Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.36 KB, 20 trang )

SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
MỤC LỤC Trang
Mục lục
Tài liệu tham khảo
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
2. Thực trạng.
3. Nguyên nhân của thực trạng trên.
4. Giải pháp thực hiện.
4.1. Thành lập đội tuyển.
4.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển một
cách khoa học, đúng hướng và có hiệu quả.
4.3. Coi trọng khâu ra đề, đáp án và chấm chữa, rèn luyện kỹ năng làm bài
cho học sinh.
4.4. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng.
4.5. Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học
sinh.
4.6. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ cho học sinh.
4.7. Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
IV. KẾT LUẬN
V. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
2
3
4
4


4
4
5
5
5
6
6
6
8
11
17
17
18
18
19
20
21
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
2
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Quy chế chọn Học sinh giỏi, Nxb Giáo dục, 1997.
2. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Sách giáo khoa GDCD lớp 8,9 Nxb Giáo dục, 2008.
3. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Sách GDCD (sách giáo viên), Nxb Giáo dục, 2006.
4. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn GDCD lớp 8,9
5. Nghị quyết Trung Ương 2 – khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004.
6. Bài tập tình huống GDCD 8,9, Nxb Giáo dục, 2009.
7 Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, NXb Chính trị Quốc gia,
2006.

8. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, NXb Chính trị Quốc gia,
2010.
9. Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 8,9 Nxb Giáo dục, 2008.
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
3
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đảng ta xem việc chọn nhân tài, bồi dưỡng nhân tài là một phần quan träng
trong quốc sách phát triển con người, điều đó được thể hiện qua việc chỉ đạo dạy và
học trong các nhà trường. Nghị quyết TW2 khoá VIII đã chỉ rõ: “Việc bồi dưỡng
học sinh giỏi là nguồn nhân tài cho đất nước được các nhà trường THPT đặc biệt
quan tâm và mọi giáo viên phổ thông đều có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi”. Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi và thi học sinh giỏi nhằm: “Động
viên khích lệ những học sinh và giáo viên trong dạy và học, góp phần thúc đẩy việc
cải tiến, nâng cao chất luợng giáo dục, đồng thời phát hiện học sinh có năng khiếu
để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước”
(Điều 1 – Quy chế thi chọn học sinh giỏi ban hành theo quyết định 3479/1997/QĐ-
BGD&ĐT ngày 01/11/1997). Như vây, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề
cần thiết và cấp bách, bởi vì hơn lúc nào hết đất nước đang cần những con người tài
năng đón đầu tiếp thu những thành tựu khoa học mới, công nghệ hiện đại để phát
minh ra những sáng kiến đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập đất nước
hiện nay. Bồi dưỡng học sinh giỏi ở bậc THCS là phát huy hết khả năng phát triển
“tiềm tàng” của học sinh, là tạo nguồn học sinh giỏi cho các cấp học tiếp theo, thực
hiện chiến lược “bồi dưỡng nhân tài cho đất nước”. Mặt khác, kết quả bồi dưỡng
học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá năng lực chuyên môn của
giáo viên và sự phát triển của các nhà trường, mỗi học sinh giỏi không chỉ là niềm
tự hào của cha mẹ, các thầy cô giáo mà còn là niệm tự hào của cả cộng đồng. Tuy
nhiên thực tế nhiều năm trước đây, việc bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và bộ

môn GDCD nói riêng ở trường THCS Thanh Thùy chưa đạt được kết quả như
mong muốn.
Với những lý do như trên, tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THCS”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Học sinh lớp 9 trường THCS Thanh Thùy - Xã Thanh Thùy - Huyện
Thanh Oại - Thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Chương trình GDCD khối THCS.
3. Phương pháp nghiên cứu.
- So sánh - đối chiếu.
- Phân tích - tổng hợp.
- Thống kê - phân loại.
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
4
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Trong trường THCS, GDCD là một trong những môn học trang bị cho học
sinh những phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống nhân cách cho học sinh, hình
thành ở thế hệ trẻ hệ thống giá trị chuẩn mực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã
hội.
Để có kết quả cao trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, một trong những
việc cần làm là trang bị cho học sinh nắm vững những kiến thức của chương trình
GDCD cấp THCS, đặc biệt là những kiến thức trong chương trình lớp 8 và lớp 9.
2. Thực trạng của vấn đề.
Tuy nhiên, hiện nay công tác thành lập và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi
môn GDCD còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vì lâu nay trong quan niệm của không ít
phụ huynh và học sinh thì môn GDCD vẫn bị coi là “môn phụ”, không thi Tốt
nghiệp, không thi Đại học nên hầu như học sinh không có sự đầu tư cho môn học

này.
Thực tế đã có em định tham gia đội tuyển nhưng bố mẹ không nhiệt tình và thậm
chí không muốn con mình dự thi đội tuyển học sinh giỏi - nhất là đội tuyển môn
GDCD vì họ cho rằng: Học và thi để làm gì, chỉ mất thời gian vô ích! Một số học
sinh đã tâm sự với tôi: “Cô ơi, bố mẹ em chỉ cho thi các môn theo khối thôi kể cả
không có giải, chứ thi môn GDCD thì bố mẹ em không đồng ý cô ạ”. Có một số
phụ huynh đã đến tận nhà giáo viên để xin cho các em được nghỉ học đội tuyển với
lý do: Bản thân các em không đủ sức khoẻ hoặc vì các lý do khác Tôi biết những
lý do đó chưa phải là sự thật, dù rất buồn và đôi khi hơi nản nhưng tôi cũng không
thể thay đổi được quyết định đó của các em và gia đình.
Chính thực tế trên đã không những làm giảm lòng nhiệt tình, tâm huyết và sự
đam mê của giáo viên dạy GDCD nói chung và giáo viên bồi dưỡng đội tuyển nói
riêng mà còn ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, sự tự tin của một số rất ít học sinh sẽ
tham gia đội tuyển. Vì các em sợ bị coi thường và thậm chí còn thấy ngại vì phải thi
GDCD!
Cách đây nhiều năm, cũng giống như đa số các trường THCS trong toàn
huyện, mặc dù Ban giám hiệu trường THCS Thanh Thùy rất quan tâm đến công tác
bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, nhưng kết quả của môn GDCD hàng năm không
cao, có năm không có giải. Thông thường bước vào năm học lớp 9, đến lúc gần thi -
cuối học kỳ I, mới chính thức thành lập đội tuyển môn GDCD. Vì thế giáo viên phụ
trách trực tiếp lên kế hoạch phụ đạo cho các em một số buổi để đi thi Từ thực tế
trên, Ban giám hiệu trường đã thay đổi cách chỉ đạo, không để cho việc bồi dưỡng
tự phát trong giáo viên, học sinh mà giao khoán hẳn cho giáo viên có kế họach chọn
đội tuyển ngay từ đầu năm học lớp 9. Với cách làm này chất luợng và số lượng đã
có thay đổi nhưng kết quả đạt được còn rất hạn chế, không đạt chỉ tiêu và đặc biệt
không có giải cao.
*. Kết quả của thực trạng trên:
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
5

SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
2000 – 2001 1
2001- 2002 2
2003 – 2004 1
2004 – 2005 0
2005 – 2006 2
3. Nguyên nhân của thực trạng trên.
a. Đối với người dạy:
Đa số giáo viên nhiệt tình, tận tâm với công tác giảng dạy, nhưng vẫn còn
một số hạn chế như sau:
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với học sinh vì đa phần giáo viên
dạy chéo chuyên môn.
- Chưa sử dụng có hiệu quả phương tiện và đồ dùng dạy học.
- Còn xem nhẹ môn GDCD.
b. Đối với người học:
- Học sinh còn chưa chăm học.
- Tâm lí còn chủ quan, xem nhẹ môn GDCD.
4. Giải pháp.
Bản thân tôi bắt đầu được Ban giám hiệu phân công dạy GDCD khối 9 từ
năm học 2006- 2007 liên tục cho đến nay đã được 7 năm vào nghành. Đứng trước
thực tế đó, tôi luôn trăn trở để trả lời câu hỏi: Cần phải làm gì và làm như thế nào
để nâng cao chất lượng và hiệu quả đội tuyển HSG môn GDCD của nhà trường?
Trong quá trình thực hiện tôi chú trọng vào các giải pháp cơ bản sau đây:
4.1. Thành lập đội tuyển:
a. Phát hiện, lựa chọn và tổ chức thành lập đội tuyển HSG môn GDCD:
Phát hiện, lựa chọn và tổ chức thành lập đội tuyển HSG môn GDCD là một
khâu rất quan trọng. là một khâu rất quan trọng. Châm ngôn có câu: “Có bột mới
gột nên hồ”. Quả đúng như vậy, trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi người thầy
đóng vai trò quan trọng nhưng học sinh là yếu tố quyết định sự thành công. Thông
thường những em có tố chất thông minh, học lực khá - giỏi bao giờ cũng đăng ký

vào đội tuyển các môn học theo khối như: Toán, lý, hoá, sinh, văn, sử, địa, ngoại
ngữ… rồi cuối cùng mới đến GDCD. Đó cũng là điều dễ hiểu. Ngoài ra xu thế hiện
nay, học sinh học theo ban xã hội ngày càng ít và thậm chí không có. Vậy làm thế
nào để học sinh say mê, thích học môn GDCD? Điểm xuất phát phải bắt đầu từ
người thầy. Thầy phải thực sự coi bộ môn mình dạy như cái nghiệp của mình để
chuyên tâm gắn bó và sáng tạo không ngừng. Ngoài năng lực truyền thụ tri thức lí
luận khoa học, thầy phải nhập vai là minh chứng sống động trong thực tiễn để học
sinh thấy được sự thú vị cũng như ý nghĩa của bộ môn có tính định hướng và tính
giáo dục cao. Niềm say mê ấy phải được bộc lộ qua từng bài giảng, trong từng câu
chuyện đời thường và giải quyết những tình huống xảy ra trong thực tế cuộc sống.
Vì thế tôi nhận thấy, giáo viên dạy đội tuyển môn GDCD phải là người
truyền được “lửa” cho học sinh. Tức là phải khơi dậy ở các em sự yêu thích môn
học, niềm tin và lòng say mê để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn và
có quyết tâm thi đạt kết quả cao. Có thể nói, đây là khâu quan trọng nhất tác động
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
6
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
đến tâm lý học sinh thực sự có hiệu quả vì nó quyết định việc các em sẽ học và thi
như thế nào. Để làm được điều này, theo tôi giáo viên vừa đóng vai trò là người
thầy đồng thời cũng là người bạn lớn của các em, để phân tích và chỉ ra cho các em
thấy được những lợi thế khi tham gia đội tuyển học sinh giỏi. Đó chính là phương
pháp học như thế nào để nhớ nhanh, nhớ kỹ và nhớ chính xác nhất. Điều này đặc
biệt quan trọng và cần thiết đối với kiến thức các môn xã hội. Ngoài ra, còn giúp
các em kỹ năng xác định đề, phân tích đề, khả năng lập luận tư duy, vận dụng kiến
thức để giải quyết vấn đề trong các môn khoa học tự nhiên. Và điều quan trọng hơn
đó là các em được trải nghiệm phương pháp học tập cũng như tâm lý khi bước vào
kỳ thi, từ đó có sự điều chỉnh bổ sung phù hợp kịp thời…
Ngoài phương pháp truyền thống là cho học sinh tự đăng ký, qua từng tiết học,
từng bài kiểm tra đánh giá, giáo viên cần phát hiện những học sinh có khả năng

trình bày bài, khả năng vận dụng và giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống và
thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn giới thiệu để lựa chọn, động viên
các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp trường tạo nguồn đội tuyển học sinh
giỏi cấp huyện. Vì thế, có những em học lực còn rất hạn chế, song các em cũng
hăng hái đăng ký dự thi với mong muốn được học hỏi nhiều hơn. Kết quả là số
luợng học sinh đăng ký ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm học
2008-2009 là 5 em, năm học 2009-2010 là 7 em, năm học 2010-2011 là 8 em… Từ
nguồn học sinh như trên, sau khi thi học sinh giỏi cấp trường tôi tiến hành lựa chọn
danh sách đội tuyển, theo thang điểm từ cao xuống thấp và lấy từ 5 -> 10 em.
Ngoài ra, trong quá trình bồi dưỡng tôi còn tiếp tục thi khảo sát ít nhất hai
lần để đánh giá chính xác khả năng của từng em. Từ đó có thể lấy bổ sung thêm
hoặc loại bớt một số em không tiến bộ trong đội tuyển.
Như vậy, để chọn đội tuyển một cách hiệu quả cần thực hiện tốt các bước sau
đây:
Bước 1: Giúp học sinh hiểu, nhận thức đúng về vai trò của bộ môn và lợi thế khi
tham gia đội tuyển.
Bước 2: Lập danh sách dự tuyển, động viên khích lệ học sinh tham gia dự thi.
Bước 3: Thi tuyển theo kế hoạch chung của nhà trường để lập danh sách
Với những phương pháp như trên tôi đã động viên được nhiều học sinh tham
gia dự thi và chọn được những em có lực học khá …khác với trước đây phải bắt
buộc các em mới đi thi. Có thể nói, đó là niềm động viên rất lớn đối với giáo viên
trực tiếp giảng dạy môn GDCD trong điều kiện hiện nay.
Tuy nhiên để làm được điều đó, trước hết đòi hỏi người giáo viên phải thực
sự nhiệt tình, tâm huyết trong giảng dạy và điều quan trọng hơn đó là tính bền bỉ,
kiên trì, không lùi bước trước khó khăn để thuyết phục và khích lệ được các em tự
nguyện tự giác tham gia. Giáo viên phải là người có uy tín với học sinh được các
em tin tưởng quý mến. Ngoài ra, kết quả thi đội tuyển đã đạt được của những năm
trước chính là minh chứng để củng cố niềm tin đó với đồng nghiệp, học sinh và phụ
huynh trong những năm học tiếp theo.
b. Giúp đỡ, động viên khích lệ các em trong đội tuyển thường xuyên, kịp thời:

