Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

THIẾT kế bài GIẢNG điện tử NHƯ THẾ nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.68 KB, 18 trang )

“THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ NHƯ THẾ NÀO ?”
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận :
“ Các thầy giáo, các cô giáo phải tìm cách dạy. Dạy cái gì, dạy thế nào để
học trò hiểu đúng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh!”. Làm theo lời Bác dạy, giáo viên
chúng ta phải tìm cách dạy. Dạy như thế nào mà trong 35-40 phút cho một tiết
học mà đạt kết quả tốt nhất: giáo viên giảng thật ít, học sinh học tập hứng thú,
hiểu và nhớ được kiến thức cần biết đồng thời tư duy được phát triển. Nếu
theo cách dạy trước đây : Thầy giảng, trò ghi nhớ , thầy giảng càng hay trò
ghi nhớ càng dễ. Thầy kết hợp giáo cụ trực quan tốt, học sinh được nhìn thấy
càng dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Nhưng học sinh chỉ hiểu và nhớ. Còn trong cách
dạy ngày nay, giáo viên sử dụng đa dạng, kết hợp nhuần nhuyễn các phương
pháp, các cách tổ chức lớp, học sinh được trao đổi, thực hành, quan sát …. để
phát hiện kiến thức cần biết. Tự phát hiện tri thức thì các em sẽ hiểu rõ, nhớ
lâu, phát triển tư duy tốt, biết cách giải quyết tình huống, có ý thức sống tích
cực hơn, phù hợp với xã hội hiện đại hơn. Làm thế nào để giáo viên giảm
được cường độ lao động trong mỗi giờ dạy, có điều kiện tăng cường đối thoại,
thảo luận với học sinh, qua đó kiểm soát được học sinh. Học sinh được thu
hút, kích thích khám phá tri thức, có điều kiện quan sát vấn đề, chủ động nêu
câu hỏi và nhờ vậy mà quá trình học tập trở nên hứng thú, sâu sắc hơn. Có
nên chăng ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, cụ thể là thiết kế bài
giảng điện tử trong giảng dạy !
Bài giảng điện tử là gì?
Trước đây, chúng ta vẫn thường lẫn lộn giữa hai thuật ngữ "Bài giảng
điện tử" và "Giáo án điện tử". Giờ đây chúng ta không sử dụng thuật ngữ
"Giáo án điện tử" như nhiều giáo viên vẫn thường gọi mà sử dụng thuật ngữ
"Bài giảng điện tử" để chỉ nội dung bài giảng của giáo viên đã được số hoá,
được xây dựng bằng một chương trình phần mềm và thể hiện trên lớp với sự
hỗ trợ của máy vi tính và các thiết bị kĩ thuật nghe nhìn khác.



1
Như vậy, "Bài giảng điện tử” là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà
ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hoá do giáo
viên điều khiển thông qua môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra.
Thiết kế bài giảng điện tử chính là thiết kế một kế hoạch và giảng dạy
trên máy tính bằng những đoạn phim minh họa với hình ảnh, âm thanh sống
động, bài giảng của giáo viên có thể thu hút sự chú ý và tạo hứng thú nơi học
sinh. Ví dụ: Tiết lịch sử về chiến thắng Điện Biên Phủ có minh họa phim tư
liệu về cuộc chiến với đạn pháo, bom rơi, âm thanh rền trời , Tiết địa lý về
các ngành kinh tế công nghiệp, học sinh được xem hình ảnh sản xuất với
những âm thanh rộn ràng, tất bật ở nhà máy, xí nghiệp. Giờ học vẽ các con
vật, màn hình hiện ra cận cảnh những con vật với đủ loài, đủ màu sắc thì thú
vị biết bao Với những hình ảnh, âm thanh sống động như thế, khỏi phải nói
là các em hứng thú như thế nào. Không những thế, ngay cả giáo viên cũng
được “nhàn” hơn trong việc truyền đạt kiến thức.
Tuy nhiên, để có được một tiết học 35 - 40 phút như vậy, người giáo viên
phải vất vả gấp nhiều lần so với cách soạn giảng truyền thống. Thực tế cho
thấy, để chuẩn bị cho một bài giảng điện tử đạt mức chuẩn, giáo viên thường
phải bắt đầu từ ý tưởng bài giảng rồi mất đến hai ba ngày thiết kế mới hoàn
thành, đó là chưa kể đến việc phải thiết kế hình ảnh cho thích hợp trong bài
giảng. Ngoài kiến thức căn bản về tin học, sử dụng thành thạo phần mềm
PowerPoint, giáo viên còn cần có niềm đam mê thật sự với với việc thiết kế
vốn đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để “săn tìm” tư liệu từ
nhiều nguồn, chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt tay vào
thiết kế. Nếu sử dụng MS PowerPiont làm công cụ chính còn cần phải lưu ý
về Font chữ, màu chữ (Xanh(đen)- trắng, vàng/đỏ) và hiệu ứng thích hợp
(hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàn tránh gây mất tập trung vào nội dung bài giảng).
Nội dung bài giảng điện tử cần cô động, xúc tích, hình ảnh, các mô phỏng cần
sát chủ đề (trong 1 slide không nên có nhiều hình hay nhiều chữ), những nội

dung học sinh ghi bài cần có qui ước (có thể dùng khung hay màu nền) sẽ
khắc phục được việc ghi bài của học sinh; Nội dung bài giảng chứa nhiều liên


