Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

hệ thống tiền tệ quốc tế từ xưa đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.67 KB, 19 trang )

Trường đại học Quy Nhơn
Khoa kinh tế - kế toán


Đề tài:

Tổng quan về hệ thống tiền tệ quốc tế
Danh sách nhóm

Tên Nội dung đóng góp Đánh
giá
1/ Trần Kim Yến
Hệ

thống

Bretton

Woods
8,3%
2/ Trần Thế Vinh
Hệ

thống

Bretton

Woods và hệ thống tiền tệ châu âu- EMS
8.3%
3/ Phạm Thị Lê
Hệ



thống

song

bản

vị

(Bimetallism)
8.3%
4/ Lê Thị Bích Trâm
Hậu

Bretton

Woods
8.3%
5/ Võ Thị Thủy Tiên
Hậu

Bretton

Woods
8.3%
6/ Phạm Thị Tuyết
Hệ

thống


song

bản

vị

(Bimetallism)
8.3%
7/ Nguyễn Thị Tường Vy
Hệ

thống

bản

vị

vàng

cổ

điển
8.3%
8/ Lê Bá Sơn

Hệ

thống

bản


vị

vàng

cổ

điển
8.3%
9/ Nguyễn Toàn Thịnh
Hệ

thống

tiền

tệ

quốc

tế

giữa

hai

cuộc

đại


chiến

thế

giới
8.3%
10/ Lê Thụy Hoàng Dung

Hiệp

định

Plaza,

thỏa

ước

Louvre
8.3%
11/ Trương Thị Minh Ý
Hệ

thống

bản

vị

vàng


cổ

điển
8.3%
12/ Nguyễn Thế Quyền
Chế

độ

tiền

tệ

Jamaica
8.3%
Giáo viên hướng dẫn: Ths.Nguyễn Thị Ban Mai
1
I/



M

Ở ĐẦU

Từ xa xưa, khi con người chuyển từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt, chăn
nuôi và bắt đầu có sản phẩm dư thừa, nhu cầu trao đổi hàng hóa đã xuất hiện. Ban
đầu là hình thức hàng đổi hàng giữa những cá nhân riêng lẻ, sau đó, để thuận tiện
hơn cho việc trao đổi, mỗi vùng có một hàng hóa được quy định là vật ngang giá

chung. Ví dụ như ở Trung Quốc vật ngang giá chung là da, hoặc là vỏ trai; Còn ở
Hy Lạp, La Mã đã từng dùng súc vật, đồng… làm vật ngang giá chung; Mông Cổ,
Tây Tạng có lúc dùng chè làm vật ngang giá chung. Nhưng khi nền sản xuất hàng
hóa phát triển cao hơn dẫn đến việc trao đổi hàng hóa giữa các vùng, các quốc gia
ngày càng được mở rộng cả quy mô và chất lượng. Để việc trao đổi diễn ra nhanh
chóng



thuận

lợi,

cần



một

hàng

hóa

trung

gian

được

mọi


người

cùng

chấ
p
nhận

làm

tiền

tệ

phục

vụ

nhu

cầu

trao

đổi

giữa

các


quốc

gia.

Trong

lịch

sử


nhiều loại hàng hóa đã được sử dụng làm tiền tệ, nhưng vì một vài tính chất đặc
biệt

như

sự

quý

giá,

tính

bền

dẻo,

dễ


gia

công,

dễ

vận

chuyển

hay

cất

trữ,chất
lượng được duy trì lâu bền… nên lúc này kim loại đã được chọn làm vật trung gian
trao đổi hàng hóa, trong đó, vàng và bạc là hai kim loại được ưa chuộng hơn cả.
Đến
đầu thế kỷ 19, vàng đã được sử dụng phổ biến để đúc thành tiền ở hầu hết các
nước.Mặt khác, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã làm cho nền sản xuất hàng hóa
ngày càng phát triển, việc trao đổi hàng hóa ngày càng qui mô hơn, phức tạp hơn,
nó không còn

gói

gọn

trong


một quốc

gia

hay

một

vùng

lãnh

thổ

nữa,



ngày
càng mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Khi đó ắt nổi lên một thách thức hai mặt: làm
sao để vừa tôn trọng chủ quyền tiền tệ của các nhà nước, vừa làm dễ dàng các trao
đổi giữa các quốc gia luôn tranh nhau được lợi. Do vậy, các quốc gia trên thế giới
đã cùng đi tới những thỏa, thuận, những quy ước chung về giao dịch thương mại
toàn cầu, từ đó, hệ thống tiền tệ quốc tế ra đời.
Hệ

thống

tiền


tệ

quốc

tế

(The

International

Monetery

System



IMS)

là hệ
thống

các

tập

quán,

quy

tắc,


thủ

tục



các

tổ

chức

quốc

tế

điều

hành

các
quan

hệ

tài

chính


giữa

các

quốc

gia.
Hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành trên cơ sở quan hệ thương mại -
tài chính giữa các nước, bao gồm các chế tài điều tiết quan hệ tài chính giữa các
quốc gia, các định chế tài chính quốc tế và chế độ tỉ giá của các quốc gia.
Trong

đó,

chế

độ

tỷ

giá

(exchange

rate

regime)

của


một

quốc

gia



tập
hợp các quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của quốc gia đó.
Về mặt thuật
ngữ, chế độ tỉ giá còn có tên gọi khác là cơ chế tỷ giá (exchange rate mechanism)
hay cấu trúc tỷ giá (exchange rate arrangement). Tỷ giá vừa là một phạm trù kinh tế
vừa là một công cụ của chính sách kinh tế của chính phủ. Do vậy, chế độ tỉ giá
chứa đựng yếu tố chủ quan, tức là mỗi quốc gia có thể lựa chọn cho mình một chế
độ tỉ giá nhất định, và chế độ tỉ giá của mỗi quốc gia có thể thay đổi theo thời gian.
Bài tiểu luận của nhóm em còn nhiều thiếu xót, mong cô và các bạn đóng góp
ý kiến thêm.
II/



CÁC



H






THỐNG



TIỀN



TỆ



QUỐC



TẾ
1. Giai

đoại

trước

chiến

tranh

thế


giới

thứ

nhất

(trước

năm

1914)
2
1.1.