Do số học sinh trong đội tuyển phân tán ở nhiều lớp khác nhau, lịch học
thêm của các em thường lệch nhau, cho nên để chọn được 1 buổi không trùng với
lịch học của tất cả các em là điều rất khó khăn. Trước đây, để đảm bảo cho các em
không phải nghỉ học các môn khác, tôi đã chọn phương án là dạy vào các buổi chập
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
7
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
tối (khoảng từ 16h30 -> 17h30). Đối với các em đây là khoảng thời gian không học
thêm ca nào, nên sau khi học xong các môn khác các em ở lại học tiếp. Dù bụng đói
và rất mệt nhưng các em vẫn tham gia với tinh thần rất vui vẻ và hào hứng. Chính
điều đó đã làm tôi thực sự cảm động và là động lực giúp tôi kiên trì quyết tâm hơn,
vượt thoát khỏi tâm lý tự ti để khẳng định sự bình đẳng giữa môn GDCD với các bộ
môn khác và với mong muốn làm được điều mà mình tâm huyết. Có nhiều hôm
trong giờ nghỉ giải lao tôi đã mua bánh mỳ, bánh quy … để cô trò cùng ăn cho đỡ
đói. Thấy vậy, một số em định góp tiền để tự mua nhưng tôi không đồng ý. Và để
các em không thể thực hiện được ý định đó, những lần sau tôi thường đưa ra các lý
do đại loại như: “Hôm nay có có tin vui nên khao các em”…
Thấu hiểu những khó khăn đó bước sang năm học 2010-2011, Ban Giám hiệu
nhà trường đã lên thời khoá biểu cho các đội tuyển được học vào các buổi sáng chủ
nhật hàng tuần. Trong các buổi dạy, lãnh đạo nhà trường thường xuyên quan tâm,
xuống lớp trao đổi động viên cả thầy và trò. Điều đó đã tạo thêm động lực, niềm tin
cho chúng tôi nỗ lực cố gắng nhiều hơn.
Trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên phải thực sự là người có “Tâm” với học
sinh đội tuyển của mình. Sự quan tâm đó không chỉ dừng lại ở thái độ, lời nói, kiến
thức, kinh nghiệm truyền đạt cho các em mà còn bằng tất cả tấm lòng, không đơn
thuần là tình thầy trò mà như một người thân thực sự của các em. Vì thế, các em sẵn
sàng chia sẻ với tôi về mọi vấn đề trong cuộc sống.
4.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển một cách
khoa học, đúng hướng và có hiệu quả:

Để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, trước hết giáo viên phải lập
được kế hoạch tổng thể, có được “chương trình khung” và kế hoạch cho từng giai
đoạn. Chẳng hạn, trong năm học kế hoạch là 20 buổi dạy thì giáo viên phải cụ thể
hoá về thời gian, nội dung ôn luyện, từ đó giúp học sinh hiểu, định hình được
những việc cần làm để các em chủ động hơn trong quá trình ôn tập kiến thức cũ và
lĩnh hội tri thức mới. Đồng thời qua đó các em sẽ thấy được tầm quan trọng của
việc nắm vững kiến thức trọng tâm trong mỗi bài, mỗi phần và mỗi chương trình
cũng như toàn cấp. Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi trên
cơ sở những kiến thức cơ bản, xác định rõ mục đích yêu cầu cần bồi dưỡng về kiến
thức, kỹ năng, phát triển tư duy cho học sinh giỏi. Hệ thống hoá kiến thức và mở
rộng kiến thức trong các buổi dạy là điều rất quan trọng. Tuy nhiên không có nghĩa
là dạy lại kiến thức một cách đơn thuần mà giáo viên phải hệ thống kiến thức theo
từng chủ đề cụ thể. Chẳng hạn: Khi ôn thi đội tuyển HSG của mình, tôi chia ra 2 nội
dung cơ bản là phần pháp luật (Kì II lớp 8) và phần đạo đức (Kì I lớp 9). Trong đó
phần pháp luật tôi lại chia ra các chủ đề nhỏ như:
- Chủ đề I: Quyền và nghĩa vụ công dân về trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ môi
trường và tài nguyên thiên nhiên.
+ Phòng chống tệ nạn xã hội
+ Phòng chống nhiễm HIV/AIDS
+ Phòng ngừa tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất độc hại.
- Chủ đề II: Quyền, nghĩa vụ công dân về văn hoá, giáo dục và kinh tế
+ Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác
+ Nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ tài sản nhà nước và lợi ích công cộng
- Chủ đề III: Các quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
8
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
+ Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.
+ Quyền tự do ngôn luận

- Chủ đề IV: Nhà nước CHXHCNVN.
+ Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam.
+ Pháp luật nước cộng hoà xã hôị chủ nghĩa việt nam
Mục tiêu chính của việc bồi dưỡng học sinh giỏi là giúp các em trở thành
người kiến tạo tri thức thay vì là những người sử dụng tri thức. Ôn tập đến đâu,
kiểm tra đến đó. Khi ôn tập lý thuyết bao giờ cũng gắn với bài tập vận dụng bằng
hình thức bài tập trắc nghiệm giải thích hoặc bài tập tình huống để học sinh làm
quen với kỹ năng vận dụng lí luận vào thực tiễn đồng thời có thể lý giải các hiện
tượng trong tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, khi dạy chủ đề I,
ôn bài Phòng chống nhiễm HIV/AIDS, sau khi ôn lí thuyết, tôi cho học sinh
làm một số câu hỏi sau:
Câu 1: Để phòng chống HIV/AIDS, Pháp luật nước ta quy định như thế nào? Mỗi
học sinh cần phải làm gì để phòng chống nhiễm HIV/ AIDS.
Trả lời:
- Để phòng chống HIV/ AIDS, Pháp luật nước ta quy định:
+ Mọi người có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng, chống việc lây truyền
HIV/AIDS để bảo vệ cho mình, cho gia đình, cho xã hội; tham gia các hoạt động
phòng, chống HIV/ AIDS.
+ Nghiêm cấm các hành vi mua dâm, bán dâm, tiêm chích ma tuý và các hành vi
làm lây truyền HIV/ AIDS khác.
+ Người bị nhiễm HIV/ AIDS có quyền được giữ bí mật về tình trạng bệnh của
mình, không bị phân biệt đối xử, nhưng phải thực hiện việc phòng, chống lây truyền
bệnh để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
- Mỗi chúng ta cần phải có đầy đủ hiểu biết về HIV/ AIDS để chủ động phòng,
chống; không phân biệt đối xử với những người nhiễm HIV/ AIDS; tham gia tích
cực phong trào phòng, chống HIV/ AIDS.
Câu 2: Tình huống:
Cô V nói với chồng:
- “ Ôi sợ quá, em nghe nói nước ta có nhiều trẻ em bị nhiễm HIV/ AIDS lắm!”.
Chồng cô cãi:

- Vớ vẩn! Làm gì có chuyện trẻ em lại mắc cái bệnh của người lớn! Em có biết
bệnh này làm sao mà bị lây nhiễm không? Này nhé:
+ Thứ nhất là lây theo đường tình dục.
+ Thứ hai là nghiện ma tuý tiêm chích chung bơm kim tiêm với người nhiễm
HIV. Còn trẻ em có làm những việc đó đâu mà bị.
Cô V thấy chồng nói có lí, mà thực ra cô cũng chưa hiểu rõ thế nào là HIV và
AIDS cho nên không cãi nhưng trong lòng rất băn khoăn.
Anh ( Chị) hãy giúp cô V giải toả những băn khoăn trên nhé.
Trả lời:
a. HIV: là tên của một loại vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người
b. AIDS: là giai đoạn cuối của sự nhiễm hIV, thể hiện triệu chứng của các bệnh
khác nhau, đe doạ tính mạng con người.
c. HIV lây nhiễm qua 3 con đường
- Đường tình dục - Đường máu - Mẹ sang con
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
9
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
* Vì thế trẻ em cũng có thể bị nhiễm HIV.
Ôn bài: Chí công vô tư: Tôi cho Học sinh làm những câu hỏi sau:
Câu 1. Thế nào là chí công vô tư? Hãy nêu ví dụ về một việc làm thể hiện chí công
vô tư.
Trả lời:
- Chí công vô tư là phẩm chất đạo đức của con người, thể hiện ở sự công bằng,
không thiên vị, giải quyết công việc theo lẽ phải, xuất phát từ lợi ích chung và đặt
lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân.
- Nêu một ví dụ, có thể là: Một người cán bộ lãnh đạo biết lắng nghe và tiếp thu ý
kiến phê bình của cán bộ cấp dưới để cải tiến công tác lãnh đạo được tốt hơn; một
học sinh không vì cảm tình riêng mà bỏ qua hoặc che dấu khuyết điểm cho bạn;
một người dân hiến đất của gia đình để xây trường học cho trẻ em;

Câu 2. Có ý kiến cho rằng chỉ người lớn, nhất là những người có chức có quyền
mới phải rèn luyện phẩm chất chí công vô tư, học sinh còn nhỏ không có điều kiện
để rèn luyện phẩm chất đó.
Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
Trả lời:
Không tán thành ý kiến đó, vì phẩm chất chí công vô tư thể hiện trong cuộc sống
hằng ngày và ai cũng phải rèn luyện và thực hiện. Học sinh có thể thực hiện như:
tích cực tham gia các hoạt động của tập thể, không bao che cho những việc làm sai
trái, bảo vệ lẽ phải, công bằng khi nhận xét, đánh giá người khác
Câu 3. Lan và Hoà là đôi bạn thân. Hôm nay Lan là cờ đỏ, Lan đi kiểm tra sự chuẩn
bị bài tập của các bạn. Hoà làm thiếu bài tập, nhưng Lan lại báo cáo với lớp là Hoà
làm bài đủ.
Em hãy nhận xét hành vi của Lan.
Nếu là Lan, em sẽ cư xử như thế nào?
Trả lời:
- Hành vi của Lan là thiếu trung thực và không chí công vô tư vì chỉ xuất phát từ
tình cảm riêng, không vì lợi ích chung của cả lớp. Việc làm đó là thiên vị, không
công bằng, không tôn trọng lẽ phải.
- Nêu cách ứng xử: Nếu ở địa vị Lan, em sẽ báo cáo trung thực về thiếu sót của Hoà
và sau đó sẽ gặp Hoà để tìm hiểu nguyên nhân, giải thích lý do vì sao em phải báo
cáo đúng sự thật để Hoà hiểu và thông cảm, góp ý và động viên Hoà cố gắng sửa
chữa thiếu sót.
Câu 4. Hành vi nào dưới đây thể hiện chí công vô tư ?
A. Trong các cuộc bình bầu, Hậu hay bỏ phiếu cho những bạn chơi thân với mình.
B. Hiền chỉ chăm lo việc học của mình, còn các công việc của lớp thì không quan
tâm.
C. Hôm nay đến lớp thấy đã muộn mà chưa có ai làm vệ sinh lớp học, An tự quét
dọn lớp để kịp giờ vào học.
D. Vinh hay bao che khuyết điểm cho Nhân vì Nhân hay cho Vinh nhìn bài khi
kiểm tra.

Câu 5. Những biểu hiện dưới đây là chí công vô tư hay không chí công vô tư ?
(đánh dấu X vào ô tương ứng)
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
10
SKKN: Mt s kinh nghim trong cụng tỏc bi dng HSG GDCD trng THCS
Biu hin Chớ cụng
vụ t
Khụng
CCVT
A. Khụng vỡ tỡnh cm riờng hoc vỡ danh li m i x
thiờn lch.
B. Cú thỏi vụ t, khỏch quan khi ỏnh giỏ ngi khỏc.
C. Ba phi, ai núi th no, lm th no cng cho l ỳng,
l c.
D. u tranh chng nhng biu hin cỏ nhõn, thu vộn cho
riờng mỡnh.
E. Li dng chc quyn thu li cho cỏ nhõn mỡnh.
G. Coi trng li ớch chung hn li ớch cỏ nhõn mỡnh.
H. B qua cho nhng vic lm sai trỏi c li.
4.3. Coi trng khõu ra , ra ỏp ỏn, chm cha v rốn luyn k nng lm bi
cho hc sinh
a. Ra v ỏp ỏn
rốn luyn k nng lm bi cho hc sinh, giỏo viờn cn hiu õy l mt
cụng vic khụng d, ũi hi nhiu thi gian cụng sc ca c thy v trũ mi em li
kt nh mong mun. vic luyn tp cú hiu qu v hc sinh khụng thy chỏn, tụi
ó chun b ngun , nh sau :
- Cỏc thi hc sinh gii cỏc nm trc.
- thi hc sinh gii cỏc tnh khỏc su tm qua ng nghip hoc truy cp trờn
mng.

- tụi son cho cỏc em t cỏc ngun t liu v bỏm sỏt SGK, theo cu trỳc nh
lng gia chng trỡnh lp 8 v lp 9 mt cỏch hp lý.
- Mun cú ngun t liu ú, trong nhiu nm qua tụi phi su tm ti liu, bo qun
cú h thng cỏc thi, cỏc kin thc mi trong mi thi v cỏc ni dung khỏc
minh thu thp c qua ng nghip, qua cỏc t tp hun, úng thnh tp lu tr
to ngun t liu cho bn thõn.
Trong quỏ trỡnh thc hin tụi luụn chỳ ý cỏch ra sao cho cú hiu qu v
gõy c hng thỳ cho hc sinh. Mi thi u ph khp kin thc ca chng
trỡnh ó hc v cú cu trỳc nh mt thi chớnh thc. Cỏc bi tp tỡnh hung v cõu
hi m bo 3 mc : nh; hiu v vn dng. Trong quỏ trỡnh thc hin, cn
hiu tõm lý hc sinh l nu ra khụng hay thỡ hc sinh s khụng thớch lm v
chỏn. Vỡ vy, giỏo viờn phi cú u t thc s cho vic ra . õy l mt s tụi
ra cho hc sinh:
BI:
Câu 1. (1,5 điểm)
Nêu khái niệm pháp luật và kỷ luật. Pháp luật và kỷ luật có mối quan hệ với
nhau nh thế nào?
Câu 2 (2,5điểm)
Tại sao Hiến pháp 1992 khẳng định: Bản chất nhà nớc ta là nhà nớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân? So sánh sự khác nhau về bản chất
nh nớc ta với một nhà nớc khác mà em biết.
Câu 3. (2 điểm)
Ngi thc hin: Th Phng Lan Trng THCS Thanh
Thựy
11
SKKN: Mt s kinh nghim trong cụng tỏc bi dng HSG GDCD trng THCS
Chứng kiến cảnh một bạn gái 14 tuổi đi làm thuê thờng bị chủ nhà hàng đánh
đập, Hoa rất thơng bạn nên có ý định tố cáo hành động đó với cơ quan công an nhng
Hà can ngăn và nói: Hãy nhờ bố mẹ đi báo với công an, chúng mình còn nhỏ làm gì
có quyền đợc tố cáo ngời khác.