2
kết nhất là liên kết đến hệ thống câu hỏi để khắc phục những tình huống sư
phạm phát sinh (như nhắc lại kiến thức, lộ nội dung hay lố giờ “ cháy giáo
án”, … các liên kết này có thể đặt trong slide chủ), cần khai thác thế mạnh
của bài giảng điện tử trong kiểm tra đánh giá và kiểm chứng kết quả. (Củng
cố bài cần hướng đến các câu hỏi mang tính vận dụng hay các hình thức trắc
nghiệm). Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến
quá trình dạy học và sự phát triển của học sinh, công nghệ mô phỏng nếu
không phản ánh đúng nội dung, giá trị nghệ thuật và thực tế thì không nên sử
dụng, Chuẩn kiến thức ở mức độ vận dụng cần kết hợp bảng và sử dụng các
phương pháp dạy học khác mới có hiệu quả.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trong mấy năm gần đây và đặc biệt là từ năm học 2008-2009, khi Bộ
GD-ĐT chủ trương đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy thì phong trào
soạn bài giảng điện tử được giáo viên hưởng ứng một cách tích cực và đã
thành phong trào sôi nổi, rộng khắp. Các thầy, cô giáo khắp mọi miền đều
quyết tâm tự học, tự nghiên cứu để tiếp cận với phương pháp soạn, phương
pháp giảng bằng phương tiện điện tử với chương trình phần mềm Powerpoint.
Trong năm học 2009 - 2010, trường tiểu học Huỳnh Minh Thạnh được cấp
một máy chiếu phục vụ dạy-học kịp thời cho mùa hội giảng cấp trường và
cũng từ đó, các bài giảng điện tử được các thầy cô giáo trong nhà trường thể
hiện khá sôi động (39/44 tiết hội giảng được dạy trên máy chiếu). Năm học
2010-2011 hầu hết các tiết dạy hội giảng của trường đều được thực hiện trên
máy chiếu. Có nhiều tiết dạy rất hấp dẫn, thu hút được học sinh, học sinh rất
thích được học các giờ học có máy chiếu và tính tích cực, tự giác được các em
thể hiện qua các hoạt động trong tiết học. Tuy thế, vẫn còn không ít giáo viên

gặp khó khăn trong việc thiết kế bài giảng điện tử.
Trên đây là các lí do cốt lõi quan trọng nhất trong số nhiều lí do khác,
nó đã thúc đẩy tôi chọn: Đổi mới việc ứng CNTT trong giảng dạy qua việc
“thiết kế bài giảng điện tử” làm đề tài nghiên cứu của mình.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu


3
1. Mục đích :
- Đổi mới việc ứng dụng thành tựu khoa học tiên tiến, nhất là ứng dụng
công nghệ thông tin vào việc giảng dạy của mình để học sinh có được
kết quả học tập tốt nhất, cụ thể là thiết kế bài giảng điện tử.
- Mong muốn hoàn thiện bản thân và mong muốn với vốn hiểu biết ít ỏi
của mình có thể làm vơi đi những khó khăn của đồng nghiệp trong nhà
trường với việc thiết kế bài giảng điện tử.
2. Phương pháp nghiên cứu :
- Tự tìm hiểu thông tin từ sách (mua sách về tự học), từ mạng Intenrnet
(tải một số bài mẫu về nghiên cứu học hỏi), từ các đồng nghiệp (dự giờ
các giáo viên trong nhà trường), từ các tiết dạy mẫu của Bộ giáo dục
(xem băng).
- Tự thực hành thiết kế rồi giảng dạy và rút kinh nghiệm qua từng bài
dạy, qua sự tiếp thu bài của học sinh, qua sự góp ý của đồng nghiệp,
của Ban giám hiệu nhà trường khi dự giờ dạy của mình.
III. Giới hạn của đề tài
Nội dung nghiên cứu chính là “Thiết kế Bài giảng điện tử”.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng và những mâu thuẫn
1. Về mặt tích cực:
- Về chủ quan: hầu hết giáo viên trong nhà trường đều có máy vi tính,
có chứng chỉ A tin học trở lên, có tính ham học hỏi. Nhà trường có phòng

máy vi tính. Trong thời điểm hiện tại, nhà trường có một máy chiếu, Ban
giám hiệu nhà trường rất coi trọng và động viên giáo viên thiết kế bài giảng
điện tử để giảng dạy trong các tiết dạy chuyên đề, dạy hội gảng các cấp…Nhà
trường có tổ công nghệ thông tin với các thành viên nhiệt tình trong công
việc, có mạng Internet, có thư viện tài nguyên riêng của trường với đa dạng
thể loại tư liệu phục vụ cho việc thiết kế bài giảng điện tử của giáo viên (có ở
Website trường).


4
- Về khách quan: Công nghệ phần mềm phát triển mạnh, trong đó các
phần mềm giáo dục cũng đạt được những thành tựu đáng kể như: bộ Office,
Cabri, Crocodile, SketchPad/Geomaster SketchPad, Maple/Mathenatica,
ChemWin, LessonEditor/VioLet … hệ thống WWW, Elearning và các phần
mền đóng gói, tiện ích khác. Do sự phát triển của công nghệ thông tin và
truyền thông mà mọi người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá
trình dạy học nói chung và phần mềm thiết kế bài giảng điện tử nói riêng.
2. Về mặt bất cập :
Tuy việc thiết kế bài giảng điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc
dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì bài giảng điện tử cũng không thể
hỗ trợ người dạy hoàn toàn trong các bài giảng của mình. Nó chỉ thực sự hiệu
quả đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều
nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều
kiến thức mới, thì việc thiết kế theo giáo án điện tử sẽ tốt hơn cho giáo viên vì
tất cả nội dung bài học đó đủ trên một mặt giấy A4 và như vậy sẽ dễ dàng hơn
là phải lật lại từng “slide” như khi dạy trên máy chiếu. Mặt khác, kiến thức,
kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn còn hạn chế, chưa đủ
vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí nhiều giáo viên còn né tránh.
Mặt khác, nhà trường chỉ có một máy chiếu nên việc thiết kế bài giảng của
mỗi giáo viên là không thường xuyên. Và một điều quan trọng nữa là: để