Hệ

thống

song

bản

vị

(Bimetallism)
Từ thời cổ cho đến cận đại, thương mại quốc tế hoạt động trên cơ sở “bản vị
hàng hóa”, trong đó kim loại (chủ yếu là vàng và bạc) được đúc thành khối theo
những hình thức tùy ý và thực hiện chức năng là phương tiện trao đổi và lưu thông
trong nền kinh tế. Dần dần, vàng và bạc trong lưu thông đã được tiêu chuẩn hóa và

đúc

thành

tiền

với

những

quy

định

cụ

thể

về

hàm

lượng

kim

loại,




hiệu,

nhãn
mác… Đây là cơ sở hình thành chế độ song bản vị vàng và bạc.
Chế

độ

song

bản

vị



chế

độ

tiền

tệ

trong

đó

cùng


một

lúc



hai

thứ

kim
loại

đóng

vai

trò

làm

vật

ngang

giá

chung








sở

của

toàn

bộ

chế

độ

lưu
thông

tiền

tệ

của

một

nước.
Chế độ song bản vị hoạt động trên cơ sở giá trị đầy đủ của những đồng xu

(gọi là tiền đúc đủ giá – Full-bodied coins). Căn cứ vào cách quy định về mối quan
hệ trao đổi giữa tiền

đúc

bằng vàng

và tiền

đúc bằng bạc

mà có thể chia chế độ
song bản vị làm hai loại cụ thể:
1. Chế độ bản vị song song: Chế độ bản vị song song là chế độ song bản vị
mà trong đó quy định tỷ lệ trao đổi giữa tiền vàng và tiền bạc trong lưu thông phụ
thuộc vào giá trị thực tế của lượng vàng và lượng bạc chứa trong hai đồng tiền đó
quyết định. Do đó, giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường tất nhiên được thể
hiện bằng chỉ hai loại giá cả: Giá cả tính bằng tiền vàng và giá cả tính bằng tiền
bạc. Hai loại giá cả này sẽ thay đổi theo sự thay đổi tỷ giá giữa kim loại vàng và kim
loại bạc hình thành tự phát trên thị trường. Đặc biệt trong chế độ bản vị này, mọi
người có thể tự đúc tiền. Việc giá cả của hàng hóa trong lưu thông được thể hiện
bằng hai loại giá cả đã mâu thuẫn với vai trò làm thước đo giá trị của tiền tệ, chính
đặc điểm này của chế độ bản vị song song đã tạo ra những rắc rối trong việc tính
toán giá cả và lưu thông hàng hóa.
Trên thực tế, chế độ bản vị song song chỉ tồn tại trong thời kỳ đầu mới xuất hiện
chế độ song bản vị. Để tạo cho thị trường có tính thống nhất trong việc lưu thông
tiền tệ, nhà nước đã quy định tỷ lệ của đồng tiền vàng và bạc. Và do vậy, chế độ
bản vị kép được hình thành.
2. Chế độ bản vị kép: Chế độ bản vị kép là chế độ song bản vị trong đó Nhà
nước quy định cụ thể tỷ giá trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc.

Lịch sử cho thấy, đến những năm 1870 khá nhiều quốc gia trên thế giới đã thực
hiện hệ thống lưỡng kim bản vị. Đó là chế độ bản vị kép với hai kim loại quý là vàng
và bạc được dùng để đảm bảo cho hệ thống tiền tệ tự do chuyển đổi. Như ở Anh,
hệ thống lưỡng kim bản vị được thực hiện cho đến năm 1816 sau khi kết thúc cuộc
chiến tranh Napoleon, khi đó quốc hội Anh đã thông qua đạo luật chỉ dùng Vàng
làm đảm bảo cho hệ thống tiền tệ, hủy bỏ việc đảm bảo của bạc. Ở Mỹ đạo luật về
hệ thống tiền tệ (The coinage Act) năm 1792 công nhận hệ thống lưỡng kim bản vị
cho đến năm 1873, khi quốc hội Mỹ thông qua quyết định loại bỏ đồng Đôla bạc ra
khỏi tiền lưu thông. Pháp cũng theo đuổi chế độ lưỡng kim bản vị từ thời cách
mạng Pháp cho đến năm 1878. Một số quốc gia khác như Trung Quốc, Ấn Độ,
Đức, Hà Lan lại đi theo chế độ bản vị bạc.
Có thể coi đặc tính của hệ thống tiền tệ quốc tế trước những năm 1870 là song bản
vị tức là cả vàng và bạc đều được sử dụng làm phương tiện thanh toán quốc tế và
tỷ giá giữa các đồng tiền được xác định theo giá trị của vàng hoặc bạc. Ví dụ năm
1870 tỷ giá hối đoái giữa Bảng Anh (dựa trên Bản vị vàng) với Franc Pháp (dựa
3
trên lưỡng kim bản vị) được xác lập bằng giá trị vàng của hai loại tiền đó. Hoặc tỷ
giá giữa Franc Pháp với Mác Đức (dựa theo bản vị Bạc) được xác định dựa trên giá
trị Bạc của hai loại tiền này. Trong khi đó, tỷ giá giữa Bảng Anh và Mác Đức lại
được xác định dựa trên tỷ giá của chúng so với đồng Franc Pháp.
/>truoc-chien-tranh-the-gioi-lan-thu-nhat-1914
Bài giảng tai chính quốc tế ths: Phạm thị Bích Duyên GV: Võ Hải Long
Từ cuối những năm 1860, các mỏ bạc được phát hiện nhiều, việc khai thác
hàng loạt khiến bạc trở nên mất giá so với vàng, do đó nhiều quốc gia không còn
sử dụng bạc làm bản vị cho đồng tiền quốc gia nữa, chế độ song bản vị bước đầu
sụp đổ. Mặt khác, tại Mĩ, sau sự gián đoạn do cuộc nội chiến năm 1861, vào năm
1879,

chính


phủ

chính

thức

tuyên

bố

không

chuyển

đổi

tiền

ra

bạc

nữa



chỉ
chuyển đổi ra vàng. Chế độ song bản vị sụp đổ, hình thành chế độ bản vị vàng cổ
điển.
1.2.


