)
Mật độ
dân số
(người/
Km
2
)
Tỷ lệ số
hộ %
Tỷ lệ diện
tích
%
Các huyên trung du và
ven đồng bằng
238706 238706 8543 1486 37 37
Các huyện vùng trũng
Nam Hà cũ: Thuần lúa 97493 97493 2906 762 12 15
- 7 -
Các huyện ven đô thị
lớn Hà Nội, Hải Phòng 75583 75583 496 1324 15 12
Các huyện thâm canh
cây vụ đông, cây hàng
hóa 104890 104890 1103 1081 16 16
Vùng duyên hải ven
đồng bằng 125580 125580 1550 1079 19 20
Tổng 642252 642252 100 100

Bảng 2: Cơ cấu đất nông nghiệp các vùng ĐBSH.
3.2. Giới thiệu ngành trồng trọt, thuỷ sản, chăn nuôi ĐBSH
Xét nguồn lực phát triển, đồng bằng sông Hồng có thế mạnh sản xuất
lương thực và thực phẩm.
3.2.1 Ngành trồng cây lương thực: Luôn chiếm vị trí hàng đầu :
+ Diện tích trồng cây lương thực 1,2 - 1,3 triệu ha, chiếm 18,2% diện
tích cây lương thực cả nước.
+ Sản lượng cây lương thực đạt 6,1 triệu tấn, chiếm gần 18% sản lượng
lương thực toàn quốc (1999)
+ Trong các cây lương thực, lúa chiếm địa vị hàng đầu : đất trồng lúa
chiếm 88% diện tích cây lương thực, chiếm gần 14% diện tích trồng lúa cả
nước (1999).
+ Trọng điểm trồng lúa : Thái Bình, Nam Định, Hà Tây, Hải Dương.
Năng suất bình quân 51,3 tạ/ha, nhiều huyện đạt 8 - 10 tấn/ha/
+ Sản phẩm thực phẩm cũng là một trong những thế mạnh của đồng
bằng.
+ Rau quả chiếm vị trí quan trọng : diện tích gieo trồng 7 vạn ha, chiếm
27,8% diện tích rau quả cả nước.
3.2.2. Chăn nuôi, thủy sản:
+ Chăn nuôi chiếm vị trí thứ hai ở Bắc Bộ, sau trung du miền núi Bắc Bộ
với 4,3 triệu con lợn, chiếm 22,5% đàn lợn toàn quốc ; 323.000 con bò, bằng
42,5% bò miền núi và trung du Bắc Bộ, 181.00 con trâu, bằng 11% đàn trâu
miền núi trung du Bắc Bộ.
+ Vùng biển đồng bằng sông Hồng thuộc vùng Vịnh Bắc Bộ có nhiều bãi
tôm cá lớn, diện tích hơn 136.000 km2 với trữ lượng cá 800.000 tấn, khả năng
khai thác 300.000 tấn.
Hiện nay toàn vùng có 5,8 vạn ha diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản,
chiếm 10,9% diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của cả nước. Trong đồng
bằng còn 1 vạn ha mặt nước có thể nuôi trồng thủy sản nước ngọt và nước lợ.
3.3. Hệ thống canh tác vùng Đồng Bằng Sông Hồng.

3.3.1. Tình hình phát triển của hệ thống:
- 8 -
Trong những năm qua Đồng Bằng Sông Hồng đã phát triển công nghiệp
hóa hiện đại hóa trong nông nghiệp nông thôn. Đa dạng hoá cây trồng sẽ giúp
tối đa hoá hiệu quả sử dụng đất đai, tăng năng suất lao động và thu nhập của các
hộ nông dân.
Do là vùng đồng bằng lớn thứ 2 cả nước, đất đai rất giàu dinh dưỡng, nên
vùng đã đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa trong nông nghiệp theo hướng phát
triển các cây trồng giá trị cao nhắm xuất khẩu như: lúa gạo, rau sạch, ngô bao
tử, cà chua….
Thực hiện dồn điền đổi thửa, giao đất cho người dân, khuyến khích khu
vực kinh tế hộ cải cách phương thức sản xuất, tiếp thị và đẩy mạnh phát triển
công nghiệp chế biến nông sản.
Tại một số tỉnh, hệ thống canh tác điển hình là lúa nước, cây trồng xen canh
(các cơ cấu luân canh như đậu nành, ngô-đậu xanh, v.v.) và các loại cây ăn quả
như vải, nhãn, , v.v
Bên cạnh đó, thực hiện rất nhiều mô hình nuôi trồng, đánh bắt thủy sản tại
các phần diện tích mặt nước.
Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển nông
nghiệp, cải thiện sử dụng và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cao hiệu
quả của hệ thống hành chính về phát triển nông nghiệp. Đa dạng hoá cây trồng
sẽ giúp tối đa hoá hiệu quả sử dụng đất đai, tăng năng suất lao động và thu nhập
của các hộ nông dân. Vùng thực hiện các chính sách thúc đẩy sản xuất trong
nước để thay thế nhập khẩu, tạo công ăn việc làm ở nông thôn để thu hút những
người lao động bị thất nghiệp và chuẩn bị đối phó với sự thay đổi khí hậu toàn
cầu
Trong nông nghiệp, hệ hống cơ sở hạ tầng nông thôn: hệ thống tưới tiêu,
đường giao thông liên vùng, hệ thống điện, hệ thống truyền thông được xây
dựng hàng năm tạo điều kiện cho người dân phát triển sản xuất.
Để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp cũng như hiệu quả sử dụng đất,