thiết kế một bài dạy điện tử phải tốn nhiều thời gian, đầu tư nhiều trí tuệ của
người thiết kế ra nó.
II. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Để thiết kế thành công một bài giảng điện tử cần qua các bước như sau :
1. Cách làm:
 Bước 1: Chọn bài giảng hay phần bài giảng thích hợp
Xác định bài giảng hay phần bài giảng nào thích hợp cho việc thiết kế
bài giảng điện tử tùy thuộc đặc trưng của mỗi môn học. Gọi tên một vài loại
bài thích hợp với bài giảng điện tử cho tất cả các môn học là một điều khó.
Tuy nhiên, theo tôi, có ba điểm cơ bản để quyết định là nên thiết kế bài bằng


5
bài giảng điện tử hay không. Một là mong muốn của giáo viên tổ chức hoạt
động học tập tích cực bằng cách liên kết hình ảnh với lời nói một cách tự
nhiên, bằng cách vận dụng hình ảnh và ngôn từ cô đọng trên các slide Power
Point để khơi gợi, kích thích sự liên tưởng và tưởng tượng của học sinh. (Sự
liên tưởng và tưởng tượng có thể tạo ra nhiều cách thức suy nghĩ và nhiều
dạng hoạt động học tập). Hai là nội dung chủ yếu của bài dạy đòi hỏi phải mở
rộng và chứa đựng một số ý tưởng có thể khai thác thành các tình huống có
vấn đề. Ba là nguồn tư liệu hình ảnh phong phú liên quan đến nội dung bài
dạy sẵn có (có thể truy cập từ Internet hay các nguồn tài nguyên từ nhà
trường, các nguồn tài nguyên khác như băng đĩa ghi âm, ghi hình, phim ảnh…
và điều quan trọng là ý tưởng sẵn có trong kinh nghiệm của người biên soạn).
 Bước 2: Lập dàn ý trình bày
Đây là giai đoạn quan trọng nhất. Ở giai đoạn này, có ba nội dung chủ
yếu mà người thiết nhất thiết phải làm (lập kế hoạch trên Word). Thứ nhất là
phần kiến thức cốt lõi sẽ được trình bày một cách ngắn gọn và cô đọng. Hai là
các câu hỏi (kể cả các câu hỏi của phần kiểm tra bài cũ), hoạt động học tập và
bài tập học sinh cần thực hiện. Thứ ba là hình ảnh (tĩnh và động), âm thanh,

sơ đồ, bảng biểu… sẽ sử dụng để minh họa kiến thức hay để giúp học sinh
thực hiện hoạt động học tập. Thoạt đầu, giáo viên miêu tả các thành phần kiến
thức. Ở mỗi phần kiến thức nếu nảy ra câu hỏi, hình thức và nội dung hoạt
động nào giáo viên có thể ghi chèn vào. Việc hoạch định các hoạt động học
tập và bài tập có thể làm sau khi đã miêu tả các phần kiến thức cốt lõi hoặc
làm song song với phần ấy. Việc xác định và chọn lựa hình ảnh, âm thanh nên
thực hiện đồng thời với việc thiết kế các bài tập và hoạt động (nên ghi rõ phần
nào đưa ra trình chiếu). Theo kinh nghiệm của tôi, dàn ý nháp (kế hoạch trên
Word) càng rõ ràng thì việc biến nó thành bài giảng điện tử càng dễ thực hiện.
Tôi xin trình bày các việc cần làm cho một dàn ý dưới dạng các slide cụ thể:
Ví dụ: Sau khi xác định mục đích yếu cầu của bài dạy, GV tiến hành
soạn nháp: Slide 1: Các câu hỏi (bài tập, …) về bài cũ, tranh ảnh minh hoạ


6
cho việc kiểm tra bài cũ, đáp án (nếu cần thiết); Các câu hỏi hoặc phần lệnh
cho việc kiểm tra sự chuẩn bị bài mới ở nhà của HS (nếu cần).
Slide 2: Các hình ảnh dùng để kết hợp với lời giới thiệu bài mới của
GV(nếu cần có); tiêu đề cho HĐ
1
,Câu hỏi (hoặc lệnh hay bài tập, phiếu giao
việc, …) để khai thác HĐ này, các thông tin hoặc hoặc các tranh ảnh giúp HS
tìm hiểu nội dung HĐ
1
; Đáp án cho HĐ này .
Slide 3: Các hình ảnh dùng để kết hợp với lời chuyển ý sang HĐ mới
của GV(nếu cần có); tiêu đề cho HĐ
2
,Câu hỏi (hoặc lệnh hay bài tập, …) để
khai thác HĐ này, các thông tin hoặc hoặc các tranh ảnh giúp HS tìm hiểu