a, Em đồng tình với ý kiến bạn Hà không? Vì sao?
b, Nêu những điểm khác nhau cơ bản giữa quyền khiếu nại và quyền tố cáo.
Câu 4.(2.0điểm ).
An và Bình tranh luận với nhau về chủ đề: Quyền tự do ngôn luận của công
dân.
- An cho rằng : Tự do ngôn luận nghĩa là muốn nói gì là tuỳ ý thích của mình.
- Bình phản đối : Cậu nói thế không đợc. Tự do cũng phải tuân theo kỉ luật và
pháp luật chứ.
- An nói: Nếu phải tuân theo kỉ luật và pháp luật thì còn gọi gì là tự do nữa .
- Bình ???
a, áp dụng kiến thức đã học, em hãy giải thích giùm Bình ?
b, Những hành vi nào theo em là vi phạm pháp luật khi sử dụng quyền tự do ngôn
luận ?
Câu 5.(2.0 điểm)
Tình huống: Bố mẹ anh Huy đang ốm nặng, gia đình rơi vào hoàn cảnh hết
sức khó khăn, túng quẫn. Chán nản cuộc sống nh thế nên anh Huy đã bỏ nhà đi làm
thuê để tìm nguồn thu nhập cao hơn. Có ngời cho rằng việc làm của anh Huy thể
hiện tính tự lập cần học tập noi gơng. Một số ngời khác lại cho rằng anh Huy là ngời
vô trách nhiệm, đáng chê trách.
Hỏi:
a, Em đồng ý với ý kiến nào? Hãy giải thích vì sao ?
b, Nếu là anh Huy em sẽ làm gì ?
P N

u
Nội dung cần đạt đợc (theo các ý chính) Điểm
1
(1,5
đ)
- Khái niệm pháp luật: Là các quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc

do nhà nớc ban hành, đợc nhà nớc bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp giáo dục, thuyết phục và cỡng chế.
- Khái niệm kỷ luật: Là những quy định chung của cộng đồng, của
tập thể xã hội đề ra buộc mọi ngời phải tuân theo
- Mối quan hệ
+ Có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Nhng quy định của tập thể phải tuân theo quy định của pháp luật,
không đợc trái với pháp luật.
0,5
0,5
0,5
2
(2,5
đ)
a, Nhà nớc của ta là nhà nớc của dân, do dân và vì dân:
- Nhà nớc ta là liên minh giữa hai giai cấp công nhân và nông dân,
đội ngũ tri thức.
- Quyền lực của nhà nớc thuộc về nhân dân, nhà nớc không ngừng
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Quyền lực nhà nớc thống nhất, có sự phân công, phối hợp thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, t pháp.
b, So sánh
- Nhà nớc ta bản chất của dân, do dân, vì dân: Phục vụ, bảo vệ
0,5
0,5
0,5
0,5
Ngi thc hin: Th Phng Lan Trng THCS Thanh
Thựy
12

SKKN: Mt s kinh nghim trong cụng tỏc bi dng HSG GDCD trng THCS
quyền lợi hợp pháp cho nhân dân lao động
- Có thể nhà nớc phong kiến, nhà nớc tập quyền, pháp luật bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp thống trị
0,5
3
(2đ)
a, Em không đồng tình với ý kiến của bạn Hà vì pháp luật quy định
tất cả mọi công dân có quyền tố cáo
b. Những điểm khác nhau giữa quyền khiếu nại và quyền tố cáo:
- Đối tợng:
+ Đối tợng của khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính.
+ Đối tợng của tố cáo là tất cả các hành vi vi phạm pháp luật.
- Cơ sở:
+ Cơ sở của khiếu nại là quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân ng-
ời khiếu nại bị xâm hại.
+ Cơ sở của tố cáo là tất cả các hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hai đến lợi ích của mọi ngời.
- Mục đích:
+ Mục đích của khiếu nại là khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp
của ngời khiếu nại đã bị xâm hại
+ Mục đích của tố cáo là xử lý, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật.
0,5
0,5
0,5
0,5
4
(2đ)

HS cần nêu đ ợc :
- Tự do ngôn luận không có nghĩa là muốn nói gì thì nói :
Vì nh thế thì:
* Tập thể,xã hội sẽ rối loạn.
* Mọi hoạt động không thể thống nhất hành động.
* Không phù hợp với lợi ích chung.
- Các hành vi sử dụng quyền tự do ngôn luận trái pháp luật.:
* Lợi dụng tự do để phát biểu lung tung,cố tình kéo dài thời
gian,làm lạc nội dung ,sai vấn đề cần bàn.
* Vu khống,vu cáo làm hại đến ngời khác.
* Xuyên tạc sự thật,tiết lộ bí mật Nhà nớc,kích động,xúi dục, phá
hoại, chống lại lợi ích Quốc gia,tập thể và của công dân.
0,5
0,25
0,25
0,25
0,25
0,25
0,25
5
(2đ)
Gồm 2 ý:
a, - Đồng ý với ý kiến thứ 2, anh Huy là ngời đáng chê trách.
- Giải thích: + Tự lập là biết tự tạo lập cuộc sống nhng không thể vô
trách nhiệm với ngời thân.
+ Anh Huy cha làm tròn bổn phận đối với cha mẹ
+ Xem thờng cha, mẹ
+ Suy nghĩ, hành động thiếu cân nhắc
b, Nếu là Huy em sẽ:
Vay tiền chữa bệnh cho cha, mẹ. Khi cha mẹ khoẻ trở lại sẽ tìm

công việc làm cải thiện đời sống.
0,5
1
0,5
BI:
Câu 1 (5,0 điểm):
Ngi thc hin: Th Phng Lan Trng THCS Thanh
Thựy
13
SKKN: Mt s kinh nghim trong cụng tỏc bi dng HSG GDCD trng THCS
1) Hãy nêu sự cần thiết của đức tính năng động sáng tạo ? Em hiểu gì về câu nói:
Trẻ không năng động, già hối hận.
2) a/ Tạo sao để trở thành một công dân chân chính, mỗi ngời cần phải có lí tởng
sống cao đẹp ? Lí tởng sống của thanh niên trong thời đại ngày nay là gì ?
b/ Trong bức th gửi học sinh nhân ngày khai trờng (9/1945) Bác Hồ viết: Non sông
Việt Nam có trở nên tơi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bớc tới đài vinh quang
để sánh với các cờng quốc năm châu đợc hay không, chính là nhờ một phần lớn ở
công học tập của các cháu .
- Câu nói trên có đề cập tới vấn đề thuộc về lí tởng không ?
- Tại sao học tập đợc coi là nội dung quan trọng để thực hiện lí tởng.
Câu 2 (2,5điểm):
a/ Em hiểu thế nào về quyễn sở hữu? Quyền sở hữu của công dân bao gồm những
nội dung nào? Nội dung nào là quan trọng nhất? Vì sao?
b/ Phân biệt tài sản nhà nớc với tài sản tập thể (hợp tác xã)? Cho ví dụ cụ thể.
Câu 3 (1,0 điểm):
Hãy đánh dấu (x) vào câu trả lời đúng trong các câu sau đây:
Hiến pháp quy định công dân có quyền khiếu nại, tố cáo nhằm:
a/ Tạo cơ sở pháp lý cho công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khi bị xâm phạm.
( )
b/ Tạo cơ sở pháp lý trừng trị các hành vi xâm phạm đến tài sản của công dân. ( )