mới đây Bộ NN-PTNT đã tổ chức hội nghị cơ cấu mùa vụ và cơ cấu giống lúa
vùng ĐBSH. Hướng sản xuất chính là vụ xuân muộn và mùa sớm đã được đưa
ra bàn thảo.
Theo ông Lê Hưng Quốc, Cục trưởng Cục Nông nghiệp, nhiều trở ngại.mới
trong nông nghiệp vùng ĐBSH đã xuất hiện, như diện tích đất lúa ngày càng
giảm, dân số tăng nhanh (ước tính đến 2010 ĐBSH có khoảng 21 triệu người,
- 9 -
tăng 3 triệu người, nhu cầu lương thực theo đó tăng thêm khoảng 700-800
nghìn tấn/ năm); hiệu quả sử dụng đất chưa cao (chỉ 3 năm 2000-2003 giảm tới
6,5 nghìn ha) Do vậy, các địa phương cần phải có sự điều chỉnh trong sản
xuất đặc biệt là cơ cấu mùa vụ và cơ cấu giống để nâng cao năng suất, giá trị,
từng bước đáp ứng yêu cầu mới.
Trên cơ sở đúc rút những mô hình có hiệu quả tại các địa phương, Cục
Nông nghiệp đưa ra định hướng chung để các tỉnh, các huyện căn cứ vào điều
kiện của mình mà lựa chọn bộ giống và cơ cấu thích hợp: (1) Phương thức canh
tác 2 vụ lúa+ 1 vụ màu theo cơ cấu: Lúa xuân muộn-lúa mùa sớm-vụ đông.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu ăn ngon, các địa phương có thể lựa chọn giống
lúa vừa năng suất cao, vừa có chất lượng tốt. Còn nếu đáp ứng yêu cầu năng
suất có thể mở rộng diện tích lúa lai qua việc lựa chọn các tổ hợp lúa lai hệ Bác
ưu, D.ưu, Nhị ưu, vừa có năng suất mà chất lượng gạo khá. Song song với việc
lựa chọn giống, áp dụng các biện pháp thâm canh tổng hợp để tăng năng suất.
Về các trà lúa, vụ ĐX hiện đang có biến động mạnh với việc chuyển từ xuân
sớm, xuân chính vụ sang xuân muộn. Trước năm 1990, xuân chính vụ chiếm tới
55-60% thì bây giờ giảm xuống rất còn rất ít. Trong khi đó, trà xuân muộn được
các địa phương gieo cấy chiếm 84%. Thậm chí một số địa phương như Hà
Nam, Nam Định, Hà Tây đạt trên 90% (Nam Định đạt 99%). Xu hướng thay
đổi tăng xuân muộn phù hợp với mực tiêu dành quỹ thời gian dài hơn cho sản
xuất vụ đông. Tuy nhiên, với những nơi chân rưộng thấp trũng, không sản xuất
được vụ đông không nhất thiết phải bỏ vụ xuân sớm. Về giống, với trà xuân
sớm nên dùng các giống nhóm X như X21, X23, X20, N30; ngoài ra có thể sử

dụng ĐT10, VN 10, BM 9830, IR 17494 Đáp ứng tiêu chí năng suất cao, chất
lượng khá vụ xuân muộn có thể dùng các giống KD 18, Q5, Bắc thơm số7, các
giống nếp và các giống lai như Nhị ưu 838, D. ưu 527, Nhị ưu 63.
Về vụ mùa, trà lúa mùa sớm trong thời gian qua đã tỏ rõ ưu thế. Điều này xuất
phát từ định hướng mở rộng tối đa trà mùa sớm để tăng diện tích sản xuất rau
màu vụ đông. Các địa phương có thể áp dụng: Lúa mùa sớm-lúa mùa trung-lúa
mùa muộn=30-50-20%. Về cơ cấu giống, do điều kiện khí hậu, đất đai, dịch
bệnh nên cơ cấu giống các địa phương có khác nhau. Tuy nhiên, với trà sớm,
trà trung có thể dùng Q5, KD 18, CR 203, HT1, các giống nếp cải tiến và các tổ
hợp lai D.ưu 527, Bồi tạp sơn thanh. HYT83, VL20; đối với trà mùa muộn sử
- 10 -
dụng các giống cảm ôn như X21, NX 30, các giống cảm quang như Bác ưu 903,
Bác ưu 64, Mộc tuyền và các giống tám, dự, nếp cổ truyền
(Nguồn:
Điểm xuất phát trong năm 2002 của vùng ĐBSH là: Mức thu nhập bình
quân nông dân khoảng 5 triệu đồng/năm, tổng thu nhập trên 1 ha đất canh tác
khoảng 28 - 30 triệu đồng/ha/năm (trong đó TP Hà Nội 37 triệu, Hà Tây 30
triệu, Thái Bình 32 triệu, Nam Định 36 triệu, Hải Phòng, 38 triệu, Hưng Yên 34
triệu, Hải Dương, 31 triệu, trong khi trung bình cả nước là 17 triệu đồng).
Tuy thế, hiện nay ở vùng ĐBSH số mô hình cánh đồng đạt 50 triệu
đồng/ha/năm đã chiếm khoảng 10% diện tích canh tác (90 ngàn ha trong số 880
ngàn ha) và các mô hình hộ đạt 50 triệu đồng/hộ/năm cũng đạt khoảng 10% số
hộ (350 ngàn hộ trong số tổng số 3,5 triệu hộ). Việc phấn đấu đạt mục tiêu “50
triệu đồng” ngoài ý nghĩa thúc đẩy hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp
còn là tiền đề thúc đẩy công nghiệp chế biến phát triển, tạo nhu cầu cho phát
triển các ngành công nghiệp khác; tạo điều kiện thúc đẩy đưa khoa học – công
nghệ mới vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ; thu hút chất xám về nông thôn
nhằm “xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền
vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao” như tinh thần Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) về “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn”, cũng là bước cụ thể hóa yêu cầu của Đại hội IX của
Đảng trong việc “đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên
đơn vị diện tích”.
(Nguồn: />3.3.2. Những nhân tố chính ảnh hưởng đến chuyển đổi hệ thống canh tác
tại đồng bằng Sông Hồng
3.3.2.1. Nhóm nhân tố tự nhiên
Môi trường tự nhiên gồm nhiều yếu tố như: khí hậu, thời tiết, đất đai,
thuỷ văn, địa hình, vv Đó cũng chính là yếu tố cơ bản bản làm căn cứ để bố trí
sản xuất cây trồng gì?, Con nuôi gì? Mô hình sản xuất ra sao? để cây trồng, vật
nuôi sinh trưởng và phát triển tốt tạo ra năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
3.3.2.2. Nhân tố kinh tế - kỹ thuật
- 11 -
Nhân tố kinh tế - kỹ thuật có nhiều như: cơ sở hạ tầng, sự phát triển lực
lượng sản xuất, chất lượng lao động, thị trường và chính sách kinh tế vĩ mô của
nhà nước, vv Tất cả những nhân tố đó tác động đến sự lựa chọn và phát triển
hệ thống canh tác. Trong tất cả các nhân tố kinh tế - kỹ thuật, nhân tố thị trường
là nhân tố bao trùm nhất, chính thị trường giúp cho người sản xuất biết được
nên sản xuất cái gì, cây gì, con gì, cho đối tượng nào để có được thu nhập cao.
Chính sách kinh tế nông nghiệp nông thôn: Chính sách này góp phần
phát triển hệ thống canh tác, đó là: chính sách giá cả, marketing, vật tư đầu vào,
tín dụng, cơ giới hoá, đất đai, nghiên cứu và tưới tiêu.
Các nhân tố kỹ thuật là những tiến bộ khoa học kỹ thuật đưa vào sản xuất
thông qua các tổ chức khoa học và kinh tế trong quá trình chuyển giao có ảnh
hưởng lớn đến chuyển đổi hệ thống canh tác. Tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà
trước hết là những thành tựu khoa học về sinh vật (như giống cây trồng, gia súc,
các thành tựu về công nghệ gieo trồng, chăm sóc) có chất lượng cao, sản phẩm
sản xuất ra được thị trường chấp nhận sẽ kích thích chuyển đổi hệ thống canh
tác nhanh hơn.
3.4. Thu nhập của người dân trong hệ thống canh tác ĐBSH.
ĐBSH có điều kiện đất đai bằng phẳng, màu mỡ, độ phì nhiêu cao và