nội dung HĐ
2
; Đáp án cho HĐ này .
Slide 4, …: Thực hiện tương tự như các Slide trên.
Slide cuối là phần củng cố bài dạy, giao việc về nhà (HD làm bài ở
nhà, …):
- Phần củng cố cần đưa ra dự kiến: củng cố bằng hình thức nào: trò
chơi hay giải ô chữ hoặc trả lời các câu hỏi, ….Nếu là trò chơi cần chuẩn bị
sẵn kịch bản (hình thức ẩn dụ, đáp án), luật chơi, cách chơi; nếu là giải ô
chữ hoặc trả lời câu hỏi trực tiếp thì cần chuẩn câu hỏi, đáp án cho ô chữ
hoặc câu hỏi đã đưa ra.
- Phần giao việc về nhà (dặn dò): HD cho các việc đã giao về nhà của
HS (nếu cần).
Trong lúc hình thành dàn ý bài dạy dưới dạng các slide như thế này,
điều quan trọng là luôn luôn vạch ra được mối liên hệ hữu cơ về nội dung
giữa các slide. Nếu không chú ý điều này, bài giảng điện tử dễ trở thành một
tập các ảnh và chữ hơn là một bài giảng. Mặt khác, cần ghi rõ trong soạn
nháp: Khi nào thì trình chiếu, khi nào thì tắt đi để tổ chức thảo luận. Bài tập
về nhà (nếu có), yêu cầu khác, Mẫu báo cáo thí nghiệm; Kết quả cần đạt
được: Học sinh cần hiểu bài ra sao ).
 Bước 3: Tìm tư liệu văn bản, tư liệu hình ảnh, âm thanh và chuẩn bị
công cụ biên soạn (thiết kế)


7
Tư liệu có thể được tìm ở nhiều nguồn khác nhau: trong kho tài nguyên
nhà trường; trong sách báo, tạp chí rồi nhập vào máy tính bằng cách sử dụng
máy scanner và phần mềm Adobe Photoshop; trong các băng CD, VCD,
DVD, nhập vào máy tính bằng cách sử dụng các phần mềm ACDSee (xử lý
ảnh trên CD), Herosoft 3000 (cắt và làm phim), Hero Video Converter

(chuyển phim *DAT thành *MPG trước khi cắt và sử dụng); trên Internet;
trong thực tế bằng cách quay phim hay chụp ảnh kỹ thuật số rồi đưa vào máy
tính; do tự tạo bằng cách sử dụng phần mềm Flash (tạo hình ảnh động),
CorelDraw…. Ngoài ra, một số phần mềm chuyên dụng cho mỗi môn học
cũng phải được tính đến. Ví dụ như: MathType (soạn thảo văn bản Toán học),
hay phần mềm về cách biên soạn trắc nghiệm '2005 Summer Professional',
Violet, Trong quá trình sưu tập tư liệu hình ảnh, âm thanh, điều quan trọng
nhất là việc xác định mục đích học tập của từng hình ảnh hoặc ngữ liệu văn
bản mà chúng ta định đưa vào các slide. Nghĩa là giáo viên cần hình dung ra
những biện pháp - hoạt động giúp HS khai thác nội dung các tư liệu ấy thao
cách giúp các em suy nghĩ khám phá kiến thức mới hoặc luyện tập thực hành
kĩ năng học tập. Tuyệt đối tránh lối phô diễn hình ảnh đơn thuần. Mặt khác,
một số tư liệu hình ảnh, âm thanh nào đó của bài dạy có thể được thiết kế
thành một hoạt động chuẩn bị bài của học sinh. Về phương diện này, học sinh
sẽ được yêu cầu tìm chọn hình ảnh để minh hoạ cho một khía cạnh nội dung
trong bài học hoặc cần suy nghĩ và giải quyết để một vấn đề mà giáo viên
khơi gợi ra từ những hình ảnh nào đó. Một điều lưu ý là hình ảnh và âm thanh
đưa vào bài giảng nhất thiết phù hợp với mục tiêu học tập mà học sinh cần
đạt, hướng đến trọng tâm kiến thức của bài. Việc lạm dụng hoặc sự thiếu
chọn lọc hình ảnh, âm thanh trong khi biên soạn sẽ gây nhiễu cho quá trình
lĩnh hội kiến thức của học sinh. Cuối cùng, chúng ta nên nghĩ đến việc lưu trữ
và tổ chức hệ thống tư liệu để có thể sử dụng chúng lâu dài và cho việc thiết
kế những bài dạy khác về sau.
 Bước 4: Thiết kế bài giảng điện tử


8
Đây là một hoạt động đòi hỏi nhiều kỹ thuật sử dụng máy tính, đặc biệt
là phần mềm Power Point. Sau đây, tôi xin nêu một số mẹo để có thể thiết kế
một bài giảng điện tử nhanh và hiệu quả.

- Soạn một Slide nội dung thật hoàn chỉnh về mọi mặt: các Place holder,
Textbox, các Animation tùy ý (hiệu ứng), các Font chữ và cỡ chữ, màu nền,
màu ……Sau đó copy toàn bộ Slide này cho các trang sau, chỉ cần thay đổi
phần Text nội dung, tất cả các tùy ý chọn sẽ được giữ nguyên, không cần
chọn lại.
- Cài đặt các đường dẫn đặc biệt (liên kết) cho các câu hỏi để có thể linh
hoạt khi đặt câu hỏi hoặc trình bày minh hoạ cho bài giảng. Lúc cần, chúng ta
có thể tự quyết định có trình chiếu hay không trình chiếu, đặt câu hỏi hay không
đặt câu hỏi, tùy từng đối tượng học sinh, không cần phải phô diễn hết trên bài
giảng.
- Đặt các hình ảnh, âm thanh trên các chương trình song song, không
cần cắt chèn vào bài giảng, khi mở bài giảng ta có thể mở đồng thời các
chương trình này. Thao tác chèn thường mất nhiều thời gian và gây nhiều
biến động cho bài giảng khi chép đi chép lại. Lưu file giáo án dưới dạng Slide
Show để tránh mất thời gian khi phải mở từ đầu và chọn Slide Show cho từng
bài giảng. Trình chiếu xem thử (xem hết một lượt, chỗ nào không vừa ý thi
ghi chép lại để sau khi xem hết sẽ chỉnh sửa lại nhằm tránh các lỗi của các
liên kết giữa các Slide).
CÁCH LÀM:
1. SOẠN VĂN BẢN BÀI GIẢNG TRÊN TRÌNH WORD
- Văn bản bài giảng hiểu theo nghĩa là những nội dung kiến thức sẽ được
trình chiếu trong giờ dạy (Kênh chữ).
- Dựa vào nội dung kiến thức đó, HS có thể ghi bài được trong khi nghe
giảng và xem trình chiếu.
- Cần phân chia rõ từng phần văn bản sẽ đưa vào các Slide tương ứng.
- Mỗi Slide không nên chứa nhiều nội dung kiến thức .
- Nhưng cần chú ý thể hiện trọn vẹn một nội dung kiến thức trên mỗi Slide.