Hệ

thống

bản

vị

vàng

cổ

điển
Tại

Mỹ,

quyết

định

chuyển

đổi từ

USD

ra vàng




không chuyển

đổi ra
bạc

vào

năm

1879



bước

ngoặt

quan

trọng

cho

sự

ra

đời


của

hệ

thống

bản

vị
vàng. Nhưng đến năm 1900, hệ thống này mới được chính thức phê chuẩn thông
qua Đạo luật bản bị vàng. Trong khoảng thời gian 30 năm từ 1880 đến 1914, hệ
thống bản vị vàng đã phát triển và thống trị ở hầu hết các quốc gia, nó đã liên kết
chặt chẽ các quốc gia với nhau cũng như giữa các nước thống trị và các nước thuộ
c
địa.
Hệ thống bản vị vàng thực chất là chế độ tỉ giá cố định dựa trên tỉ lệ ngang
giá vàng của mỗi đồng tiền quốc gia. Hệ thống này hoạt động dựa trên ba nguyên
tắc:
Thứ

nhất
, dưới chế độ bản vị vàng, các quốc gia ấn định giá trị đồng tiền
của mình với vàng, hay nói cách khác là chính phủ ấn định giá vàng tính bằng tiền
quốc gia,

đồng thời sẵn

sàng không hạn chế mua và bán vàng


tại

mức giá đã ấ
n
định. Tỉ giá hối đoái giữa các đồng tiền của các quốc gia được xác định thông qua
vàng.
Thứ

hai
, dưới chế độ bản vị vàng, xuất và nhập khẩu vàng giữa các quốc
gia được tự do hoạt động. Do vàng được chu chuyển tự do giữa các quốc gia với
nhau nên tỷ giá trao đổi thực tế trên thị trường tự do không biến động đáng kể so
với bản vị vàng.
Thứ

ba
, dưới chế độ bản vị vàng, Ngân hàng trung ương luôn phải duy trì
một lượng vàng dự trữ trong mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành, tức tiền
do NHTW phát hành được “bảo đảm bằng vàng 100%” và tiền được chuyển đổi tự
do không hạn chế ra vàng.
Qua đó, ta có thể thấy trong chế độ bản vị vàng, lượng vàng dự trữ của một
quốc

gia

quyết

định

lượng


cung

tiền

của

quốc

gia

đó.

Chính

phủ

điều

tiết

mức
cung tiền nội địa theo cùng chiều với dòng lưu chuyển vàng: Khi dòng vàng nhập
vào tăng (cán cân thanh toán thặng dư, phần thặng dư được thanh toán bằng vàng
)
thì dự trữ vàng tăng dẫn đến lượng cung tiền tăng và ngược lại, khi dòng xuất vàng
4
tăng (cán cân thanh toán thâm hụt, phần thâm hụt phải thanh toán bằng vàng) dẫn
đến dự trữ vàng giảm và cung tiền giảm.
Trong


hệ

thống

bản

vị

vàng,

cán

cân

thanh

toán

của

các

nước

được

điề
u
chỉnh theo cơ chế dòng vàng – giá cả (price-specie flow mechanism), tác động của

cơ chế này được tóm tắt qua bảng dưới đây:
Quốc gia có thâm hụt BOP Quốc gia có thặng dư BOP
Dòng vàng chảy ra Dòng vàng chảy vào
Cung tiền giảm Cung tiền tăng
Giảm thu nhập Giảm giá cả Tăng thu nhập Tăng giá cả
Giảm nhập khẩu Tăng xuất khẩu Tăng nhập khẩu Giảm xuất khẩu
BOP trở về trạng thái cân bằng
Trong những năm từ 1880- 1914, chế độ bản vị vàng được nhìn nhận như
một

hệ

thống

hoạt

động

hoàn

hảo,

với

những

quy

tắc


lưu

thông

tiền

tệ

được

á
p
dụng tương đối phổ biến và triệt để ở các quốc gia. Tuy nhiên, khi chiến tranh thế
giới

thứ

nhất

bùng

nổ,

các

quốc

gia

tham


chiến

cần



tiền

để

tài

trợ

cho

chiến
tranh dẫn đến việc phát hành tiền mà không cần bảo đảm bằng vàng như quy tắc
của hệ thống, dòng lưu chuyển vàng cũng không được tự do như trước nữa, điều
này dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống bản vị vàng.
Tuy

nhiên,

chế

độ

bản


vị

vàng

vẫn

được

công

nhận



chế

độ

hoạt

động
hoàn hảo nhất cho đến thời điểm này với những ưu điểm:
- Giúp cho thương mại và đầu tư thế giới phát triển và hưng thịnh. Điều này
được

chứng

minh


trong

thời



1880



1914,

với

hàng

rào

thương

mại

vàng
được gỡ bỏ hoàn toàn và kiểm soát ngoại hối và chu chuyển vốn ít khi được áp
dụng cộng với

việc không có

một sự


phá

giá hay

nâng giá nào giữa

các đồng
tiền của các quốc gia lớn trên thế giới đã giúp cho thị trường vốn quốc tế phát
triển với trung tâm là London.
- Khuyến khích phân công lao động quốc tế, giúp gia tăng phúc lợi thế giới.
Trong

chế

độ

bản

vị

vàng,

các

nhà

đầu




gần

như

được

đảm

bảo

chắc

chắn
trước những rủi ro về tỉ giá, điều này khiến cho thương mại và đầu tư thế giới
phát triển, luồng vốn lưu chuyển tự do giữa các quốc gia để tìm kiếm lợi nhuận
cao nhất.
- Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán vận hành trơn tru. Với cơ chế dòng
vàng -

giá cả như đã nêu ở trên, những bất cân đối trong cán cân thanh toán của
các quốc gia sẽ tự động được điều chỉnh về trạng thái cân bằng. Trong trường
hợp các quốc gia tuân thủ những quy tắc của hệ thống, cơ chế dòng vàng – giá
5
cả trên sẽ vận hành một cách trơn tru và hiệu quả.
- Mâu thuẫn quyền lợi giữa các quốc gia ít khi xảy ra. Vì có sự tác động của
cơ chế dòng vàng – giá cả nên những thâm hụt hay thặng dư trong cán cân thanh
toán của một quốc gia được điều chỉnh một cách tự động theo quan hệ cung cầu
phổ biến, do đó, trong thời kì này ít khi xảy ra những mâu thuẫn về quyền lợi
giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, chế độ bản vị vàng cũng tồn tại một số hạn chế như:

- Nền kinh thế thường xuyên phải trải qua sự bất ổn định vì cơ chế điều chỉnh
cán cân thanh toán quốc tế thông qua sự thay đổi mức giá cả, lãi suất, thu nhập
và thất nghiệp.
- Quốc gia có thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế phải trải qua thời kì kinh
tế

đình đốn,

tỷ

lệ

thất

nghiệp

cao;

trong

khi

đó

quốc

gia




thặng



cán cân
thanh toán thì phải trải qua thời kì lạm phát.
- Những mỏ vàng có thể phát hiện bất cứ lúc nào, do đó làm tăng lượng cung
ứng

tiền





thể

dẫn

đến

tình

trạng

lạm

phát.