thời tiết khí hậu ôn hoà, lượng nước mặt và nước ngầm phong phú là điều kiện
thuận lợi cho Vùng phát triển sản xuất nông nghiệp với các tập đoàn cây trồng,
vật nuôi hết sức phong phú bao gồm: cây lương thực (lúa, ngô, khoai…); cây
thực phẩm bao gồm đủ các loại cây ăn củ, quả, lá, thân; cây công nghiệp ngắn
ngày như lạc, đỗ tương; cây cây ăn quả như: cam, chanh, bưởi, na, vv…vật nuôi
bao gồm trâu, bò, lợn và gia cầm; phát triển thuỷ sản như cá, tôm, các con đặc
sản…cho đến nay, nông nghiệp vẫn là cơ sở và chỗ dựa cho mọi hoạt động kinh
tế khác của hộ. Thu nhập của hệ thống canh tác cây trồng, vật nuôi tăng dần
theo sự phát triển của hệ thống canh tác:
- Đối với hệ thống canh tác cây trồng: Thu nhập trên 1 ha canh tác phụ
thuộc vào hệ thống luân canh cây trồng trên từng loại đất. Thực tế ở hầu hết các
vùng thu nhập của công thức luân canh 2 vụ lúa/năm đạt thấp nhất. Nếu lấy thu
nhập thuần trên 1 ha đất canh tác 2 lúa năm 2004 làm gốc (=1) để so sánh thì
thấy thu nhập thuần trên 1 ha canh tác của các công thức luôn canh cây trồng
tăng dần: công thức 2 vụ lúa + 1 vụ ngô đông sẽ tăng gấp 1,3 lần; 2 vụ lúa + 1
vụ khoai lang sẽ tăng gấp 1,58 lần; 2 lúa + 1 vụ khoai tây tăng gấp 1,76 lần; vụ
lúa xuân + 2 vụ dưa hấu tăng gấp 3,82 lần và cao nhất là công thức trồng 3 vụ
dưa hấu + 1 vụ rau tăng gấp 4,79 lần.
- Đối với hệ thống canh tác ngành chăn nuôi: lợn thịt và gia cầm thịt
phương thức chăn nuôi kết hợp sử dụng thức ăn công nghiệp có thu nhập/kg sản
phẩm cao hơn chăn nuôi tận dụng; chăn nuôi lợn giống theo phương thức tận
- 12 -
dụng kết hợp giữa chế biến nông sản với nuôi lợn nái đem lại thu nhập/kg sản
phẩm cao hơn chăn nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp.
- Nuôi trồng thuỷ sản theo phương thức đa dạng các loại thuỷ ngư có thu
nhập/ha cao hơn nuôi độc canh một loại cá.
Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ quá trình phát triển kinh tế của ĐBSH, ta
thấy vấn đề đáng suy nghĩ: Là một trong hai vùng nông nghiệp trọng điểm của
cả nước nhưng nông nghiệp của vùng trong giai đoạn 1995-1997 có tốc độ tăng
trưởng đạt thấp (4,35%/năm), chưa bằng tốc độ phát triển nông nghiệp toàn

quốc (4,63% năm; tỷ lệ GDP nông nghiệp của vùng so với toàn quốc chưa có sự
cải thiện đáng kể (23,52% năm 1995, đến 1997 cũng chỉ 23,65%); Về đời sống,
mặc dù hết sức cần cù, nông dân ĐBSH vẫn ở mức thu nhập thấp, vùng có mức
thu nhập thấp bình quân năm 1996 dưới mức bình quân cả nước,và chỉ đạt
223,3 nghìn đồng/người (cả nước: 226,7 ngàn đồng người, giá thực tế).
3.4.1.Thu nhập của hộ phụ thuộc vào mức độ phát triển của hệ thống
canh tác
Thu nhập của hộ nông dân ở ĐBSH hiện nay nhìn chung vẫn ở mức trung
bình so với các vùng trên cả nước, bình quân thu nhập của hộ nông dân ở
ĐBSH hiện nay khoảng 28 đến 30 triệu đồng/năm.
Trước sự giảm thiểu đất canh tác và áp lực tăng dân số ngày càng lớn, các
hộ nông dân ở ĐBSH nói chung đều có xu hướng đa dạng hoá các hoạt động
kinh tế, nhưng đồng thời vẫn giữ các hoạt động sản xuất nông nghiệp như là cơ
sở cho mọi hoạt động kinh tế hộ gia đình. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hộ nông dân ở ĐBSH đã dần dần hình thành 3 loại hộ chủ yếu, đó là: hộ thuần
nông, hộ kiêm (sản xuất nông nghiệp kết hợp các ngành nghề phi nông nghiệp)
và hộ chuyên kinh doanh phi nông nghiệp.
Cơ cấu giữa các loại hộ này luôn biến đổi theo thời gian và luôn có sự khác
nhau giữa các vùng ở ĐBSH: vùng cận đô có tỷ lệ hộ thuần nông thấp và tỷ lệ
hộ phi nông nghiệp cao, trong khi tại các vùng khác tỷ lệ hộ thuần nông và hộ
kiêm chiếm đại đa số. Xu thế phát triển hệ thống canh tác của hộ hiện nay ở
ĐBSH là sự phối hợp giữa kinh doanh sản xuất nông nghiệp với phi nông
nghiệp.
Mức thu nhập của các nhóm hộ tính theo hệ thống canh tác thì mức thu
nhập bình quân/hộ của nhóm hộ kiêm cao hơn nhóm hộ thuần nông. Các nhóm
hộ có cùng hệ thống sản xuất ở các vùng khác nhau cũng có thu nhập khác
nhau: vùng ven đô > duyên hải ven biển > đa dạng nông nghiệp > thuần lúa.
Nếu hộ nông dân sử dụng lao động làm công thì một phần của Phần của
giá trị gia tăng sẽ dùng để trả thù lao cho sức lao động của họ. Phần còn lại cho
chủ hộ là Thu nhập thuần nông nghiệp.