9

- Cần cân nhắc phần văn bản sẽ đưa vào các Slide có chèn hình ảnh, để khi
chèn hình ảnh được thuận lợi.
2. CHUYỂN CÁC PHẦN VĂN BẢN VÀO CÁC SLIDE
- Mở văn bản bài giảng Word. Đồng thời mở trình PowerPoint.
- Copy phần văn bản sẽ đưa vào Slide tương ứng.
- Mở trình PowerPoint để đưa văn bản vào Slide.
- Chú ý :
+ Cách tạo Slide mới: Insert \ New slide .
+ Cách tạo Slide hoàn toàn giống Slide trước đó: Insert \ Duplicate Slide.
3. TẠO NỀN CÁC SLIDE
Có nhiều cách để tạo nền Slide theo sở thích của người thiết kế. Sau
đây là các cách thông dụng:
- Sử dụng mẫu có sẵn của ppt: Format \ Slide Design.
- Sử dụng bảng màu: Mode Colors.
- Sử dụng các hình nền đã lưu trong máy tính.
Nếu sử dụng các hình nền đã lưu trong máy tính, ta cần chú ý chọn
màu cho Text Box và các hình phù hợp. Tốt nhất nên lấy các hình nền được
làm sẵn cho ppt. Nếu là ảnh cần dùng Photoshop để chỉnh sửa cho phù hợp
màu sắc.
4. CÁCH CHÈN MỘT ĐOẠN VIDEO VÀO SLIDE
- Insert \ Movies and Sounds \ Movie From File \ Chọn Video đã lưu trong
máy tính.
- Sau khi đã xuất hiện đoạn Video cần chèn trên Slide, Click Automatically để
đoạn Video tự chạy khi Slide được trình chiếu.
- Căn chỉnh độ rộng của Video và đưa nó về vị trí phù hợp trên Slide.
- Cần chú ý tỉ lệ chiều rộng, chiều cao của Video để khi trình chiếu hình ảnh
không bị méo mó.
MỘT SỐ LƯU Ý KHI CHÈN VIDEO VÀO SLIDE
- PowerPoint chỉ hỗ trợ chèn Video có định dạng (.mpg).
- Để chèn các video định dạng Flash, máy tính của ta cần cài đặt phần mềm

hỗ trợ chèn Flash vào PowerPoint.


10
- Phần mềm hỗ trợ này là Swiff Point Player, ta có thể chia sẻ cùng đồng
nghiệp hoặc vào Internet để tải về.
- Sau khi đã cài đặt phần mềm hỗ trợ chèn Flash, trên trình Insert sẽ xuất
hiện Flash Movie.
- Khi đó, muốn chèn các đoạn Video có định dạng Flash, ta thực hiện:
Insert \ Flash Movie \ (Chọn Video đã lưu trong máy tính ) Click
Automatically.
- Để chèn đoạn Video có định dạng flv, cần chuyển đổi Video đó sang định
dạng Flash hoặc mpg.
Phần mềm chuyển đổi dễ sử dụng và có hiệu quả là Total Video Converter.Ta
cũng có thể chia sẻ cùng đồng nghiệp hoặc vào Internet để tải về.
5. CHÈN ÂM THANH VÀO SLIDE
- Insert \ Movies and Sounds \ Sound From File \ (Chọn âm thanh đã lưu
trong máy tính) Click Automatically.
- Khi đã có âm thanh, trên slide xuất hiện hình chiếc loa.
- Nếu muốn giấu hình chiếc loa(khi trình chiếu) thì: Click chuột phải vào
hình chiếc loa\ Edit Sound Object\ Chọn Hide souns icon during Slide Show\
OK.
- Nếu âm thanh đã có định dạng mp3 thì tốt, nếu âm thanh là định dạng
(.wav), ta lại dùng Total Video Converter để chuyển đổi. (Mục đích chuyển
đổi định dạng âm thanh là để giảm dung lượng âm thanh và cũng chính là để
giảm dung lượng bài giảng của ta.)
6. TẠO HIỆU ỨNG CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG TRONG MỖI SLIDE
- Chọn đối tượng cần tạo hiệu ứng.
- Nếu đối tượng là chữ, chọn bằng cách bôi đen; nếu là công thức, hình ảnh,
Video thì chọn bằng cách Click để đối tượng xuất hiện khung bao quanh.

- Vào trình Slide Show trong các bảng chọn ở trên màn hình \ Chọn trình đơn
Custom Animation.
- Khi đó xuất hiện một bảng ở bên phải màn hình. Click Add Effect \ Entrance
\ Entrance, sẽ xuất hiện bảng các hiệu ứng xuất hiện của đối tượng.