c/ Tạo cơ sở pháp lý để công dân phát huy quyền tự do ngôn luận. ( )
d/ Tạo cơ sở pháp lý cho công dân giám sát các hoạt động của cơ quan và cán bộ,
công chức nhà nớc. ( )
Câu 4 (1,5 điểm): Bài tập tình huống:
Anh A và chị B cùng là cán bộ trong một cơ quan nhà nớc. Do vô tình cả hai
phát hiện ra ông C, là cấp trên trực tiếp của họ, đã có hành vi tham ô tài sản của nhà
nớc. Anh A rất muốn tố cáo sự việc trên nhng vì phải nuôi gia đình đông con nên
đành im lặng. Còn chị B, do bất bình nên đã làm đơn tố cáo ông C, chị đã bị ông C
cho nghỉ việc.
Câu hỏi:
1. Hãy nêu nhận xét của em về hành động của anh A và chị B?
2. Trong trờng hợp này chị B phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình ?
P N
Câu 1
1) Năng động sáng tạo là phẩm chất rất cần thiết của ngời lao động trong xã hội
hiện đại . Nó giúp con ngời có thể vợt qua những ràng buộc của hoàn cảnh, rút ngắn
thời gian để đạt đợc mục đích đã đề ra một cách nhanh chóng và tốt đẹp.
(1,0 điểm)
- Cần hiểu đúng nghĩa câu nói:
+ Câu này ý nói tuổi trẻ không năng động sáng tạo, không tích cực dám nghĩ, dám
làm, say mê tìm tòi tiếp thu nắm bắt những cái mới để vận dụng vào cuộc sống thì
khi già có hối hận cũng đã muộn (0,5 điểm)
2) Làm đúng, làm đủ đạt 3,5 điểm
a) 1,5 điểm
- Mỗi ngời cần phải có lí tởng sống cao đẹp vì khi lý tởng của mỗi ngời phù hợp với
lí tởng chung của dân tộc, của đảng thì hành động của họ sẽ góp phần thực hiện tốt
Ngi thc hin: Th Phng Lan Trng THCS Thanh
Thựy
14
SKKN: Mt s kinh nghim trong cụng tỏc bi dng HSG GDCD trng THCS

những nhiệm vụ chung và chính họ sẽ đợc xã hội, nhà nớc tạo điều kiện để phát
triển khả năng của mình (0,75 điểm)
+ Ngời sống có lí tởng cao đẹp sẽ đợc mọi ngời tôn trọng (0,25 điểm)
- Lí tởng sống của thanh niên trong thời đại ngày nay là : Phấn đấu thực hiện mục
tiêu xây dựng nớc Việt Nam độc lập , dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. (0,5 điểm)
b) 2,0 điểm
ý 1:1,0 điểm
- Câu nói trên có vấn đề thuộc về lí tởng là: Bác Hồ đã khẳng định vai trò to lớn của
các cháu học sinh là phải phấn đấu học tập để đa đất nớc bớc tới đài vinh quang,
sánh vai với các cờng quốc năm châu. Đó chính là lí tởng cao đẹp của học sinh. (1,0
điểm)
ý 2: (1,0 điểm)
Học tập là nội dung quan trọng để thực hiện lí tởng vì:
- Học tập là con đờng ngắn nhất để thực hiện lí tởng (0,25 điểm)
- Học tập giúp chúng ta tiếp thu tri thức nhân loại, thành tựu khoa học kỹ thuật,
những tinh hoa văn hoá nhân loại để vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh của đất nớc
nhằm phát triển đa đất nớc đi lên. (0,5 điểm)
- Học tập và rèn luyện về mọi mặt để có đủ tri thức, phẩm chất và năng lực cần thiết
nhằm thực hiện lí tởng sống cao đẹp (0,25 điểm)
Câu 2
a/ - Quyền sở hữu là quyền công dân đợc có tài sản, nói cách khác là quyền công
dân đợc giữ tài sản cho riêng mình. (0,5 điểm)
- Quyền sở hữu của công dân bao gồm 3 nội dung: Quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt. (0,5 điểm)
- Quyền định đoạt là quan trọng nhất vì chỉ có chủ sở hữu thực sự mới có quyền
quyết định số phận của tài sản nh đem bán, chuyển nhợng, cho thuê, cho mợn
(0,5 điểm)
b/ - Tài sản nhà nớc là tài sản thuộc sở hữu toàn dân giao cho các cơ quan nhà nớc
trực tiếp quản lý. Ví dụ: Tài nguyên rừng, biển, khoáng sản, kho bạc nhà nớc, ngân

hàng quốc gia (0,5 điểm)
-Tài sản tập thể là tài sản của các hợp tác xã hay các hình thức tổ chức kinh tế do
ngời lao động lập ra, gồm vốn bằng tiền hoặc hiện vật mà xã viên, tổ viên góp và lợi
tức tích luỹ đợc. (0,5 điểm)
Câu 3
Đánh dấu đúng vào câu a, d. Mỗi câu đúng cho 0,5 điểm.
Câu 4
1. Nhận xét:- Sự im lặng của anh A thoạt nhìn có vẻ đúng vì nó gắn với trách nhiệm
gia đình, nhng xét cho cùng đó là hành động cá nhân, hèn nhát và trái pháp luật.
Ngợc lại, việc tố cáo của chị B là hành động đúng pháp luật. (0.5 điểm )
2. Trong trờng hợp này, chị B có thể làm đơn khiếu nại gửi tới cơ quan có thẩm
quyền để giải quyết. Pháp luật luôn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân cũng
nh trừng trị đích đáng mọi hành động vi phạm lợi ích của nhà nớc, tập thể và của
công dân. (1.0 điểm)
Trc khi cỏc em lm , tụi cho cỏc em trao i thụng tin v cỏc dng thi ca
nhng nm trc, qua ú giỳp cỏc em hiu cu trỳc thi, k nng xỏc nh yờu
cu ca v phng phỏp nhn dng thi mt cỏch c bn cng nh k nng
Ngi thc hin: Th Phng Lan Trng THCS Thanh
Thựy
15
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
làm bài sao cho có hiệu quả nhất. Vì vậy, tôi quán triệt tinh thần với các em rằng:
trước khi làm bài các em phải đọc hết đề, nếu thấy phần kiến thức nào mình chưa
nắm vững, chưa rõ, chưa thuộc, thì đem sách, tài liệu ra đọc cho thuộc. Sau đó, gấp
sách lại và làm theo cách hiểu của mình.
Tóm lại, để rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh cần thực hiện tốt 3 bước
cơ bản sau:
- Bước 1: Yêu cầu học sinh phải xác định được dạng đề bài và yêu cầu của từng câu
hỏi, kể cả các dạng câu hỏi ẩn thì học sinh phải biết phân tích đề để tránh lạc đề.
- Bước 2: Yêu cầu học sinh lập dàn ý sơ lược cho từng câu hỏi trong đề thi, tránh