- 13 -
THU NHẬP THUẦN NÔNG NGHIỆP = GIÁ TRỊ GIA TĂNG
THUẦN - TIỀN THUÊ ĐẤT - LÃI TIỀN VAY - THUẾ CÁC LOẠI -
LƯƠNG CỦA LAO ĐỘNG LÀM THUÊ.
Với Thu nhập thuần nông nghiệp, nông dân không chỉ phải thù lao cho
lao động gia đình mà còn phải tích luỹ vốn cho hộ (đảm bảo tái sản xuất mở
rộng). Trong thực tế, chúng ta biết rằng nếu nông dân tự bằng lòng với tái sản
xuất giản đơn hay không tích luỹ thì hộ sẽ bị giảm sức sản xuất và giảm sức
mua.
Thu nhập thuần nông nghiệp cho chúng ta biết một chỉ số phụ về khả năng
tái sản xuất của hộ nông nghiệp.
Không nên quên rằng các kết quả này chỉ đặc trưng cho một thời điểm nào
đó của một hệ thống sản xuất chứ không đặc trưng hoá động thái phát triển của
hệ thống này. Động thái là một yếu tố không thể thiếu được trong việc chẩn
đoán một hệ thống sản xuất.
Nghiên cứu sự phân chia của Giá trị gia tăng thuần trong hộ nông dân hay
từ hộ tới các tác nhân kinh tế khác cho chúng ta những thông tin quý giá về
những mối quan hệ xã hội tồn tại trong một xã hội.
Có lẽ cũng cần thiết khi xem xét tỷ lệ giữa phần của giá trị gia tăng/ lao
động do người làm công và lao động gia đình đóng góp đặc biệt khi mà sự mất
cân đối giữa hai phần này khá lớn.
Tỷ lệ của tiền thuê đất hay tiền nợ trong Giá trị gia tăng thuần cũng cho
biết tình trạng của các mối quan hệ kinh tế tồn tại giữa nông nghiệp và phần còn
lại của nền kinh tế cũng như khả năng tiềm năng của tái sản xuất của các hộ
nông dân nghiên cứu.
Chi phí trung gian
- Vật chất
- Dịch vụ: làm đất, thuỷ
lợi phí, bảo vệ mùa màng.
Khấu hao tài sản cố định

(máy móc, nhà xưởng, con
nái )
- 14 -
Giá trị
tổng sản
phẩm
thô
Giá trị
gia tăng
thô
Chi phí xã hội:
- Lãi tiền vay, tín dụng
- Tiền thuê đất, đấu thầu
đất
- Các loại thuế
- Lương của người làm
thuê
Giá trị
gia tăng
thuần
Thu nhập thuần Thu nhập
thuần
Trợ cấp cho sản xuất
Bảng 3 : Bảng tính thu nhập của người dân
GIÁ TRỊ GIA TĂNG THÔ = GIÁ TRỊ TỔNG SẢN PHẨM - CHI PHÍ
TRUNG GIAN
GIÁ TRỊ GIA TĂNG THUẦN = GIÁ TRỊ TĂNG THÔ – GIÁ TRỊ
KHẤU HAO
( Nguồn: www.agrovietcom.vn)
3.4.2. Các loại thu nhập ở hộ nông dân

Thu nhập của một hộ nông dân được hiểu là phần giá trị sản xuất tăng thêm
mà hộ được hưởng để bù đắp cho thù lao lao động của gia đình, cho tích luỹ và
tái sản xuất mở rộng nếu có. Thu nhập của hộ phụ thuộc vào kết quả của các
hoạt động sản xuất kinh doanh mà hộ thực hiện. Có thể phân thu nhập của hộ
nông dân thành 3 loại:
3.4.2.1. Thu nhập nông nghiệp:
Bao gồm thu nhập từ các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp như:
Trồng trọt (lúa, màu, rau, quả, ); từ chăn nuôi (Gia súc, gia cầm, ) và nuôi
trồng thuỷ hải sản (tôm, cua, cá, ).
3.4.2.2. Thu nhập phi nông nghiệp:
Thu nhập phi nông nghiệp là thu nhập được tạo ra từ các hoạt động
ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, bao gồm các ngành nghề chế
biến, sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khí, Ngoài ra thu nhập phi nông
nghiệp còn được tạo ra từ các hoạt động thương mại dịch vụ như buôn bán, thu
gom,
3.4.2.3 Thu nhập khác:
Đó là các nguồn thu từ các hoạt động làm thêm, làm thuê; làm công ăn
lương; từ các nguồn trợ cấp xã hội và sản xuất hoặc các nguồn thu nhập bất
thường khác.
- 15 -
3.4.3. Yếu tố ảnh hưởng tới thu nhập của hộ nông dân
Theo lý thuyết kinh tế, thu nhập của hộ nông dân phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có 4 yếu tố chính, đó là vốn, lao động, đất đai và khoa học công
nghệ, ngoài ra thu nhập còn phụ thuộc vào một số yếu tố định tính khác. Tuỳ
vào điều kiện sản xuất của hộ mà thu nhập phụ thuộc từng yếu tố khác nhau.
3.4.3.1. Vùng kinh tế ven đô:
Các hoạt động chăn nuôi và trồng lúa, màu có ảnh hưởng rất lớn đến thu
nhập nông nghiệp của hộ, và hoạt động thuỷ sản là có ảnh hưởng ít nhất. Như
vậy, với sự giảm thiểu đất canh tác nông nghiệp ở những vùng ven đô thị, xu
hướng phát triển chăn nuôi quy mô lớn và sản xuất các sản phẩm rau tươi sống