11
- Nếu muốn chọn các hiệu ứng khác với các hiệu ứng có sẵn trong bảng , ta
tìm đến dòng cuối danh sách hiệu ứng, chọn Mode Effects.
-Lưu ý: Trong các hiệu ứng của Add Effect
Entrance = hiệu ứng xuất hiện
Emphasis = hiệu ứng tồn tại
Exit = hiệu ứng thoát (Mất đi) của các đối tượng.
Motion Paths = hiệu ứng hướng di chuyển của các đối tượng.
Ta lựa chọn hiệu ứng thích hợp cho đối tượng rồi Click vào.
7. TẠO HIỆU ỨNG CHUYỂN SLIDE
- Slide Show\ Slide Transitio \ Chọn hiệu ứng trong Apply to Selected Slides.
- Có thể đặt thời gian tự động chuyển Slide, cách làm như sau:
* Trong mục Advance Slide, ở bảng bên phải màn hình: Click Automatically
after \ Điền thời gian cần thiết vào ô phía dưới.
- Lưu ý: Trong một Slide không nên chọn nhiều hiệu ứng khác nhau cho các
đối tượng và cũng không nên chọn các hiệu ứng quá phức tạp vì vừa tốn thời
gian cho khâu thiết kế và cũng có thể gây rối mắt học sinh.
8. KIỂM TRA KẾT QUẢ
- Để kiểm tra kết quả toàn bàn bài, nhấn F5 trên bàn phím. Để kiểm tra trang
đang làm nhấn trỏ chuột vào biểu tượng máy chiếu ở góc dưới bên trái màn
hình, hoặc nhấn Slide Show ở góc dưới bên phải màn hình đang làm).
- Các biểu tượng nằm bên trái biểu tượng máy chiếu nói trên là chế độ hiển
thị các Slides mà ta đã thiết kế được.
- Khi đang kiểm tra, nếu cần chỉnh sửa nội dung nào, ta nhấn phím Esc trên

bàn phím để dừng trình chiếu, chọn Slides có nội dung cần chỉnh sửa để sửa.
 Bước 5: Đóng gói bài thiết kế
- Đây là một việc làm khá đơn giản nên nhiều đồng nghiệp đã bỏ qua bước
này và dẫn đến dở khóc dở cười khi bắt tay vào dạy (vì một số liên kết ở máy
này thì có nhưng sang máy khác lại không có là chuyện bình thường). Vì vậy,
khi đã hoàn chỉnh bài giảng, ta cần đưa chúng về chung một thư mục dạng
(Gồm: bài PowerPiont, các đoạn VideoClip, các bài hát, các đoạn băng
ghi âm, … được dùng thiết kế trong bài giảng.).


12
- Copy thư mục đó vào đĩa rồi mang đến lớp dạy, tôi đảm bảo với các thầy
cô tất cả mọi tư liệu với các liên kết các thầy cô đã làm luôn ổ định.
CÁCH LÀM:
- Mở File chứa bài giảng đã thiết kế xong. Vào File\ Package for CD \ Coppy
to Folder \ Browse. Bảng Choose hiện ra để mặc định lưu kết quả đóng gói
bài giảng vào My Documents. Nếu đồng ý, ta Click Cancel.
- Trong bảng Copy to Folder, ta Click OK và đợi máy chạy để hoàn tất việc
đóng gói bài giảng. Nếu khi đã Click OK mà máy không nhận lệnh, là do
trong thư mục định lưu đóng gói bài giảng này đã có File trùng tên với nó, ta
chỉ việc thêm vào tên của File cần lưu một ký tự bất kỳ hoặc đặt một tên khác.
- Khi máy chạy xong, Click Close để thoát.
- Kết quả bài giảng đã đóng gói của ta có tên mặc định là thư mục
PresentationCD. Ta nên đổi tên và chuyển về thư mục lưu trữ cho thuận lợi
khi sử dụng.
MỘT SỐ LƯU Ý
- Sau khi đóng gói bài giảng, ta có thể xuất ra File trình chiếu dạng (*.pps),
là dạng có thuận lợi khi trình chiếu hoặc chia sẻ với đồng nghiệp.
- Cách làm: Mở File chứa bài giảng đã thiết kế \ File \ Save As. Trong bảng
Save As, ở mục Save as type, Click PowerPoint Show (*.pps) \ Save.

2. Phần minh họa:
Trước hết là xác định bài giảng hay phần bài giảng nào thích hợp cho
việc thiết kế bài giảng điện tử tùy thuộc đặc trưng của mỗi môn học. Trên cơ
sở đó chia nhỏ nội dung kiến thức bài dạy thành các hoạt động theo trình tự
điều khiển tiết dạy. Soạn bài dạy trên giáo án bình thường (soạn nháp), dựa
vào mục tiêu của bài dạy và trình tự nội dung kiến thức cần truyền đạt, các
phương pháp cần sử dụng cho tiết dạy .
Soạn nháp:
Ví dụ: Bài dạy “ Đá vôi”:
+ HĐ
1
: -KT bài cũ :
* Hãy nêu tính chất của nhôm và hợp kim của nhôm?


13
* Nhôm và hợp kim của nhôm dùng để làm gì?
* Khi sử dụng đồ dùng bằng nhôm cần lưu ý những gì
- Giới thiệu tranh, ảnh về các hang động đá vôi mà mình sưu tầm được.
(KT sự chuẩn bị ờ nhà của HS).
-Giới thiệu vào bài mới (có kèm theo tranh đá vôi).
+HĐ
2
: Một số vùng núi đá vôi của nước ta
* Quan sát hình minh họa trang 54 SGK, đọc tên các vùng núi đá vôi đó.
(Tranh SGK)
* Em còn biết ở vùng nào của nước ta có nhiều đá vôi và núi đá vôi? (Tranh
các hang động đá vôi trên mọi miền tổ quốc)
Kết luận: Ở nước ta có nhiều vùng núi đá vôi, nhiều loại với những hang
động.

