Tải bản đầy đủ (.ppt) (35 trang)

Bài giảng bảo tồn đa dạng sinh học Nguyễn Mộng c5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 35 trang )


Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Chương 5.
Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền
vững
Phát triển bền vững và bảo tồn
Phát triển bền vững là sự phát triển mà trong đó các giá
trị kinh tế, môi trường và xã hội luôn luôn tương tác với
nhau trong quá trình quy hoạch; phân bố lợi nhuận công
bằng giữa các tầng lớp trong xã hội và khẳng định các cơ
hội cho sự phát triển kế tiếp, duy trì một cách liên tục
cho các thế hệ mai sau.
Làm sao phát triển được nền kinh tế xã hội trong khi vẫn
có thể giữ gìn, bảo vệ được thiên nhiên. Bảo tồn là để
liên kết được việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên
đặc thù với những nhu cầu phát triển có thể chấp nhận
được của một bộ phận dân cư mà cuộc sống của họ phụ
thuộc vào việc khai thác tài nguyên đó.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Các xã hội truyền thống và sự đa dạng sinh học
Cộng đồng địa phương và đa dạng sinh học

Có khoảng 5.000 đến 6.000 các cộng đồng truyền thống khác
nhau sống trong hơn 70 quốc gia. Dân số của các cộng đồng này
khoảng 250 triệu người. Hầu hết các cộng đồng này sống trong
các vùng hoang vu hẻo lánh và chủ yếu dựa vào các nguồn tài


nguyên thiên nhiên. Do các vùng hẻo lánh và nguyên sơ thường
giàu có về đa dạng sinh học, mà phần lớn đất đai của các cộng
đồng truyền thống thường đươc chọn làm Vườn Quốc gia hay
các dạng khu bảo vệ khác.

Các xã hội truyền thống sử dụng các phương pháp thủy lợi cổ
điển và gieo trồng tổ hợp các cây trồng đảm bảo đầy đủ khả năng
để nuôi dưỡng một quần thể loài người tương đối lớn mà không
gây tác động có hại gì đáng kể đối với môi trường và các quần
thể sinh học ở xung quanh.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Cộng đồng bản địa

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Cộng đồng địa phương và
đa dạng sinh học
Nhiều xã hội truyền thống có những nguyên tắc đạo đức
bảo tồn rất hiệu quả. Các nguyên tắc này có vai trò rất
quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển tài nguyên
thiên nhiên, đa dạng sinh học. Các nguyên tắc này ăn
sâu vào tiềm thức và cách cư xử của người dân trong
cuộc sống hàng ngày, bao gồm tất các các lĩnh vực của
đời sống như:

Nông nghiệp: sản xuất lương thực, thực phẩm, cất giữ

và chế biến thức ăn, thu lượm, sử dụng, chăn nuôi,

Sức khoẻ: các loại cây thuốc hoang dại, cách chữa bệnh
cho người và gia súc,

Quản lý tài nguyên thiên nhiên: săn bắt chim thú, bảo
vệ các nguồn sông suối,

Tổ chức quản lý: hệ thống tổ chức cộng đồng, luật lệ
truyền thống bản làng,

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Cộng đồng địa phương và đa dạng sinh học

Người Tukano ở phía Tây Bắc
Brazin sống bằng một loại cây ăn
củ và cá sông; họ có một đức tin
mạnh mẽ và tập quán cấm chặt,
phá rừng ở hai bên bờ thượng
nguồn sông Rio Negro, nơi mà họ
ý thức được rằng đó là nơi quan
trọng để duy trì nguồn cá. Người
Tukano tin rằng các khu rừng này
thuộc về cá và con người không
được chặt phá. Họ cũng tích cực
tạo ra những nơi trú ngụ cho cá và
chỉ cho phép đánh cá trong một
khoảng ít hơn 40% diện tích bề

mặt của sông.
Người Tukano

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Cùng với việc duy trì cố định các
ruộng làm nông nghiệp, người da đỏ
Huastec tại vùng đông bắc nước Mỹ
duy trì các khu rừng được quản lý -
trên các khu vực đất dốc, dọc theo
các con sông và ở những vùng khác
xấu hay không phù hợp với sản xuất
nông nghiệp tập trung. Các khu rừng
này chứa đựng hơn 300 loài thực vật,
từ đó con người có thể có được thực
phẩm, gỗ, và các sản phẩm cần thiết
khác. Các nguồn tài nguyên rừng này
cung cấp cho những gia đình người
Huastec lương thực phụ trợ trong thời
gian mùa màng bị thất bát.
Người da đỏ Huastec

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Người dân địa phương và chính quyền
Tại các nước đang phát triển, người dân địa phương thường khai thác các
sản phẩm mà họ cần - kể cả thực phẩm, nhiên liệu và các nguyên liệu xây
dựng - từ môi trường xung quanh.