phục vụ cho thị trường đô thị nhằm nâng cao thu nhập nông nghiệp của hộ nông
dân ngày càng phát triển.
3.4.3.2. Vùng đa dạng hoá:
Thu nhập nông nghiệp ở đây nhìn chung chịu sự tác động khá đồng
đều của các yếu tố. Tuy vậy, các yếu tố về diện tích và sản lượng của lúa và rau
màu vẫn có sự ảnh hưởng rõ hơn.
3.4.3.3. Vùng thuần lúa:
Hoạt động trồng lúa có ảnh hưởng lớn nhất đến thu nhập nông nghiệp.
Tuy nhiên trong những năm gần đây việc chuyển dịch từ thâm canh lúa sang đa
canh lúa màu và chăn nuôi ở một số hộ đã góp phần nâng cao mức độ ảnh
hưởng của các hoạt động này đến thu nhập của hộ song song với lúa.
3.4.3.4. Vùng thuỷ sản ven biển:
Việc mở rộng diện tích và đầu tư vốn cho nuôi trồng thuỷ sản sẽ ảnh
hưởng nhiều đến thu nhập nông nghiệp của hộ. Thu nhập nông nghiệp luôn tỉ lệ
thuận với diện tích nuôi trồng thuỷ sản cho thấy hiệu quả kinh tế rất lớn từ hoạt
động này so với các vùng khác. Ngoài ra diện tích lúa và vốn cho chăn nuôi
cũng đóng góp lớn cho sự biến thiên của thu nhập nông nghiệp. Điều này sẽ rất
thích hợp ở những vùng trũng cần mở rộng diện tích thuần lúa kém hiệu quả
sang kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi.
4. Những bất cập trong sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân
Trong quá trình phát triển thay đổi hệ thống canh tác vẫn còn nhiều bất
cập, chính điều này đã gây rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến thu nhập của
người dân.
4.1. Phân phối đất canh tác không hiệu quả.
Trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH cũng nảy sinh nhiều vấn
đề bất cập như thu hồi đất nông nghiệp, giá cả đền bù chưa thỏa đáng, tạo công
ăn việc làm cho nông dân bị thu hồi đất, tái định cư.
- 16 -
Phân phối đất không đúng mục đích sử dụng, đất quy hoạch không phải
để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cũng không phải mở rộng đô

thị mà quy hoạch để làm sân golf dẫn đến cho hàng vạn nông dân mất đất sản
xuất, đời sống khó khăn phải đi tha phương cầu thực, thậm chí đây là một trong
những nguyên làm cho tình hình mất an ninh trật tự, tệ nạn xã hội tăng lên.
4.2. Vấn đề đầu tư, phát triển còn chưa thực sự đến người dân.
Phí giao dịch, lãi xuất ngân hàng còn cao
Mạng lưới tài chính còn chưa vươn tới vùng khó khăn.
Những quy định mới về thế chấp tài sản và không phải thế chấp chưa rõ
ràng
Thông tin về tín dụng không đến với người nghèo
Bất bình đẳng nguồn vốn cho vay và đầu tư.
4.3. Hạn chế trong quá trình chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông
nghiệp đến người dân.
Trình độ chuyên môn, xã hội của một số cán bộ nông nghiệp còn rất hạn
chế chưa áp dụng đúng với điều kiện thực tế.
Các lớp đào tạo về kỹ thuật còn ít, không gắn liền với thực địa
4.4. Hạn chế trong quá trình giải quyết việc làm cho lao động.
Trong khi quy hoạch đất nông nghiệp thành các khu đô thị, khu công
nghiệp chế biến…điều này đồng nghĩa dẫn đến người dân mất tư liệu sản xuất
quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm kịp thời và phù hợp cho lao
động vùng giải tỏa chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Điều này dẫn
đến người dân bị thất nghiệp, không có thu nhập….
4.5. Thông tin thị trường nông nghiệp không thực sự rõ ràng và cập nhật
Mạng lưới thông tin về thị trường nông nghiệp không cập nhật, không
minh bạch, việc hàng hóa của dân được bán cho ai, giá cả như thế nào và nhu
cầu của người tiêu dùng cần chất lượng hàng hóa ra sao thì chưa được quan
tâm đúng mức
Khi có thông tin rồi nhưng năng lực tiếp cận, xử lý và ứng dụng thông tin
còn hạn chế cũng là vấn đề.
- 17 -
5. Một số kiến nghị, giải pháp để phát triển hệ thống canh tác tăng thu

nhập các hộ nông dân ở các vùng
5.1. Kiến nghị
5.1.1. Đối với vùng ven đô
Chính sách ruộng đất: Chính sách phải rõ ràng để hạn chế rủi ro khi bị
mất đất nông nghiệp do tác động đô thị hoá là rất lớn đã không cho phép họ
mạo hiểm đầu tư.
Vốn và lãi suất vốn vay: Chủ yếu là mong muốn được vay vốn nhiều hơn
với các thủ tục đơn giản. Ngoài ra, thời hạn vay cũng cần được kéo dài hơn với
những lãi suất ưu đãi;
Dịch vụ công và khuyến nông: Dịch vụ cung cấp cây con giống, vật tư
nông nghiệp và các dịch vụ tư vấn, đào tạo về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt,….
5.1.2. Kiến nghị của các hộ vùng khác:
Cải thiện điều kiện tiếp cận vốn, đặc biệt với những hộ nghèo nên xem
xét việc ưu tiên tín chấp.
Cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thuỷ lợi phục vụ
tưới tiêu cho đồng ruộng;
Tăng cường dịch vụ công và khuyến nông như giống, thuốc bảo vệ thực
vật,… đặc biệt là sự quan tâm của nhà nước đối với người nông dân bằng các
chính sách ưu đãi.
5.2. Đề xuất giải pháp tăng thu nhập của các hộ nông dân ĐBSH
5.2.1. Quan điểm
Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của vùng ĐBSH là nơi
đất chật người đông, nơi đang diễn ra quá trình đô thi hoá mạnh mẽ hệ thống cơ
sở hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển, trình độ dân trí cao, đời sống dân cư
tương đối ổn định, quan điểm để tăng thu nhập các hộ phải tiến hành chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tức là phải thay đổi hệ thống canh tác cho hợp lý:
5.2.1.1. Đối với phát triển hệ thống canh tác chung của ĐBSH
- Tăng thu nhập của hộ nông dân theo hướng chuyển dịch hệ thống canh
tác trên cơ sở qui hoạch chung của vùng, gắn sản xuất nông nghiệp với phát
triển chế biến và tiêu thụ nông sản, hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung

có hiệu quả và phát triển bền vững (tăng trưởng kinh tế cao, đảm bảo xã hội
phát triển và hạn chế suy thoái môi trường).
- Chuyển dịch hệ thống canh tác trên cơ sở khai thác hợp lý các lợi thế
của từng vùng ở ĐBSH và tôn trọng quyền quyết định của các hộ nông dân
thông qua điều tiết của thị trường.
- 18 -
- Khuyến khích tăng thu nhập trên cơ sở chuyển dịch hệ thống canh tác,
tăng đầu tư mở rộng qui mô sản xuất hàng hoá chuyên môn hoá, hạn chế sản
xuất nhỏ lẻ, manh mún, kém hiệu quả và không ổn định.
5.2.1.2. Đối với hệ thống canh tác nông nghiệp
- Sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng đối với thu nhập của
một số hộ nông dân, song hệ thống canh tác nông nghiệp chuyển dịch sang các
cây trồng, vật nuôi theo hướng phát triển hàng hoá nhằm nâng cao giá trị thu
nhập trên 1 ha đất nông nghiệp và nâng cao năng suất lao động cho người nông
dân;
- Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo sát với nhu cầu của thị
trường trong và ngoài nước, trên cơ sở phát huy lợi thế sẵn có của vùng;
- Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đi đôi với việc áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhằm đạt năng suất cao, chất lượng
sản phẩm tốt, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và
ngoài nước.
5.2.1.3. Đối với hệ thống sản xuất phi nông nghiệp
- Phát triển hệ thống hoạt động phi nông nghiệp phục vụ sản xuất nông
nghiệp nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp như: chế biến, bảo quản và
tiêu thụ nông sản;
- Khôi phục các nghề truyền thống, đầu tư khoa học công nghệ nâng cao
chất lượng sản phẩm phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu;
- Tăng cường sự tham gia của lao động nông nghiệp, nông thôn vào làm
việc ở các khu công nghiệp, doanh nghiệp và các liên doanh với nước ngoài với
mức thu nhập cao và ổn định

5.2.2. Trao đổi về định hướng và giải pháp chuyển đổi hệ thống sản xuất
của vùng canh tác nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nông dân
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về thu nhập của các hệ nông dân ở các
vùng với các hệ thống sản xuất khác nhau và những phân tích về các yếu tố
thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức ảnh hưởng đến thu nhập của các hệ
thống sản xuất của các vùng ở ĐBSH, chúng tôi có một số ý kiến trao đổi về
định hướng chuyển đổi hệ thống sản xuất của Vùng như sau
5.2.2.1. Vùng ven đô
 Định hướng phát triển hệ thống canh tác
Vấn đề bức bách nhất của vùng nông thôn ven đô hiện nay là đất sản xuất
nông nghiệp ngày càng thu hẹp do quá trình đô thị hoá tăng nhanh; lao động
nông nghiệp dư ra ngày càng nhiều, đồng nghĩa với thiếu việc làm một cách
nghiêm trọng. Do vậy, con đường thoát nghèo đói và tụt hậu trong phát triển
- 19 -
kinh tế – xã hội nông thôn vùng ven đô là phải phát triển các ngành nghề phi
nông nghiệp như: và đẩy mạnh phát triển thương mại dịch vụ. Bởi vậy, hệ
thống sản xuất của các hộ nông dân ven đô chuyển sang các hoạt động ít phụ
thuộc vào đất đai hơn mà có thu nhập cao hơn. Đó là:
 Sản xuất nông nghiệp
- Đối với sản xuất trồng trọt: ĐBSH là vùng có diện tích đất phù sa lớn,
việc thực hiện canh tác các loại lúa năng suất cao, rau sạch, hoa, các loại cây ăn
trái
- Đối với chăn nuôi: Phát triển các mô hình chăn nuôi kết hợp VAC,
VACR với các loại vật nuôi truyền thống như: heo nạc, gia cầm, ba ba, ếch,
lươn đây là những mặt hàng mà người dân có nhu cầu sử dụng nhiều nhất là
tại các trung tâm thành phố
- Đối với nuôi trồng thuỷ sản: ĐBSH có hệ thống biển, sông, ngòi, ao
kênh đa dạng rất thích hợp với việc nuôi trồng các loại thủy hải sản giá trị cao.
 Sản xuất phi nông nghiệp
+ Phát triển thương mại, dịch vụ: ĐBSH là mảnh đất có nhiều nét văn

hóa truyển thống, gắn liền nhiều khu di tích lịc sử vì thế phát triển thương mại,
dịch vụ gắn với du lịch sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế
+ Phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp: chế biến thực phẩm, rau quả;
phát triển các nghề truyền thống kết hợp với việc sử dụng công nghệ cao: mộc,
khảm trai, vv ;
+ Tăng cường hoạt động có thu nhập bằng lương ở mức cao và ổn định
trong các khu chế suất, khu công nghiệp và các doanh nghiệp.
 Giải pháp và chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống canh tác vùng ven đô
- Bố trí hợp lý trong việc quy hoạch các khu chế biến, khu công nghiệp
và đô thị tránh những tác động làm ảnh hưởng đến phát triển bền vững nông
nghiệp nông thôn.
- Có chính sách đền bù giá cả thỏa đáng cho những hộ, vùng trong diện
giải tỏa phục vụ cho phát triển khu công nghiệp và đô thị hóa. Bên cạnh đó phải
có chính sách tái định cư hợp lý
- Chính sách hỗ trợ vốn đa dạng, hiệu quả hơn cho các hộ nông dân, giúp
họ có vốn đầu tư phát triển sản xuất.
- Dịch vụ công và khuyến nông, khuyến công: Dịch vụ cung cấp cây con
giống, vật tư nông nghiệp, công nghệ cao cho sản xuất nông sản sạch và các
dịch vụ tư vấn, đào tạo về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, chế biến nông, lâm,
thuỷ sản; kiến thức lựa chọn sản phẩm và kinh doanh theo cơ chế thị trường….
- 20 -
5.2.2.2. Các vùng khác xa vùng đô thị
 Định hướng phát triển hệ thống canh tác
 Sản xuất nông nghiệp
- Phát triển sản xuất trồng trọt hàng hoá: Đẩy mạnh phát triển thâm canh
cây lúa, các loại cây ăn trái: nhãn, vải, mía cung cấp sản phẩm cho các khu
chế biến.
- Phát triển chăn nuôi công nghiệp: Phát triển chăn nuôi lợn hàng hoá
bao gồm lợn nạc và lợn sữa theo nhu cầu của thị trường trong nước và xuất
khẩu; gia cầm lấy thịt và lấy trứng, chăn nuôi bò sữa