Ngược


lại,



những

quốc

gia
khan hiếm vàng thì sẽ bị hạn chế lượng cung ứng tiền, và trở thành nguyên nhân
gây kìm hãm nền kinh tế.
- Mặt khác, trong chế độ bản vị vàng không có những cơ chế ràng buộc các
quốc gia phải tuân thủ các quy tắc của hệ thống nên trên thực tế, quy tắc về đảm
bảo số tiền phát hành trên cơ sở lượng vàng dự trữ thường bị bỏ qua.
- Với cơ chế điều chỉnh thông qua dòng vàng lưu chuyển tự do giữa các quốc
gia và việc phát hành tiền dựa trên lượng vàng dự trữ khiến cho việc điều hành
của

Ngân

hàng

trung

ương

kém

linh


động,

vai trò

của Ngân

hàng

trung

ương
trong nền kinh tế cũng không rõ nét.
/>Bài giảng tai chính quốc tế ths: Phạm thị Bích Duyên GV: Võ Hải Long
2.

Hệ

thống

tiền

tệ

quốc

tế

giữa


hai

cuộc

đại

chiến

thế

giới:
Khi

chiến

tranh

thế

giới thứ

nhất

bùng nổ

năm 1914,

hệ

thống tiền


tệ

thế
giới

rơi

vào

thời



hỗn

loạn,

hệ

thống

bản

vị

vàng

tồn


tại

hơn

35

năm

đã

phải
nhường chỗ cho hệ thống tỷ giá thả nổi. Các quốc gia không ngừng in thêm tiền để
tài trợ cho chiến tranh dẫn đến khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước
rơi vào tình trạng lạm phát, thậm chí siêu lạm phát. Tại Đức, từ năm 1913 đến năm
1918, tốc độ phát hành tiền tệ tăng 8.5 lần, đồng DEM sụt giá 50% so với USD.
Năm 1921, tốc độ phát hành tiền của NHTW Đức tăng gấp 5 lần so với năm 1918,
năm 1922 tăng gấp 10 lần so với năm 1921, và đến tháng 8/1923, một chiếc bánh
mì hay một phong thư ở Đức đã có giá 1000DEM.
Trong nỗ lực khôi phục lại thời kì hoàng kim của thương mại thế giới trong
chế độ bản vị vàng, năm 1922,

các nước đã tham gia hội nghị tiền

tệ - tài chính
quốc tế tổ chức tại Genoa (Italia) mở đường hình thành hệ thống bản vị hối đoái
vàng, trong đó, đồng GBP

là đồng tiền thanh

toán và dự trữ quốc tế. Năm 1925,

nước Anh ấn định bản vị vàng như lúc trước chiến tranh trong khi lúc này tỉ lệ lạm
phát

của nước

Anh

cao

hơn

nhiều

so

với

mức

trước chiến

tranh,

điều

này

khiến
cho nền kinh tế Anh rơi vào tình trạng thiểu phát, thất nghiệp tăng cao. Tỉ lệ thất
nghiệp của nước Anh từ 3% năm 1920 tăng vọt lên đến 18% năm 1926, các cuộc

bãi công diễn ra khắp

nơi, nước Anh rơi vào khủng hoảng.

Đến năm 1929,

cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ, cuối cùng, ngày 21/9/1931, nước Anh buộc
phải từ bỏ chế độ tỉ giá cố định và bản vị vàng. Hệ thống Genoa sụp đổ.
6
Trong giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Mĩ vẫn duy trì chuyển đổi
USD ra vàng, bên cạnh đó, do không bị tàn phá do chiến tranh nên lạm phát ở Mĩ
thấp hơn ở các nước Châu Âu vì vậy lúc này vai trò của USD cũng được nâng lên,
một số quốc gia dự trữ bằng USD

bên cạnh

GBP. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng
kinh tế 1929 – 1933 dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính và thương mại quốc
tế,

hệ

thống

tiền

tệ

quốc


tế

rơi

vào

thời



hỗn

mang,

các

quốc

gia

bất

hợp


c
chính sách cho đến khi bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1939.
3.


Giai

đoạn

sau

chiến

tranh

thế

giới

thứ

hai

(từ

năm

1946

đến

nay)
3.1.

Hệ


thống

Bretton

Woods: (BWS)
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Châu Âu bị tàn phá nặng nề, nền
kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên, vào thời điểm này,
tiềm lực kinh tế của nước Mỹ lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, trong vòng hai
thập kỉ đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai Mỹ là trung tâm kinh tế, tài chính duy
nhất của thế giới. Đặc biệt, Mỹ nắm đến gần 75% trữ lượng vàng thế giới. Nhằm
khôi phục nền kinh tế thế giới, cải tổ hệ thống tiền tệ quốc tế tránh được những sai
lầm trước đây, cũng như tạo ra một trật tự tiền tệ quốc tế mới để tránh sự tan rã các
mối quan hệ tiền tệ trên phạm vi quốc tế vào những năm 1930s, một hội nghị đã
được tổ chức tại Bretton Woods, New Hampshire, Mỹ với sự tham gia của 730 đại
biểu tới từ 44 quốc gia trên thế giới trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Đức,… Tại hội
nghị này, hệ thống Bretton Woods đã được phê chuẩn cùng với sự ra đời của hai tổ
chức tài chính quốc tế:
-

Quỹ

tiền

tệ

quốc

tế


(International

Monetary

Fund



IMF)



nhiệm

vụ
theo dõi giám sát hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế.
- Ngân hàng thế giới (World Bank – WB) có nhiệm vụ hỗ trợ cho các nước
Châu

Âu

phục

hồi

nền

kinh

tế


sau

chiến

tranh



huy

động

vốn

từ

những

nước
phát

triển

để

cho

vay


lại

với

lãi

suất

thấp



những

nước

nghèo,

kém

phát

triển
nhằm giúp họ phát triển nền kinh tế.
Tại

hội

nghị


Bretton

Woods,

các

quốc

gia

đã

thống

nhất

những

quy

định
của hệ thống tiền tệ quốc tế:
Thứ

nhất



hệ


thống

tỉ

giá

cố

định

nhưng



thể

điều

chỉnh.