thiếu ý khi làm bài.
- Bước 3: Yêu cầu học sinh lập dàn ý chi tiết cho đề thi và hướng dẫn cách viết cho
từng dạng câu hỏi, xây dựng bố cục toàn bài theo cách phổ biến nhất đó là phương
pháp diễn dịch hoặc theo kết cấu tổng - phân - hợp để bài làm sâu sắc và phong phú
hơn.
b. Chấm, chữa, sửa lỗi và rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh
Cách 1 : Ngay sau khi làm bài kiểm tra, tôi yêu cầu các em về nhà phải làm
được đề cương đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết tới 0.25 điểm cho từng ý, từng
câu, từ đó tự chấm xem bài của mình sẽ được mấy điểm. Điều này sẽ giúp các em
cách xác định đáp án cũng như tiến trình trong bài kiểm tra để tránh lạc đề hoặc
thiếu ý.
Cách 2: Trước khi trả bài kiểm tra, tôi phát đáp án chuẩn đã làm và phân công
các em đóng vai trò là giáo viên để chấm bài cho bạn, tôi yêu cầu các em không
trao đổi thảo luận để đảm bảo tính khách quan, mỗi bài sẽ đựợc 2 em chấm độc lập,
có nhận xét chi tiết ưu, nhược điểm của từng bài. Qua đó, giúp các em tự rút kinh
nghiệm cho mình, ngoài ra có thể so sánh bài làm, cách chấm của mình với các bạn.
Cuối cùng tôi công bố điểm để các em tự đối chiếu.
Sau mỗi bài kiểm tra, kể cả các bài kiểm tra tại lớp từ 15 phút trở lên tôi đều
rất chú trọng và quan tâm đến các em, đặc biệt là những em trong đội tuyển để
chấm và sửa lỗi cẩn thận chi tiết cho các em, nhận xét vào bài của các em từ lỗi
chính tả cho đến cách dùng từ, đặt câu, cách diễn đạt…
Để thúc đẩy các em làm bài tích cực, có hiệu quả và nộp bài đúng hạn, giáo
viên phải giữ đúng hẹn giao đề, chấm bài, trả bài để các em biết kết quả và kịp thời
rút kinh nghiệm. Nhưng nếu chỉ chấm chữa thôi thì chưa đủ vì bài làm của các em
thường rất lủng củng, không biết cách diễn đạt, chuyển ý, viết dài dòng và lan man.
Vì vậy, sau khi chấm chữa kỹ lưỡng, tôi đều phát đáp án chi tiết và yêu cầu các em
sau khi xem bài rút kinh nghiệm những sai sót thì phải học thuộc đáp án. Khi trả bài
tôi dành thời gian nhất định để nhận xét cụ thể ưu, nhược điểm của từng em. Có
những em tôi đã phải chữa và gạch đỏ cả bài. Mục đích là rèn luyện cho các em
cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, kết luận trong bài như thế nào. Và yêu cầu các

em về nhà làm lại và khắc phục ngay nhược điểm đó, hôm sau tôi thu lại kiểm tra
để thấy được sự tiến bộ của các em.
Để học sinh thấy rõ sự quan tâm của cô giáo và thực hiện đúng yêu cầu, tôi
không bao giờ giao cho các em tự trả bài, thu bài mà chính tôi đi đến từng lớp (vào
giờ ra chơi) để trả bài, phát đáp án, đưa đề mới và thu bài của từng em, đồng thời có
thái độ nhắc nhở hoặc động viên về kết quả mà các em đạt được. Vì thế, đã tạo cho
các em thói quen: cứ thấy cô đến lớp là tự giác nộp bài. Nếu thấy bài làm của các
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
16
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
em có nhiều sai sót, tôi tập trung các em để chấn chỉnh ngay. Đến cuối đợt vì thời
gian còn ít mà nguồn đề còn nhiều, tôi tăng cường làm 3 bài/tuần và tôi phải nhờ
đồng nghiệp (cùng nhóm chuyên môn) chuyên chấm còn tôi chuyên ra đề và đáp
án.
Nếu chấm trả, phát đáp án mà không kiểm tra lại thì các em sẽ chủ quan
không học thuộc mà chỉ đọc qua. Cho nên, tôi đã kiểm tra lại bằng cách ra lại câu
hỏi cũ xem các em có làm đúng như đáp án đã phát không? Những bài đầu tiên các
em làm rất kém, điểm thấp, thậm chí còn sai kiến thức nhưng đến những bài sau, kỹ
năng làm bài của các em tiến bộ rõ rệt… các em viết chắc kiến thức và biết cách
trình bày, không còn lan man thiếu ý như trước.
Trong các buổi ôn luyện hàng tuần, ngoài hình thức kiểm tra viết, tôi còn tiến
hành kiểm tra vấn đáp các em đối với mảng kiến thức cần phải thuộc nhớ, qua đó
đánh giá thực lực của các em, đồng thời có thể giải đáp những thắc mắc mà các em
đưa ra… Tôi đã làm như sau:
Bước 1: Nêu câu hỏi
Bước 2: Gọi HS lên bảng xác định yêu cầu câu hỏi và trả lời đáp án
Bước 3: Gọi HS khác nhận xét, bổ sung
Buớc 4 : Giáo viên kết luận và cho điểm
4.4. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng.

Đây là khâu khá quan trọng trong quá trình bồi dưỡng vì có phân loại được
học sinh thì giáo viên mới có thể có phương pháp phù hợp với khả năng của từng
em và các em mới có khả năng đạt được kết quả như mong muốn. Phân loại học
sinh chủ yếu dựa vào khả năng quan sát, tiếp cận trong quá trình bồi dưỡng và
giảng dạy trên lớp của giáo viên. Ngoài ra, qua hệ thống trả lời câu hỏi vấn đáp trực
tiếp hoặc bài kiểm tra viết. Đối với những em có khả năng nhớ chậm, khái quát vấn
đề còn hạn chế, giáo viên cần khoanh vùng kiến thức và nhắc trước cho các em có
sự chuẩn bị để các em có thể tự tin trong quá trình học. Đối với học sinh có khả
năng tư duy tốt, tôi sẽ đưa ra yêu cầu cao hơn. Để đánh giá, theo dõi mức độ tiến
bộ của các em, sau mỗi lần kiểm tra, tôi căn cứ vào điểm để chia các em theo nhóm.
Thông thường là 3 ->4 nhóm. Chẳng hạn nhóm 1 là những em có số điểm cao nhất,
ít nhược điểm. Nhóm 2, 3, 4 tương tự như vậy xét theo điểm từ cao xuống thấp.
Đồng thời lập bảng thống kê ghi rõ ưu, nhược điểm của từng em qua bài kiểm tra.
Qua việc lập bảng theo dõi như trên, giáo viên sẽ rút ra được một số lỗi phổ biến
thường gặp ở tất cả các em. Ngoài ra, qua đó các em sẽ biết được mình đang ở vị trí
nào để nỗ lực cố gắng nhiều hơn. Tất nhiên, chỗ đứng của các em sẽ liên tục thay
đổi qua các bài kiểm tra. Điều này sẽ tạo được không khí thi đua lẫn nhau trong đội
tuyển, đối với những em được xếp ở tốp đầu phải thường xuyên cố gắng thì mới giữ
được thứ hạng cao mà mình đã có, còn một số em xếp cuối chắc chắn phải phấn đấu
vươn lên.
4.5 Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh.
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tạo nhiều cơ hội cho học sinh được bày tỏ
ý kiến và trao đổi thông tin với giáo viên để từ đó biết được các em đang cần gì,
thiếu gì? Chẳng hạn, sau mỗi buổi học thỉnh thoảng tôi thường trao đổi với các em
rất thân mật gần gũi với các câu hỏi thăm dò như: Theo các em phương pháp dạy
của cô như thế được chưa, các em có hiểu không?
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
17
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”