- Nuôi trồng thuỷ sản qui mô lớn: phát triển thế mạnh về nuôi trồng thuỷ
sản nước lợ như tôm càng xanh, ngao biển và cá các loại thuỷ hải sản xuất
khẩu.
 Sản xuất phi nông nghiệp
+ Phát triển thương mại, dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống;
+ Phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp: chế biến thuỷ hải sản, rau quả; phát
triển các nghề truyền thống, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, mộc, máy
may, vv ;
+ Tăng cường hoạt động có thu nhập bằng lương ở mức cao và ổn định trong
các khu chế suất, khu công nghiệp và các doanh nghiệp.
 Giải pháp thúc đẩy quá trình phát triển hệ thống canh tác tăng thu
nhập của các hộ nông dân xa đô thị
Cải thiện điều kiện tiếp cận thị trường, vốn, đặc biệt với những hộ nghèo, cải
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu
cho đồng ruộng; Tăng cường dịch vụ công và khuyến nông
Hỗ trợ tiếp cận thị trường:. Một hiện tượng phổ biến là các hộ nông dân
sản xuất nhỏ lẻ một sản phẩm nào đó thì tiêu thụ dễ với giá cao có lãi. Khi qui
mô sản xuất mặt hàng đó mở ra diện rộng là nhiều hộ sản xuất lại bị thua lỗ do
thị trường không tiêu thụ được hết sản phẩm. Bởi vậy, để thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế và chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế điều đầu tiên là phải tính
đến yếu tố thị trường.
Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp của hộ nông dân.
- Hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương phục vụ tưới tiêu
chủ động, đặc biệt phục vụ cho mở rộng sản xuất vụ đông và các cây rau màu
có giá trị cao trong nội vùng và phát triển nuôi trồng thuỷ sản, làm muối các
vùng ven biển.
- 21 -
- Xây dựng hợp lý và hiệu quả các khu chế biến nông sản.
- Xây dựng hệ thống xử lý chất thải bảo vệ môi trường ở các vùng sản

xuất công nghiệp và các làng nghề
- Tập trung cho nghiên cứu tạo giống mới và áp dụng công nghệ tiên tiến,
đáp ứng giống tốt cho yêu cầu sản xuất;
- Tăng cường trang thiết bị cơ khí hoá nông nghiệp, điện khí hoá nông
thôn
 Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới các chính sách thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Chính sách hỗ trợ kinh tế hộ phát triển sản xuất hàng hoá
+ Hướng dẫn chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất, cơ cấu cây trồng theo qui
hoạch chung của từng vùng để đạt hiệu quả cao hơn;
+ Kết hợp chặt chẽ các tổ chức nông nghiệp nhằm cung cấp cho người
dân những giống tốt phục vụ sản xuất.
+ Bằng các loại phương tiện truyền thông, phổ biến kiến thức về thị
trường nông sản cho người dân nắm rõ.
+ Cho thuê đất để làm trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm, bò sữa và các
ngành nghề chế biến nông sản phẩm, tiểu thủ công nghiệp đối với hộ nông dân
để tạo thành vùng sản xuất tập trung, chánh ô nhiễm môi trường;
+ Hỗ trợ tốt về tín dụng giúp cho người dân yên tâm về vốn sản xuất.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp hợp đồng tiêu thụ sản phẩm theo hình
thức ứng vật tư trước với các hộ sản xuất.
+ Khuyến khích Phát triển hợp tác xã và kinh tế hợp tác trong sản xuất và
xuất khẩu
Chính sách đất đai
Chính sách đất đai phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
nông thôn phải giúp kinh tế hộ mở rộng qui mô, tạo ra các vùng sản xuất hàng
hoá tập trung; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành nghề, công
nghiệp và dịch vụ nông thôn:
- Đẩy nhanh việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn
định lâu dài cho các hộ, nhất là các hộ làm kinh tế trang trại và các doanh
nghiệp. Khuyến khích nông dân tiến hành “dồn điền, đổi thửa” theo phương

châm: dân chủ, tự nguyện và thoả thuận. Đơn giản hoá qui trình và thủ tục
chuyển nhượng, chuyển đổi đất nông, ngư nghiệp. Đặc biệt chuyển diện tích
đất lúa trũng năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ sản.
- 22 -
- Điều chỉnh cơ sở pháp lý để nông dân và các doanh nghiệp tư nhân
được sử dụng đất đai làm tài sản thế chấp, góp vốn sản xuất, kinh doanh, liên
doanh và liên kết…
Chính sách thương mại và thị trường
- Khuyến khích các doanh nghiệp ký hợp đồng với nông dân sản xuất,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, thuỷ sản. Các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực này được ưu tiên vay vốn tín dụng, đầu tư cơ sở hạ tầng ở vùng
nguyên liệu, phối hợp các hoạt động khuyến nông, chuyển giao giống và kỹ
thuật mới.
- Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại (thông qua hội chợ,
triển lãm, quảng cáo, tìm kiếm và mở rộng thị trong và ngoài nước) tiêu thụ các
hàng hoá nông, thuỷ sản, công nghiệp và ngành nghề nông thôn.
- Xúc tiến thành lập các hiệp hội ngành hàng để trao đổi thông tin thị
trường, giá cả, tạo lập các cơ hội tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả, tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
- Khuyến khích kinh tế hộ và trang trại trực tiếp sản xuất, chế biến tiêu
thụ và xuất khẩu nông, thuỷ sản.
Chính sách đào tạo và chuyển giao khoa học công nghệ cho nông thôn,
nông dân
- Về đào tạo nguồn nhân lực: tăng cường đầu tư hệ thống đào tạo, đặc biệt là
các cơ sở đào tạo nghề, tập trung đào tạo nông dân, thanh niên nông thôn về kỹ
thuật nông nghiệp, ngư nghiệp, chế biến sản phẩm và học nghề mới cho thanh
niên nông thôn đặc biệt quan tâm tới các hộ bị thu hồi đất cho sản xuất công
nghiệp và đô thị hoá để có thể vào làm việc ở các khu chế xuất đóng trên địa
bàn;
- Nội dung đào tạo tập trung vào: kỹ thuật sản xuất nông, thủy sản theo