Hệ

thống
Bretton Woods quy định các quốc gia ấn định tỉ giá trung tâm của đồng nội tệ với
USD và tỉ giá này chỉ được phép dao động trong khoảng +-1%. Bên cạnh đó, các
quốc gia phải đồng ý chuyển đổi không hạn chế đồng nội tệ ra USD và ngược lại
tại mức tỉ giá đã ấn định cho các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Trong khi đó,
Mĩ đảm bảo giữ giá trị đồng USD với vàng theo tỉ lệ $35/ounce vàng và Mĩ cam
kết chuyển đổi không hạn chế USD ra vàng tại mức giá này.
Thứ


hai


các quốc gia thành viên sẽ đóng góp vốn vào quỹ của IMF với tỉ
lệ ¼ là bằng vàng và ¾ là bằng bản tệ để hình thành nên quỹ tiền tệ của IMF. Căn
cứ vào tỉ trọng vốn góp của các quốc gia, IMF cung cấp mỗi quốc gia một hạn mức
tín dụng. Khi một quốc gia thành viên gặp vấn đề về thâm hụt cán cân thanh toán,
họ sẽ được rút lần đầu là 25% hạn mức tín dụng, sau đó, những quốc gia nào chấ
p
nhận những chính sách kinh tế do IMF đưa ra sẽ được rút vốn 4 lần tiếp theo, mỗi
lần là 25% hạn mức tín dụng.
Thứ

ba



khi

gặp

những

bất

cân

đối


nghiêm

trọng

trong

cán

cân

thanh
7
toán, các quốc gia có thể thay đổi tỉ giá trung

tâm. Tuy nhiên, nếu mức thay đổi
trên 10% thì phải được sự đồng ý của IMF. Khả năng thay đổi tỉ giá trung tâm là
giải

pháp

cuối

cùng

giúp

cân

bằng


cán

cân

thanh

toán



đây

được

xem



mộ
t
trong những đặc điểm cơ bản của hệ thống Bretton Woods.
Với những thỏa thuận trên, có thể thấy trong chế độ Bretton Woods, đồng
USD

đã

trở thành

đồng


tiền

dự

trữ

quốc

tế



quyền

lực

trung

tâm

đã tập trung
trong tay Mĩ,

quốc gia duy nhất có quyền

phát

hành

USD.


Ngoài

ra, Mĩ cũng là
quốc gia duy nhất thực sự theo hệ thống bản vị vàng, còn các quốc gia khác theo
chế độ bản vị hối đoái vàng dựa trên dolar Mĩ, hay chế độ bản vị dolar Mĩ.
* Những tác động tích cực của Bretton Woods
Các quốc gia theo hệ thống Bretton Woods sẽ có nguồn dự trữ của họ dưới
dạng tiền tệ của một nước duy nhất và chỉ có nước đó mới thực sự theo hệ thống
bản vị vàng. Hệ thống hối đoái này cho phép các nước thành viên tiết kiệm được
vàng vì họ có thể dùng vàng hoặc ngoại hối làm phương tiện thanh toán quốc tế.
Hệ thống này còn cho phép các nước thành viên hưởng thu nhập trong việc nắm
giữ ngoại hối, trong cất trữ vàng không đem lại thu nhập. Ngoài ra các nước còn
giảm được chi phí giao dịch do việc chuyển dịch vàng giữa các nước với nhau. Dự
trữ tiền tệ quốc tế được cung ứng dồi dào khi tỷ giá hối đoái ổn định tạo thuận lợi
cho đầu tư và mậu dịch quốc tế suốt hai thập niên 50 và 60.
* Sự sụp đổ của chế độ Bretton Woods
Tuy nhiên, vào cuối những năm 1950s và trong những năm 1960s, Mỹ đã chịu
thâm hụt mậu dịch nặng nề với các nước khác. Tổng dự trữ vàng của Mỹ giảm thấp
so với Đôla ngoại tệ. Trong khi đó, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle thúc đẩy
ngân hàng Pháp bán vàng gửi trong ngân khố Mỹ nhằm tháo gỡ nguồn dự trữ Đôla
của họ. Trong giai đoạn này, đồng USD cũng phải đối mặt với sự tấn công mạnh
mẽ của những nhà đầu cơ tiền tệ trên thế giới, đứng trước sức ép phá giá so với
vàng. Tuy nhiên, vì các thỏa ước của hệ thống Bretton Woods với chế độ tỷ giá cố
định, đồng USD không thể phá giá so với vàng. Trong khi đó các nước có cán cân
vãng lai thặng dư cũng không muốn tăng giá đồng tiền của mình hay thực hiện
chính sách tiền tệ thu hẹp. Điều này khiến cho tình trạng dư thừa USD ngày càng
sâu sắc hơn, hệ thống Bretton Woods đứng trước nguy cơ khủng hoảng. Nhằm
tránh những khủng hoảng hệ thống, ngăn cản những toan tính vào đồng USD, năm
1962, “Thỏa thuận chung về vay mượn – GAB” ra đời. Các nước tham gia GAB bao

gồm Mỹ và 9 nước khác thỏa thuận cho IMF vay những khoảng vốn bổ sung trong
trường hợp một trong các nước thành viên có nhu cầu vốn với quy mô lớn. Ngoài
ra, NHTW Mỹ và 7 nước công nghiệp phát triển khác còn có những thỏa hiệp can
thiệp lên giá vàng trên thị trường thế giới nhằm giữ giá vàng ở mức 35$/ounce. Tuy
nhiên, đến năm 1967, người ta phát hiện ra rằng tổng lượng vàng dự trữ của Mỹ
nhỏ hơn tài sản nợ của Mỹ tính bằng USD, và nếu NHTW các nước vẫn tiếp tục
chuyển đổi USD ra vàng thì toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ. Vì vậy, các NHTW các
nước quyết định ngừng không chuyển đổi USD ra vàng và ngừng can thiệp vào giá
vàng trên thị trường thế giới. Từ đó hình thành hai giá vàng. Tuy nhiên vào đầu
những năm 1970s, cuộc tấn công của những nhà đầu cơ vào đồng USD thật sự trở
nên mạnh mẽ khi họ nhận ra USD và một số đồng tiền được định giá quá cao trong
8
khi một số đồng tiền khác lại bị định giá quá thấp. Đôla Mỹ mất giá rõ rệt, nhất là
trong tương quan với Mác Đức và Yên Nhật. Do vậy các NHTW Đức và Nhật đã
phải can thiệp mạnh vào thị trường hối đoái để bảo vệ giá trị ngang giá của mình.
Tuy nhiên, tình hình mất giá của Đôla Mỹ vẫn không được cải thiện. Cuối cùng
trước sức ép của làn sóng đầu cơ vào USD, ngày 15/08/1971, tổng thống Richard
Nixon đã tuyên bố chấm dứt việc chuyển đổi Đôla Mỹ ra vàng và trên thực tế hệ
thống Bretton Woods đã sụp đổ.
* Nguyên nhân sụp đổ chế độ Bretton Woods:
Giáo sư Robert Triffin đã lên tiếng cảnh báo nguy cơ sụp đổ về lâu dài đối với
chế độ hối đoái vàng. Do nhu cầu dự trữ ngày càng tăng, Hoa Kỳ phải liên tục chịu
thâm hụt cán cân thanh toán và dần dần niềm tin vào đồng Đôla Mỹ sẽ bị thương
tổn làm bùng nổ việc săn lùng Đôla. Các nước khác cũng phải dự trữ ngoại tệ để
giải quyết thâm hụt cán cân thanh toán và nếu thâm hụt kéo dài sẽ đưa đến sự sụp
đổ của hệ thống Bretton Woods. Mặt khác, nếu Mỹ áp dụng các biện pháp nhằm
cải thiện cán cân thanh toán thì sẽ dẫn đến thiếu hụt thanh khoản của hệ thống, tạo
áp lực thiểu phát nền kinh tế thế giới. Mâu thuẫn này được gọi là nghịch lý Triffin và
đã bộc lộ rõ đầu những năm 70 và chế độ hối đoái này dựa trên Đôla Mỹ đã hoàn
toàn sụp đổ.