+HĐ
3
: Tính chất của đá vôi
۞ Thí nghiệm 1: Cọ xát 2 hòn đá vào nhau. Quan sát chỗ cọ xát của mỗi hòn
đá và nhận xét. (Hinh2 SGK, đá vôi, cá cuội (mỗi thứ vài 5 cục)
Kết luận: Đá vôi mềm hơn đá cuội.
۞ Thí nghiệm 2: Lấy giấm trong lọ, nhỏ vài giọt vào mỗi hòn đá đã dùng ở
thí nghiệm 1. Quan sát và mô tả hiện tượng xảy ra !
* Qua hai thí nghiệm trên, em thấy đá vôi có tính chất gì? (đá vôi, đ1 cuội ở
thí nghiệm 1, a-xít loãng (a-xít bình) 5 lọ nhỏ)
Kết luận: Đá vôi không cứng lắm. dưới tác dụng của a-xít thì đá vôi bị sủi
bọt.
+HĐ
4
: Ích lợi của đá vôi
* Đá vôi được dùng để làm gì? (tranh, ảnh trong SGK; tranh, ảnh sư tầm của
học sinh, của thầy về các tác dụng của đá vôi trong đời sống và trong sản
xuất)
Kết luận: Đá vôi dùng để lát đường, xây nhà, nung vôi, sản xuất xi măng,
làm phấn viết bảng, tạc tượng, …
+HĐ
5
: Kiểm tra nhận biết của HS về đá vôi (Củng cố)
* Muốn biết một hòn đá có phải là đá vôi hay không, em làm thế nào?


14
Muốn biết một hòn đá có phải là đá vôi hay không, em có thể cọ xát nó
vào một hòn đá khác hoặc nhỏ vài giọt giấm hoặc a-xít loãng.
Dựa trên mục tiêu và phương pháp thể hiện ở mỗi hoạt động, giáo

viên cần lựa chọn cách thể hiện trên máy, cách tiến hành tổ chức trên lớp.
Tìm , chọn phần mềm thích hợp, các tư liệu phục vụ bài dạy từ kho tài
nguyên nhà trường hoặc từ các nguồn khác để thực hiện. Tiến hành thiết kế
trên máy tính (chuyện nội dung cần trình chiếu vào từng Slide): Cần tiến
hành thiết kế từ HĐ
1
đến HĐ
n
, sử dụng tối đa các phần mềm, phần cứng, các
tài nguyên như văn bản, hình ảnh, mô hình, âm thanh, phim . . .mà mình đã
chuẩn bị). Quy định cách thức và tiến trình thể hiện cho từng hoạt động, chu
ý khi tiến hành đảm bảo chính xác phù hợp đúng lúc, đúng chỗ đủ thời gian
cho học sinh quan sát, tư duy, và ghi bài vẽ hình, tránh việc trình chiếu kết
quả trước đề bài sau, nội dung kiến thức không đúng trình tự lôgíc theo kết
cấu của bài học. Trình chiếu điều khiển thử nếu sai chưa hợp lí cần quay lại
các bước trên sửa chữa và hoàn thiện. Đóng gói sản phẩm ( bài giảng ) gồm :
Bài giảng điện tử và các phần mềm ứng dụng dùng cho thiết kế bài dạy, hoặc
tài nguyên âm thanh hình ảnh động, phim, văn bản, …
III. Hiệu quả áp dụng
Từ khi tôi đi học thay sách theo chương trình giảng dạy mới, tôi thấy
được các thầy cô bộ môn trình chiếu các bài giảng điện tử trên máy chiếu, tôi
đã ao ước mình sẽ thiết kế được ít nhất là một bài giảng điện tử và chính mình
dạy bài giảng đó. Để thực hiện mơ ước đó của mình, tôi đã tìm đến các đồng
nghiệp biết thiết kế bài giảng điện tử để học hỏi, tôi tìm và mua sách thiết kế
PowerPoint về xem và tôi tải một số bài mẫu từ mạng Internet về nghiên cứu,
thực hành: tôi đã copy ra một Folders mới sau đó gỡ tung nó ra, rồi làm lại,
đối chiếu với bản gốc, rút ra bài học cho mình và rồi tôi đã tự làm được. Lẽ
đương nhiên, tôi phải mất rất nhiều đêm mới thành công.
Bằng cách làm trên, với bản thân tôi việc thiết kế một bài dạy hay thiết kế
phần hỗ trợ cho một bài dạy có ứng dựng công nhệ thông tin bây giờ không

còn là chuyện khó khăn nữa. Cũng từ kinh nghiệm này, tôi đã và đang giúp


15
đỡ được nhiều đồng nghiệp trong việc hướng dẫn đồng nghiệp thiết kế bài
giảng điện tử và đã có những đồng nghiệp tự thiết kế rất thành công các tiết
dạy có ứng dụng công nghệ thông tin. Về bản thân, tôi vinh dự được nhà
trường chọn tham dự hội thi “ Thiết kế bài giảng có ứng dụng công nghệ
thông tin cấp huyện” và tôi đã giử bài thiết kế của mình về hội thi.
C. KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
Việc thiết kế bài giảng điện tử và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh
động hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương
pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra
ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút
được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua bài giảng điện tử, giáo
viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học
sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt
này của công nghệ thông tin nói chung và bài giảng điện tử nói riêng đã
nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy
và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người. Một bài giảng điện
tử với sự kết hợp của những hình ảnh vedeo, camera … với âm thanh, văn
bản, biểu đồ … được trình bày qua máy chiếu theo kịch bản vạch sẵn nhằm
đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan. Mặt khác, việc thiết kế
các bài giảng điện tử trong dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng
học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao
chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc, trò chép” như kiểu truyền thống, học
sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp
xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình mang tính
khoa học, phù hợp với thời hiện đại.