Từ đó tạo cho các em tâm lý tin cậy, gần gũi mạnh dạn hơn để bày tỏ những
vấn đề còn băn khoăn vướng mắc. Giáo viên có thể làm được điều này bằng cách:
- Khích lệ học sinh suy nghĩ và đặt câu hỏi.
- Lắng nghe và trả lời ý kiến của các em, biểu dương những ý kiến có tính chất đổi
mới, sáng tạo.
- Tổ chức thảo luận theo nhóm nhỏ để các em có thể phát biểu ý kiến của mình.
- Kể những tấm gương tốt ở các đội tuyển năm trước cho các em nghe để học tập,
noi theo.
- Thường xuyên động viên khích lệ các em hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng ngày.
- Giao nhiệm vụ có tính chất thử thách để các em có động cơ phấn đấu.
4.6. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ cho học sinh.
Căn cứ vào kết quả chia nhóm, xếp loại học sinh trong suốt quá trình bồi
dưỡng, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em. Mọi sự nỗ lực, cố gắng của cả cô và
trò do chính các em quyết định, vì thế cần phải có quyết tâm cao để chứng minh
rằng: Thi GDCD không dễ và để đạt được kết quả cao như các môn khác cũng là
điều không đơn giản. Ngoài ra để động viên các em, tôi còn treo giải thưởng cho em
nào đạt hoặc vượt chỉ tiêu cô yêu cầu. Tất nhiên, không phải em nào cũng được kết
quả như mong muốn, nhưng ít nhất các em đã biết được mục tiêu của mình là gì để
bước vào kỳ thi với tâm lý tự tin và quyết tâm cao nhất.
4.7. Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường
Trong thực tế có người cho rằng, bồi dưỡng học sinh giỏi là trách nhiệm của
đồng chí giáo viên được nhà trường phân công. Điều đó chỉ đúng một phần nhất
định. Vì để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả cao phải có sự hỗ trợ đắc
lực của các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn, sự chỉ đạo sát sao của Ban
giám hiệu, sự quan tâm đồng tình, động viên khích lệ của phụ huynh học sinh và
các giáo viên trong trường tạo điều kiện giúp đỡ. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
của trường THCS Thanh Thùy trong những năm gần đây liên tục đạt kết quả cao,
trước hết là có đường lối chỉ đạo đúng đắn của BGH nhà trường, sự quan tâm, tạo
điều kiện thực sự cho giáo viên dạy đội tuyển. Đến ngày chuẩn bị đi thi, nhà trường

tổ chức gặp mặt các đội tuyển vừa để căn dặn vừa động viên giao nhiệm vụ cho các
em. Trong các buổi trao phần thưởng học sinh giỏi hàng năm, một thành phần
không thể thiếu trong buổi lễ đó là các bậc phụ huynh trong đội tuyển. Tất cả những
việc làm đó đều thể hiện rằng: Để có chất lượng học sinh giỏi thực sự vững bền
trước hết cần có sự đồng tâm của tập thể sư phạm nhà trường, sự nỗ lực của thầy và
trò, sự đồng thuận của phụ huynh học sinh.
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
18
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Với những việc đã làm như trên đối chứng với cách làm trước đây, tôi đã thu
đựơc những kết quả rất khích lệ, góp một phần vào thành tích chung của nhà
trường trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm nay, xứng đáng là một
trong những trường có chất lượng dạy tốt học tốt trong huyện.
Có thể nói, sự kiên trì tận tâm và lòng nhiệt tình trong chuyên môn của bản
thân cùng với sự miệt mài chăm chỉ, nỗ lực của các em học sinh đã được đền đáp.
Liên tục trong nhiều năm đội tuyển môn GDCD không những đã đạt chỉ tiêu nhà
trường đề ra mà còn hoàn thành xuất sắc với kết quả rất cao. Chỉ tính trong 6 năm
liên tục trở lại đây, số lượng học sinh tham gia đăng ký dự thi tăng lên, số học sinh
đạt HSG cũng tăng. Cụ thể:
2007- 2008 3
2008- 2009 5
2010-2011 4
2011-2012 5
2012 - 2013 2
2013 - 2014 4
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
19

SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
IV. KẾT LUẬN
Theo tôi: “Dạy học là một nghệ thuật”! Điều này càng đúng hơn trong công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bởi vì bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá trình công
phu, nhiều thử thách đối với cả thầy và trò. Cho nên, ngoài trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm uy tín thì giáo viên dạy GDCD phải thực sự nhiệt tình, tâm huyết trong
giảng dạy để khơi dậy được ở học sinh sự yêu thích môn học và thắp lên niềm tin
vững chắc cho các em đi đến thành công.
Mặc dù trong quá trình thực hiện tôi đã áp dụng 7 giải pháp trên nhưng vẫn
còn nhiều khía cạnh khác chưa nghiên cứu. Đề tài chắc chắn còn nhiều khiếm
khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
20
SKKN: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở trường THCS”
V. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
3.1. Đối với Bộ GD&ĐT:
- Nên đưa môn GDCD vào chương trình thi tốt nghiệp THPT để đảm bảo yêu
cầu: “Học gì thi nấy”.
3.2. Đối với Sở GD&ĐT:
- Cần có chương trình và tài liệu hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi môn GDCD để tạo
điều kiện cho giáo viên ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi.
- Cần tổ chức các đợt hội thảo chuyên đề báo cáo kinh nghiệm về công tác bồi
dưỡng HSG để GV có điều kiện học hỏi lẫn nhau.
3.3. Đối với các trường THCS:
- Quan tâm, có chế độ ưu đãi thực sự xứng đáng đối với giáo viên bồi dưỡng
- Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để đầu tư nhiều hơn về điều kiện
vật chất, kinh phí cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trong các nhà trường.

- Không ngừng yêu cầu giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng
lực chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy để phát huy tốt năng lực
học của trò và năng lực sư phạm của thầy.
Thanh Thùy ngày 02/5/2014
Người viết
Đỗ Thị Phương Lan
Người thực hiện: Đỗ Thị Phương Lan Trường THCS Thanh
Thùy
21

×