Vấn

đề

đặc

quyền

phát

hành

USD.
Trong

chế

độ

Bretton

Woods,




quốc

gia


duy

nhất



quyền

phát

hành

đồng

tiền

dự

trữ

quốc

tế.

Điều

này

đồng
nghĩa với để cung cấp thanh khoản cho toàn thế giới, cán cân thanh toán của Mĩ

luôn



trong

tình

trạng

thâm

hụt

trong

khi

cán

cân

thanh

toán

của

các


quốc

gia
khác phải ở trong tình trạng thặng dư. Điều này dẫn đến nhiều bất đồng vì trong
khi các quốc gia khác phải tiêu dùng ít hơn những gì nó sản xuất ra thì nước Mĩ lại
được tiêu dùng nhiều hơn những gì nó sản xuất ra. Bên cạnh đó, dự trữ ngoại hối
của các quốc gia bằng đồng USD thường có lãi suất rất thấp, lại chịu ảnh hưởng
của lạm phát nên lãi suất thực của khoản dự trữ này càng nhỏ, điều này có nghĩa là
Mĩ có đặc quyền vay vốn từ các quốc gia khác với lãi suất thực rất thấp. Những
mâu thuẫn này đã góp phần vào sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods.
Tóm

lại
, từ sau năm 1973, chế độ tỉ giá cố định chính thức sụp đổ, các đồng
tiền đều thả nổi tỉ giá và không còn chuyển đổi tiền ra vàng nữa. Mặc dù vậy, cho
đến hiện nay, vai trò của đồng USD trong dự trữ quốc tế có thể nói là không thể
thay thế, nó vẫn chiếm 60% tổng dự trữ quốc tế của các quốc gia. Tuy nhiên, kể từ
khi đồng EURO ra đời cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế Châu Âu, đồng USD
đang phải đối mặt với

những thách thức to lớn nhằm duy trì ngôi vị độc tôn của
mình.
Tài liệu tham khảo: />bretton-wood
Bài giảng tai chính quốc tế ths: Phạm thị Bích Duyên GV: Võ Hải Long
3.2.

Hậu

Bretton


Woods
Các nước tham gia vào hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods cần những
nguồn dự trữ chính thức (Chính phủ và NHTW thường nắm giữ vàng và những
ngoại tệ được chấp nhận rộng rãi) để mua đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối
nước ngoài nhằm duy trì tỷ giá của quốc gia. Tuy nhiên, nguồn cung quốc tế của
9
hai tài sản dự trữ chủ yếu là vàng và đôla Mỹ lại không tương xứng với sự mở rộng
của thương mại thế giới và sự phát triển tài chính đang diễn ra. Vì vậy, cộng đồng
thế giới quyết định tạo ra một loại tài sản dự trữ quốc tế mới dưới sự bảo hộ của
IMF - Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs – Special Drawing Rights). SDRs ra đời năm
1969 nhằm giảm bớt áp lực đối với đồng Đôla. Nó là rổ tiền tệ của các đồng tiền
mạnh được phân bố cho các thành viên của IMF. Các nước có thể dùng SDRs để
thanh toán quốc tế như vàng và ngoại hối.Có thể coi SDR như là một đồng tiền
"danh nghĩa" vì nó không có hình dạng vật chất cụ thể, được IMF tạo ra và tồn tại
dưới dạng các khoản mục kế toán đặc biệt do quỹ quản lý.
Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) không chỉ là tiền dự trữ mà còn là loại tiền định giá
trong giao dịch quốc tế. Giá trị của nó ổn định hơn so với đồng tiền thành phần.
SDRs trở thành loại tiền định giá hấp dẫn trong các hợp đồng tài chính và thương
mại quốc tế trong môi trường bất ổn định của tỷ giá hối đoái.
Lúc đầu SDRs được phát thảo như là con số bình quân được điều chỉnh của 16
loại tiền tệ của những nước có lượng xuất khẩu vượt hơn 1% của toàn thế giới. Số
phần trăm đóng góp của mỗi loại tiền tệ vào SDRs tương đương phần chiếm giữ
của nước đó trong lĩnh vực xuất khẩu. Đến năm 1981, SDRs được đơn giản hóa
thành phần của nó chỉ gồm 5 đồng tiền mạnh nhất là Đôla Mỹ, Mác Đức, Yên Nhật,
Bảng Anh và Franc Pháp. Tỷ trọng mỗi đơn vị tiền trên được cập nhật theo định kỳ
phản ánh tầm quan trọng tương đối của mỗi quốc gia trong lĩnh vực kinh doanh
hàng hóa và dịch vụ quốc tế.
Ban

đầu,


giá

trị

của

1SDR

được

quy

định

bằng

1/35

ounce

vàng

tương
đương với $1. Từ năm 1976, giá trị SDR được chuyển sang xác định bằng giá trị
của một rổ tiền tệ gồm 16 đồng tiền. Bắt đầu từ năm 1981, giá trị của SDR được
điều chỉnh 5 năm một lần và được xác định dựa vào giá trị của 5 đồng tiền mạnh
trên thế giới và tầm quan trọng tương đối của nó đối với thương mại và tài chính
toàn cầu.
Loại tiền 1981 - 1985 1986 - 1990 1991 - 2000

Đôla Mỹ 42% 42% 40%
Mác Đức 19% 19% 21%
Yên Nhật 13% 15% 17%
Bảng Anh 13% 12% 11%
France Pháp 13% 12% 11%
SDRs



thể

giúp

các

nước thành

viên ổn

định

cung

cầu

tiền

tệ,

tỷ


giá

hối
đoái và giúp cân bằng cán cân thanh toán ngắn hạn. Nhưng từ khi ra đời đến nay
nó chưa thực sự phát huy vai trò của mình và đặc biệt đối với chế độ tỷ giá thả nổi,
SDRs chỉ được biết đến với tư cách là tài sản dự trữ rất hạn chế, nó chủ yếu phá
t
huy tác dụng như một đơn vị tính toán.
/>sdrsspecial-drawing-rights
Bài giảng tai chính quốc tế ths: Phạm thị Bích Duyên GV: Võ Hải Long
10
3.2.2.