Khi các vườn quốc gia mới được thành lập hoặc khi người ta tăng cường
kiểm soát trong khu giáp ranh vùng đệm của các khu vườn quốc gia, dân cư
có thể bị cấm không cho tiếp cận tới các nguồn tài nguyên mà họ vẫn
thường sử dụng và thậm chí đôi khi họ đã từng bảo vệ.
Để có thể tồn tại, họ sẽ phá bỏ hàng rào của khu bảo tồn và sẵn sàng chiến
đấu, đụng độ với các cán bộ của khu bảo tồn.
Một hậu quả nữa là việc thành lập vườn quốc gia thường biến những người
dân địa phương trở thành những người săn bắt trộm, mặc dù họ không hề
thay đổi bản chất hay phong cách sống so với trước kia. Tồi tệ hơn, nếu
như người dân địa phương bỗng cảm thấy vườn quốc gia và các nguồn tài
nguyên không bao giờ thuộc về họ nữa mà là sở hữu của chính phủ thì họ
sẽ tranh thủ khai thác một cách không thương tiếc các nguồn tài nguyên của
vườn quốc gia.




Một ví dụ điển
Một ví dụ điển
hình của những
hình của những
cuộc xung đột này
cuộc xung đột này
xuất hiện năm
xuất hiện năm
1989 khi những
1989 khi những
thành viên nóng
thành viên nóng
nảy của bộ tộc

nảy của bộ tộc
Bodo tại Assam,
Bodo tại Assam,
Ấn Độ đã giết chết
Ấn Độ đã giết chết
12 nhân viên của
12 nhân viên của
Vườn Quốc gia
Vườn Quốc gia
Manas và chiếm
Manas và chiếm
lĩnh khu vực vườn
lĩnh khu vực vườn
để làm nơi canh
để làm nơi canh
tác và săn bắt
tác và săn bắt
Bộ tộc Bodo tại Assam, Ấn Độ

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa

Suy thoái tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học không chỉ đơn
thuần là do nhu cầu phát triển kinh tế, hay do áp lực dân số ngày càng
tăng lên mà còn là vấn đề rất phức tạp liên quan đến lối sống của con
người, phong tục tập quán, thái độ hành vi của từng cá nhân, của cộng
đồng, dân tộc.


Mỗi tộc người có một nền văn hoá và quan niệm riêng về tài nguyên
thiên nhiên. Vì vậy, đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa thường liên
quan với nhau. Việc bảo vệ những nền văn hóa truyền thống đó trong
môi trường tự nhiên của nó sẽ tạo cơ hội để đạt được cả hai mục đích:
bảo vệ đa dạng sinh học và duy trì đa dạng văn hóa.

Đa dạng văn hóa gắn bó chặt chẽ với đa dạng gen của nhiều loại cây
trồng. Đặc biệt ở khu vực miền núi, những nền văn hóa bị cách biệt bởi
nhân tố địa lý, cho phép phát triển nhiều giống cây bản địa; những cây
trồng này thích ứng với khí hậu, đất và các loài sâu hại địa phương và rất
phù hợp với khẩu vị của dân cư ở đây.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Một số nguyên lý áp dụng ở các khu bảo
tồn và dân địa phương.

Nguyên lý 1. Dân địa phương có những mối liên kết lâu
đời với thiên nhiên và có sự hiểu biết sâu rộng về thiên
nhiên. Người dân bản địa truyền thống thường góp
phần quan trọng vào việc duy trì nhiều hệ sinh thái
nhạy cảm trên trái đất thông qua việc sử dụng bền
vững tài nguyên theo truyền thống và nền văn hoá dựa
vào sự tôn trọng thiên nhiên. Do vậy, sẽ không có
những xung đột gắn liền với mục tiêu của khu vực bảo
tồn và sự hiện diện của những người bản địa truyền
thống trong và ngoài phạm vi khu vực. Hơn nữa, họ sẽ
nhận thấy sự đúng đắn và công bằng của các bên tham
gia trong việc phát triển và thực thi các chiến lược bảo

tồn ảnh hưởng đến đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng
bờ và các nguồn tài nguyên khác của họ và đặc biệt
trong việc thiết lập và quản lý các khu bảo vệ.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế

Nguyên lý 2. Những thoả thuận giữa các tổ chức
bảo tồn (gồm các cơ quan quản lý khu bảo vệ và
dân bản địa truyền thống) đối với việc thành lập
và quản lý khu bảo vệ sẽ dựa vào việc tôn trọng
đầy đủ đối với quyền lợi của người dân bản địa
truyền thống trong việc sử dụng truyền thống và
bền vững đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng
bờ và các nguồn tài nguyên khác của họ. Đồng
thời, các thoả thuận như thế cũng sẽ thừa nhận
trách nhiệm của dân bản địa trong việc bảo tồn
đa dạng sinh học, tính thống nhất sinh thái và
các nguồn tài nguyên thiên nhiên chứa trong các
khu bảo vệ đó.
Một số nguyên lý áp dụng ở các khu
bảo tồn và dân địa phương

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Một số nguyên lý áp dụng ở các khu bảo
tồn và dân địa phương.


Nguyên lý 3. Các nguyên tắc của sự phân quyền, sự tham
gia, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ được đề cập
đến trong tất cả các nội dung đi đôi với lợi ích hai bên của
khu bảo vệ và dân bản địa truyền thống.

Nguyên lý 4. Dân bản địa truyền thống được phân chia đầy
đủ và công bằng các lợi ích với khu bảo tồn dựa vào sự
công nhận các quyền hạn của các đối tác hợp pháp.

Nguyên lý 5. Quyền hạn của dân bản địa truyền thống trong
mối liên hệ với khu bảo vệ thường chịu trách nhiệm quốc
tế do nhiều vùng đất, lãnh thổ, nguồn nước, vùng ven biển
và các tài nguyên khác mà họ sở hữu hay sử dụng vượt
qua biên giới nhiều quốc gia

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Một số nghiên cứu điển hình
Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên
nhiên là rất quan trọng đối với sự sống còn của các cộng
đồng bản địa truyền thống. Trong vòng 15 năm qua, các
cộng đồng truyền thống là những người đóng vai trò quan
trọng trong việc sở hữu và quản lý các vùng cảnh quan
tương đối ít bị xáo động. IUCN (2000) đã nêu ra 11
nghiên cứu điển hình để minh hoạ các kinh nghiệm trên
thế giới trong vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên
trong các khu bảo vệ chồng lên vùng đất đai hay lãnh thổ
của các cộng đồng bản địa.


Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Các đặc điểm chung

Các điểm được chọn rất đa dạng về nơi ở, từ các vùng
ven viển và biển đến các vùng núi cao 5.000 m, từ vùng
bắc cực đến môi trường nhiệt đới. Tổng diện tích các địa
điểm 151.010 km
2
.

Các địa điểm đều có độ đa dạng cao và quan trọng về
mặt sinh thái. Một số điểm là bãi đẻ của các loài hoang
dã hay bán hoang dã có giá trị kinh tế. Mục tiêu bảo vệ
của các địa điểm này cũng khác nhau, từ các khu bảo vệ
nghiêm ngặt (hạng I, II, III) đến các khu bảo tồn ở các
mức độ sử dụng bền vững cho phép (hạng IV đến VI
theo IUCN).

Có hơn 32 cộng đồng truyền thống cùng với các nhóm
dân thiểu số sống trong hay gần khu bảo vệ. Tổng số
người cư ngụ thay đổi từ 0 đến 25.000. Mật độ dân số
thay đổi từ 0,3 người/km
2
đến 73,5 người/km
2
.

Người dân bản địa truyền thống sử dụng bền vững tài

nguyên ở các mức độ khác nhau.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Các hoạt động liên quan đến quản lý
Các tiếp cận quản lý trong các nghiên cứu điển hình gồm 3 loại:

Đồng quản lý không hạn chế:
có sự tham gia toàn diện của cộng
đồng truyền thống trong các chương trình quản lý. Sự tham gia
bao gồm tất cả mọi mặt của tiến trình quản lý bao gồm kế hoạch
và thực hiện các qui hoạch và hoạt động quản lý. Đặc biệt dân bản
địa truyền thống trở thành bộ phận trong hội đồng quản lý hay
các tổ chức tương tự.

Đồng quản lý có hạn chế:
cộng đồng truyền thống tham gia có giới
hạn trong hoạt động quản lý. Tuy vậy, không có luật lệ hay các cơ
chế hợp pháp để bảo đảm cho điều đó, tiếp tục đươc hay không
phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của nhân viên quản lý.