Tuy thế, thiết kế một bài giảng điện tử tốn kém hơn rất nhiều lần soạn
giảng bình thường, kể cả về thời gian, công sức, trí tuệ, … của thầy cô giáo.
II. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển
1. Bài học kinh nghiệm :


16
Khi thiết kế thiết kế một bài giảng điện tử ngoài các bước tiến hành như
tôi đã nêu ờ trên, các thầy cô cần lưu ý: Cũng như khi viết bảng, tên bài học,
các đề mục và các ý trọng tâm phải được giữ lại ở tất cả các slide. Tuy nhiên,
ở những slide trình bày các câu hỏi thảo luận, các ví dụ, bài tập giáo viên
có thể linh hoạt bỏ qua phần đó. Một điều cần lưu ý nữa trong khi thiết kế bài
giảng điện tử đó là nên hết sức thận trọng trong việc chọn lựa Font chữ theo
quy định (Times New Roman), màu chữ, cỡ chữ (thông thường chọn 28 là
vừa), màu nền của Slide và các hiệu ứng. Bất kỳ một sự lạm dụng hoặc sử
dụng không thích hợp cũng có thể trở thành "một con sâu" phá hỏng "cây giáo
án" của chúng ta. Nhiều giáo viên quá lạm dụng vào việc chạy chữ trên màn
hình trong khi có thể sử dụng bằng hình thức viết bảng hoặc nói. Màu chữ
trong bài phải phù hợp theo tên bài, tiêu đề, ý nhấn mạnh Một điều chắc
chắn nữa là giáo viên sau khi thiết kế xong bài dạy của mình phải thuộc “Kịch
bản” mà mình đã xây dựng. Và điều cuối cùng tôi muốn nói với các thầy cô
giáo đó là để có một bài dạy bằng bài giảng điện tử đạt yêu cầu cả về dạy và
học thì điều quan trọng nhất vẫn là ý tưởng của người giáo viên, về kịch bản
mà người giáo viên xây dựng mà không ai khác có thể làm hộ. Với các bài
giảng điện tử có sẵn trên mạng khi tải về, người dạy nếu không nghiên cứu kĩ
lưỡng sẽ không nhận ra được hết ẩn dụ (ý tưởng truyền đạt) của người thiết kế
và như vậy, tiết dạy sẽ không đạt được điều mà người dạy mong muốn. Còn
phần làm trên máy vi tính chỉ là một công đoạn có thể nhờ được và nếu có
thầy cô giáo nào chưa một lần thiết kế trình diễn thì tôi xin nói thật: chỉ cần
quan sát và làm cùng người làm hộ mình 1 đến 2 bài giảng điện tử là có thể tự

mình làm được.
2. Hướng phát triển :
Trường ta hiện đã có máy chiếu, có tổ công nghệ thông tin, có Website
với một kho tài nguyên tư liệu phục vụ cho soạn giảng, với sự khích lệ của
Ban giám hiệu nhà trường, sự ủng hộ nhiệt tình của Ban chấp hành công đoàn
trường, với yêu câu đổi mới phương pháp dạy học và với sự cần thiết phải
đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy, các thầy cô nên có kế hoạch thiết kế


17
bài giảng điện tử và đăng ký tiết dạy với bài giảng nhiều hơn nữa trong thời
gian tới. Vì nếu như trong thời gian tới, mỗi lớp có một máy chiếu thì chắc
chắn các bài giảng điện tử của thầy cô sẽ càng được ứng dụng tích cực hơn
chứ không chỉ dừng lại trong các tiết dạy chuyên đề, kiểm tra nội bộ hay hội
giảng như hiện nay. Và khi đó việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc
giảng dạy là lẽ tất nhiên mà mỗi giáo viên chúng ta phải làm.
Hiện nay, mỗi ngày thời đại tiến thêm một bước mới, công nghệ thông
tin đã lan tỏa khắp mọi vùng miền, mỗi giáo viên nên có những kiến thức cơ
bản về thiết kế bài giảng cho mình để học sinh của chúng ta theo kịp thời đại.
Với kinh nghiệm của mình, tôi sẽ ra sức giúp đỡ các đồng nghiệp trong
nhà trường, chia sẻ với bạn bè về kinh nghiệm về thiết kế bài giảng điện tử
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
III. Đề xuất
Trong thời gian tới nhà trường cần có nhiều hơn nữa các đợt bồi dưỡng
tin học ứng dụng cho giáo viên trong nhà tường nhất là việc bồi dưỡng thiết
kế bài giảng điện tử và nên thường xuyên có những cuộc thi thiết kế bài giảng
điện tử để tạo thêm điều kiện cho giáo viên nâng cao tay nghề trong soạn
giảng và để tăng thêm nguồn tài nguyên tư liệu giáo dục cho nhà trường.
Mỗi năm phòng giáo dục huyện nhà nên tổ chức thi thiết kế bài dạy có
ứng dụng công nghệ thông tin một lần cho giáo viên trong huyện tham gia.

Trên đây là vốn kinh nghiệm sư phạm ít ỏi trong thiết kế và thực dạy
với bài giảng điện tử của mình trong thời gian qua. Tôi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của lãnh đạo ngành, của các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Phước Bửu, ngày 20.02.2011
Xác nhận của Hội đồng khoa học trường Người viết
………………………………………….
………………………………………….
………………………………………….
Trịnh Đăng Ninh


18

×