Chế

độ

tiền

tệ

Jamaica
Từ khi chế độ Bretton Woods chính thức sụp đổ vào năm 1973, các quốc
gia chủ yếu theo chế độ tỉ giá thả nổi, tuy nhiên, chế độ này chưa có được sự thừa
nhận quốc tế chính thức. Đến năm 1976, tại Jamaica, hội nghị ủy ban lâm thời IMF
quyết định “Sửa đổi lần thứ hai các điều khoản của IMF”, các điều khoản này được
các quốc gia thành viên chính thức thông qua vào tháng 4/1978. Theo đó, hệ thống
Jamaica có các đặc điểm:
-


Bãi

bỏ



chế

cố

định

tỉ

giá

theo

vàng,

các

quốc

gia

thành

viên


không
được cố định giá trị đồng tiền của mình với vàng. Vàng được giao dịch như một
hàng hóa bình thường trên thị trường.

Dự trữ của IMF lúc này sẽ được tính theo
SDR.
- Thừa nhận chế độ tỉ giá thả nổi. Bên cạnh đó, các quốc gia có quyền tự lựa
chọn chế độ tỉ giá mà mình cho là phù hợp.
- Các quốc gia tự

chịu trách nhiệm về việc điều chỉnh cán cân thanh

toán
của mình, miễn là không gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quốc gia đối tác thương
mại và nền kinh tế thế giới.
- IMF cũng khuyến khích các quốc gia phối hợp chính sách nhằm ổn định tỉ
giá, thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, cho phép hình thành các khu vực tiền
tệ.
- IMF giữ vai trò giám sát chặt chẽ hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách tỉ
giá của các quốc gia. Tuy vai trò của IMF được nâng cao trong sửa đổi lần hai này
nhưng thực sự IMF vẫn không được trao quyền trừng phạt những quốc gia không
tuân thủ những quy tắc này.
Trên thực tế, hệ thống Jamaica là một khẳng định chính thức cho sự chấm
dứt của hệ thống Bretton Woods. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, các quốc gia vẫn
nắm giữ dự trữ bằng vàng, USD, hoặc bằng SDR, ngoài ra, một số đồng tiền như
EUR, JPY, GBP trở thành những ngoại tệ mạnh trên thế giới. Do mỗi quốc gia có
quyền chọn

một chế độ


tỉ

giá phù hợp

trong

khi mỗi chế

độ tỉ

giá

đều có

ưu và
nhược điểm khác nhau, bên cạnh đó, các quốc gia thì luôn luôn theo đuổi lợi ích
cho riêng mình nên trong giai đoạn này tỉ giá biến động mạnh và đôi khi các quốc
gia lâm vào tình trạng bất cân đối cán cân thanh toán nghiêm trọng.
Trong giai đoạn từ năm 1980 – 1985, Mĩ áp dụng chính sách thắt chặt tiền
tệ đồng thời mở rộng tài khóa nhằm kiềm chế lạm phát, dẫn đến đồng USD tăng
giá,

thâm hụt ngân

sách và thâm hụt cán cân

vãng lai.

Chính sách


kiềm chế lạm
phát khiến cho lãi suất ở Mĩ tăng, lãi suất bình quân tăng từ 11.2% năm 1979 lên
20% năm 1981, lãi suất cơ bản cao hơn đến 21.5%, lãi suất công trái tăng vọt lên
17.3%, dòng vốn đầu tư ồ ạt chảy vào Mĩ. Tuy nhiên, việc USD tăng giá tác động
làm thu hẹp xuất khẩu của Mỹ, cán cân vãng lai của Mỹ ngày càng xấu đi nhanh
chóng, đến năm 1985, thâm hụt cán cân vãng lai của Mĩ đã chiếm đến 3.5% GDP.
Những mối quan tâm ngày càng tăng về nền kinh tế Mĩ và sự kiện lên giá của USD
đã

trở

thành

một

trong

những



do

căn

bản

để


đi

đến

Hiệp

định

Plaza

(Plaz
a
Accord).
3.2.3.

Hiệp

định

Plaza,

thỏa

ước

Louvre:
Ngày 22/09/1985, hiệp định Plaza (Plaza Accord) được bộ trưởng tài chính
5 nước Mĩ, Anh, Nhật, Đức, Pháp kí tại khách sạn Plaza, New York, Mĩ. Mục đích
11
của hiệp định là làm cho đồng USD mất giá một cách có kiểm soát so với các tiền

tệ chủ yếu khác. Theo hiệp định này, các nước đã cam kết “hợp tác với nhau chặt
chẽ hơn nữa để khiến cho đồng USD tiếp tục giảm giá”. Để thực hiện cam kết này,
các nước đã tiến hành

mua vào DEM

và JPY,

bán

ra USD.

Chỉ trong vòng

mấy
tháng sau khi “Hiệp định Plaza” được kí kết, tỉ giá JPY/USD từ 250 JPY/USD đã
lên đến 149 JPY/USD.
Tuy nhiên,

việc đồng

USD giảm giá quá nhanh dẫn đến những lo ngại về
nguy



sụp

đổ


của

đồng

USD.

Điều

này

dẫn

đến

ngày

22/2/1987,

hiệp

định
Louvre

được

nhóm

các

nước


G7

thông

qua

tại

Bảo

tàng

Louvre,

Paris,

Pháp

đ
ã
tuyên

bố

chấm

dứt

những


thỏa

thuận

nhằm

phá

giá

USD

trong

hiệp

định

Plaza.
Các nước cũng thỏa thuận sẽ hợp tác với nhau chặt chẽ để duy trì sự biến động t

giá xung quanh mức tỉ giá hiện hành.
Sau hiệp định Louvre, tỉ giá được duy trì tương đối ổn định cho đến tháng
10/1987, khi diễn ra sự sụp đổ của thị trường chứng khoán New York và hàng loạt
các thị trường chứng khoán trên thế giới. Để giảm thiểu rủi ro do suy thoái kinh tế,
các

nước


đồng loạt

áp

dụng chính

sách

nới

lỏng

tiền

tệ,

giảm

lãi

suất.