hướng hàng hoá, quy mô lớn; kỹ thuật chế biến nông, thuỷ sản; kiến thức quản
lý, lựa chọn sản phẩm và kinh doanh theo cơ chế thị trường.
- Xã hội hoá công tác đào tạo. Đa dạng hoá phương pháp đào tạo, hướng vào
đào tạo gắn với thực tiễn, thông qua mô hình đã chuyển đổi hiệu quả để người
được đào tạo lựa chọn và học tập.
- Khuyến khích các viện nghiên cứu khoa học, các cơ sở nhân giống, các
trạm thú y, bảo vệ thực vật, khuyến nông triển khai chuyển giao công nghệ và
khoa học kỹ thuật tại cơ sở.
- 23 -
KẾT LUẬN
Đồng bằng sông Hồng là một trong hai đồng bằng lớn nhất nước, đây là
vùng sản xuất nông nghiệp truyền thống. Đồng bằng sông Hồng có khí hậu mùa
đông lạnh, đất tốt (80% diện tích là đất phù sa), là vùng có hệ thống thuỷ lợi tốt
nhất nước (tưới tiêu chủ động 80% diện tích, trong đó có 60% diện tích có nước
tưới phù sa).
Mật độ dân cư ở đồng bằng châu thổ sông Hồng cao nhất Việt Nam
(1.225 người/km²)(2006). Tổng dân số của vùng là 17.649.700 người (2003)
trong đó gần 50% số dân đang ở trong độ tuổi lao động.
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng (còn có tên khu dự trữ sinh
quyển đồng bằng sông Hồng) là một khu dự trữ sinh quyển thế giới do
UNESCO công nhận ngày 2 tháng 12 năm 2004 cho một phần đất phía Nam
vùng duyên hải Bắc bộ (thuộc đồng bằng sông Hồng). Đây là 1 trong 6 khu dự
trữ sinh quyển được UNESCO công nhận tại Việt Nam cho đến hết năm 2007.
Vùng chuyển tiếp có diện tích 54.541 ha, vùng đệm có diện tích 36.849
(ha). vùng lõi có diện tích (14.167 ha).
Khu vực có khoảng 200 loài chim, trong đó có gần 60 loài chim di cư,
hơn 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới
như: cò thìa, mòng bể, rẽ mỏ thìa, cò trắng bắc,
Xét nguồn lực phát triển, đồng bằng sông Hồng có thế mạnh sản xuất
lương thực và thực phẩm.

Diện tích trồng cây lương thực 1,2 - 1,3 triệu ha, chiếm 18,2% diện tích
cây lương thực cả nước.
Chăn nuôi chiếm vị trí thứ hai ở Bắc Bộ, sau trung du miền núi Bắc Bộ
với 4,3 triệu con lợn, chiếm 22,5% đàn lợn toàn quốc ; 323.000 con bò, bằng
42,5% bò miền núi và trung du Bắc Bộ, 181.00 con trâu, bằng 11% đàn trâu
miền núi trung du Bắc Bộ.
Vùng biển đồng bằng sông Hồng thuộc vùng Vịnh Bắc Bộ có nhiều bãi
tôm cá lớn, diện tích hơn 136.000 km2 với trữ lượng cá 800.000 tấn, khả năng
khai thác 300.000 tấn.
Thu nhập của hộ nông dân ở ĐBSH hiện nay nhìn chung vẫn ở mức trung
bình so với các vùng trên cả nước, bình quân thu nhập của hộ nông dân ở
ĐBSH hiện nay khoảng 28 đến 30 triệu đồng/năm.
Mức thu nhập của các nhóm hộ tính theo hệ thống canh tác thì mức thu
nhập bình quân/hộ của nhóm hộ kiêm cao hơn nhóm hộ thuần nông. Các nhóm
hộ có cùng hệ thống sản xuất ở các vùng khác nhau cũng có thu nhập khác
nhau: vùng ven đô > duyên hải ven biển > đa dạng nông nghiệp > thuần lúa.
Thu nhập của hộ nông dân ĐBSH phụ thuộc vào kết quả của các hoạt
động sản xuất kinh doanh mà hộ thực hiện.
- 24 -
Thu nhập nông nghiệp: Bao gồm thu nhập từ các hoạt động sản xuất trong
nông nghiệp như: Trồng trọt (lúa, màu, rau, quả, ); từ chăn nuôi (Gia súc, gia
cầm, ) và nuôi trồng thuỷ hải sản (tôm, cua, cá, ).
Thu nhập phi nông nghiệp: Thu nhập phi nông nghiệp là thu nhập được tạo
ra từ các hoạt động ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, bao gồm
các ngành nghề chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khí, Ngoài
ra thu nhập phi nông nghiệp còn được tạo ra từ các hoạt động thương mại dịch
vụ như buôn bán, thu gom,
Thu nhập khác: Đó là các nguồn thu từ các hoạt động làm thêm, làm thuê;
làm công ăn lương; từ các nguồn trợ cấp xã hội và sản xuất hoặc các nguồn thu
nhập bất thường khác.

Thu nhập của hộ nông dân ĐBSH phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có
4 yếu tố chính, đó là vốn, lao động, đất đai và khoa học công nghệ, ngoài ra thu
nhập còn phụ thuộc vào một số yếu tố định tính khác. Tuỳ vào điều kiện sản
xuất của hộ mà thu nhập phụ thuộc từng yếu tố khác nhau.
Trong quá trình phát triển thay đổi hệ thống canh tác vẫn còn nhiều bất
cập, chính điều này đã gây rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến thu nhập của
người dân. Phân phối đất canh tác không hiệu quả, Vấn đề đầu tư, phát triển
còn chưa thực sự đến người dân, hạn chế trong quá trình chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật nông nghiệp đến người dân, thông tin thị trường nông nghiệp
không thực sự rõ ràng và cập nhật.
Một số kiến nghị, giải pháp để phát triển hệ thống canh tác tăng thu nhập
các hộ nông dân ở các vùng: Cải thiện điều kiện tiếp cận vốn, đặc biệt với
những hộ nghèo nên xem xét việc ưu tiên tín chấp. Cải thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là giao thông, thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cho đồng ruộng. Tăng
cường dịch vụ công và khuyến nông như giống, thuốc bảo vệ thực vật,… đặc
biệt là sự quan tâm của nhà nước đối với người nông dân bằng các chính sách
ưu đãi.
- 25 -

×