Không có sự tham gia quản lý:
hầu hết các quyết định quản lý
được đưa ra bởi các nhà cầm quyền trong khu bảo vệ ở văn phòng
trung tâm, nằm ở thủ đô.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế

Các xung đột chính

Quyền sở hữu đất và biển trong khu bảo
tồn là nhân tố tạo ra hầu hết các khó khăn
giữa cộng đồng bản địa và cơ quan bảo vệ.

Khai thác các nguồn tài nguyên đất và biển
là nhân tố quan trọng thứ hai phát sinh
xung đột giữa cộng đồng bản địa và cơ
quan bảo vệ.

Một nguồn xung đột khác là sự nhượng đất
cho các công ty thương mại để khai thác tài
nguyên đất và biển (dầu khí, rừng, tôm
cá, ) trong khu bảo vệ hay khu vực chung
quanh khu bảo vệ.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Các bài học rút ra và các thách thức
1. Ở những nơi mà cộng đồng bản địa tham gia
quản lý từ những giai đoạn đầu của việc qui
hoạch thì ở đó có những lợi ích cho cả cộng
đồng bản địa và chính quyền quản lý.
2. Cộng đồng bản địa tham gia càng rộng rãi trong
tất cả các khía cạnh của quản lý thì càng ít khả
năng nảy sinh xung đột
3. Ở những khu vực có một số loại hình cùng quản
lý, thì thách thức là làm thế nào để củng cố và

mở rộng cơ chế hợp tác. Ở những nơi mà cộng
đồng truyền thống chưa có sự tham gia thì
thách thức là làm thế nào để có được điều đó.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Những nỗ lực quốc tế trong công tác
bảo tồn và phát triển bền vững
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu

Hội nghị Thượng đỉnh kéo dài 12 ngày vào tháng 6 năm
1992 tại Rio de Janeiro, Brazin. Nó chính thức được biết
đến như Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát
triển (UNCED), tham dự có 178 nước với hơn 100 nguyên
thủ quốc gia, cùng với những người đứng đầu tổ chức Liên
Hiệp Quốc và các tổ chức phi chính phủ và bảo tồn khác.
Mục đích của hội nghị là thảo luận bàn bạc tìm kiếm giải
pháp cùng nhau phối hợp chặt chẽ để bảo vệ môi trường
cùng với việc phát triển hiệu quả nền kinh tế tại những
nước còn nghèo.

Các thành viên của hội nghị đã bàn bạc đi đến thoả thuận
ký kết năm văn bản chính và khởi xướng thực hiện nhiều
dự án mới.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu


Tuyên bố Rio: Tuyên bố nêu rõ những nguyên tắc chỉ
dẫn cho các nước giàu mạnh cũng như các nước nghèo
về môi trường và phát triển. Tuyên bố khẳng định
nguyên tắc ''người gây ô nhiễm phải trả tiền", thể theo
nguyên tắc này một công ty nào hay một chính phủ nào
gây ra thiệt hại, hay hủy hoại môi trường phải có trách
nhiệm trả tiền đền bù và sửa chữa thiệt hại.

Công ước về Thay đổi Khí hậu: Sự thoả thuận này đòi
hỏi các nước công nghiệp phải giảm thiểu các chất gây ô
nhiễm như cacbon ôxit và các khí nhà kính khác do họ
gây ra và phải thường xuyên làm báo cáo về kết quả
của tiến trình này. Trong khi các giới hạn ô nhiễm chưa
được xác định, công ước nêu rõ: các khí nhà kính phải
được duy trì ổn định ở mức không làm ảnh hưởng đến
khí hậu trên Trái đất.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Công ước Đa dạng Sinh học, CBD
(Convention on Biological Diversity)

Công ước đa dạng sinh học được ký kết năm 1992
tại Hội nghị Thượng đỉnh ở Rio de Janeiro bởi 150
nước và có hiệu lực kể từ tháng 12 năm 1992. Đến
tháng 01 năm 2004 đã có 188 nước ký vào công
ước, trong đó Mỹ là một trong số những nước ký
sau cùng.


Công ước về Đa dạng Sinh học có ba mục tiêu:

bảo vệ đa dạng sinh học;

sử dụng bền vững đa dạng sinh học;

phân phối công bằng lợi nhuận của các sản
phẩm mới lấy từ các loài hoang dã và các loài
thuần dưỡng.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Khi ký vào công ước, các nước thành viên đã đồng ý thực
hiện nhiều biện pháp khác nhau để bảo tồn đa dạng sinh
học. Các biện pháp đó là:
1. Xây dựng kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học
2. Xác định các hệ sinh thái, các loài và các nguồn gen quan
trọng để bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học
3. Quan trắc đa dạng sinh học và các nhân tố có thể tác
động đến đa dạng sinh học
4. Thiết lập hệ thống các khu bảo tồn
5. Quản lý tài nguyên sinh học để đảm bảo cho việc bảo tồn
và sử dụng bền vững
6. Phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái
7. Thiết lập hệ thống bảo tồn chuyển vị
Công ước Đa dạng Sinh học,CBD
(Convention on Biological Diversity)


Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu

Tuyên bố về Các nguyên tắc đối với Rừng. Sự nhất trí
đạt được về công tác quản lý rừng đã gặp nhiều khó
khăn vì những sự khác biệt sâu sắc về quan điểm giữa
các nước ôn đới và nhiệt đới, các nước giàu và các nước
nghèo. Cuối cùng đã đưa ra lời kêu gọi về quản lý rừng
theo hướng bền vững mà không có một khuyến cáo
nào kèm theo.

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu

Lịch trình 21. Tài liệu 800 trang này là một cố gắng mới để
trình bày một cơ cấu toàn diện về những chính sách cần
thiết cho sự phát triển theo chiều hướng bảo vệ môi trường.
Lịch trình 21 chỉ ra sự liên kết giữa môi trường và các vấn
đề khác vốn vẫn thường được đưa ra cân nhắc một cách
tách biệt như quyền lợi của trẻ em, sự nghèo khó, vấn đề
phụ nữ, chuyển giao công nghệ, Các kế hoạch hoạt động
được vạch ra để giải quyết các vấn đề về khí quyển, suy
thoái đất, hoang mạc hóa, phát triển các vùng núi, nông
nghiệp và phát triển nông thôn, việc phá rừng, đất ngập
nước, môi trường, thủy vực, và vấn đề ô nhiễm. Các cơ chế
về tài chính, tổ chức, công nghệ và pháp luật để thực hiện

những hoạt động này cũng được mô tả trong Lịch trình 21

Nguyễn Mộng
Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Tài trợ quốc tế và phát triển bền vững

Càng ngày nhóm các nước phát triển ý thức được rằng nếu
họ muốn bảo vệ đa dạng sinh học tại các nước đang phát
triển giàu có về số loài nhưng lại rất nghèo về khả năng tài
chính thì họ cần phải cung cấp tài chính. Những sự giúp đỡ
của các tổ chức này rất đáng kể.

Mặc dù quỹ sử dụng cho bảo tồn ở những nước đang phát
triển được tăng một cách đáng kể nhưng số tiền chi trả vẫn
chưa đủ để bảo vệ những căn nhà lớn của sự đa dạng sinh
học rất cần thiết cho tương lai phát triển lâu dài của xã hội
loài người.

Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), được thành lập năm 1991
do Ngân hàng Thế giới cùng với Chương trình Phát triển Liên
Hiệp Quốc UNDP và Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc
UNEP.

Quỹ Môi trường Quốc gia (NEF) được thành lập tại trên 20
nước với nguồn vốn hỗ trợ của chính phủ Mỹ và các tổ chức
khác như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Bảo tồn Các loài Hoang
dã Thế giới.

Nguyễn Mộng

Khoa Môi trường,
ĐHKH Huế
Tài trợ quốc tế và phát triển bền vững

Các nước phát triển trả nợ thiên nhiên của mình bằng các hoạt động bảo
tồn đa dạng sinh học. Tất cả các nước đang phát triển nợ các cơ quan tài
chính quốc tế khoảng 1,3 ngàn tỷ đô la, các ngân hàng thương mại là chủ
nợ của họ sẽ bán lại những khoản nợ này với giá cực kỳ ưu đãi trong thị
trường thương mại quốc tế. Các tổ chức bảo tồn quốc tế mua lại những
khoản nợ này, sau đó khoản nợ sẽ được bãi bỏ cho các nước đang phát
triển với điều kiện các nước này hàng năm phải bỏ ra một khoản tiền nội
địa để tài trợ cho các hoạt động bảo tồn.

Trong một cơ chế trao đổi nợ khác là các chính phủ của những nước phát
triển là chủ nợ trực tiếp của các nước đang phát triển có thể quyết định
cắt giảm phần nào các khoản nợ nếu như nước đang phát triển đồng ý sẽ
đóng góp vào quỹ môi trường quốc gia hay cho các hoạt động bảo tồn
một khoản tiền nhất định

×