Đến


m
1988, khi cán cân thương

mại của Mĩ bắt đầu


có dấu hiệu được cải thiện, giá trị
của USD cũng bắt đầu được khôi phục.
/>kinh-te-nhat-ban-giai-doan-1985-2000-47389/
3.2.4.

Hệ

thống

tiền

tệ

quốc

tế

hiện

nay
Sau khi áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm đối phó với cuộc khủng
hoảng năm 1987, các quốc gia lại phải đối mặt với lạm phát. Tình hình này buộc
các

nước

phải hi

sinh


mục tiêu tăng

trưởng

để kiềm

chế

lạm

phát.

Lãi

suất

tăng
cao, tỉ giá biến động mạnh và liên tục đã tạo cơ hội cho các nhà đầu cơ liên tục tấn
công vào

các đồng tiền trên thị trường ngoại

hối. Làn sóng đầu cơ lên cao trong
những

năm

1990

khiến


thế

giới

được chứng

kiến

tình

trạng

hỗn

loạn

tiền

tệ

với
quy mô và nội dung chưa từng có trước đây.
Ngày nay, nhìn chung nền kinh tế toàn cầu phát triển theo hướng đa phương
hóa và hội nhập mạnh mẽ, hoạt động của các định chế tài chính quốc tế được tăng
cường trên nhiều lĩnh vực đời sống, kinh tế - xã hội của các nước. Đặc biệt, từ sau
năm 1973, các quốc gia có quyền tự chọn cho mình một chế độ tỉ giá phù hợp.

Do
đó, hệ thống tiền tệ quốc tế hiện hành được gọi là một hệ thống “không hệ thống”,

trong đó có nhiều chế độ tỉ giá song song cùng tồn tại:
Chế

độ

tỉ

giá

không



đồng

tiền

pháp

định

riêng:
Chế độ tỉ giá không có đồng tiền pháp định riêng là chế độ tỉ giá trong đó
một quốc gia không sử dụng đồng tiền pháp định riêng mà sử dụng đồng tiền của
một

nước

khác


trong

lưu

thông

như đồng

tiền

pháp định

duy

nhất

hoặc

là thành
viên của một liên minh tiền tệ,

trong đó các nước thành viên thống nhất sử dụng
một đồng tiền pháp định chung.
Theo phân loại của IMF vào tháng 4/2008, hiện trên thế giới có 10 nước áp
dụng

chế

độ


tỉ

giá

này

như:

Ecuador,

El

Sanvador,

Marshall

Island,

Liên

bang
Micronesia, Panama, Timor – Lester (dùng đồng USD), Montenegro, San Marino
12
(dùng đồng Euro), Kiribati (dùng đồng AUD).
Chế độ tỉ giá không có đồng tiền pháp định riêng có lợi thế là giúp cho nền
kinh

tế

các


nước

nhỏ

tránh

khỏi

những

biến

động

về

tỉ

giá

khi

họ

sử

dụng

một

đồng tiền mạnh của một quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, việc không
có đồng tiền pháp định riêng mà phải dùng một đồng tiền của nước khác như đồng
tiền pháp định của mình khiến nền kinh tế các nước này bị phụ thuộc vào nền kinh
tế của quốc gia phát hành đồng tiền đó.
Chế

độ

bản

vị

tiền

tệ
Theo chế độ này, chính phủ phải cam kết chính thức về việc chuyển đổi nội
tệ sang ngoại tệ là

đồng tiền bản vị tại một mức tỷ giá

cố định. Đặt ra những hạn
chế nghiêm ngặt để đảm bảo việc thực thi cam kết.
Chính phủ neo đồng tiền của mình (chính thức hay ngầm) với một đồng tiền
chính hay một rổ các đồng tiền tại một mức giá cố định, tỷ giá dao động trong một
biên độ hẹp là ±1% quanh tỷ giá

trung tâm.
Theo phân loại của IMF (tháng 4/2008), hiện trên thế giới có 13 quốc gia áp
dụng chế độ tỉ giá này, trong đó có 8 quốc gia chọn bản vị USD (như Hong Kong
SAR, Dominica…), 4 quốc gia chọn bản vị đồng EUR (như Estonia, Lithuania…)

và Brunei Darussalam chọn bản vị đồng dollar Singapore.
Tương tự như chế độ tỉ bản vị vàng, trong chế độ bản vị tiền tệ, chính phủ
cam kết chuyển đổi nội tệ sang đồng bản vị tại một mức giá cố định và mức giá
này chỉ được dao động trong biên độ ± 1%, điều này buộc NHTW phải nắm giữ
lượng ngoại tệ trong mối tương quan với lượng tiền phát hành. Chế độ này chỉ vận
hành tốt khi đồng tiền bản vị có giá trị ổn định và dự trữ ngoại hối của NHTW đủ
để đảm bảo thanh khoản trong nước. Tuy nhiên, khi lượng dự trữ ngoại hối không
đủ, NHTW buộc phải đi vay ngoại tệ để phát hành tiền và bù đắp thâm hụt cán cân
thanh toán và thâm hụt ngân sách, điều này có thể dẫn đến khủng hoảng nợ chính
phủ như những gì đã diễn ra ở Argentina vào năm 2001. Mặt khác, tỉ giá hối đoái
quy định một cách cứng

nhắc

và lãi suất được quyết định

bởi NHTW phát hành
đồng tiền bản vị khiến nền kinh tế bị phụ thuộc và khó tránh khỏi những cú sốc từ
bên ngoài.
Chế

độ

tỉ

giá

cố

định


thông

thường
Chế độ tỉ giá cố định thông thường là chế độ tỉ giá trong đó Chính phủ neo
đồng

tiền

của

mình

(chính

thức

hay

ngầm)

với

một đồng

tiền

chính

hay


một
rổ các đồng tiền tại một mức giá cố định, đồng thời cho phép tỉ giá dao động trong
một biên độ hẹp là ±1% quanh tỷ giá trung tâm.
Theo phân loại của IMF (tháng 4/2008), hiện nay trên thế giới có 68 quốc
gia áp dụng chế độ tỉ

giá này trong đó có Việt Nam (được xếp vào

nhóm những
quốc gia neo tỉ giá vào đồng USD).
Theo phân loại của IMF vào năm 2002, Việt Nam được xếp vào nhóm nước
áp dụng chế độ tỉ giá thả nổi có điều tiết, tuy nhiên, giai đoạn cuối năm 2007, đầu
năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu với áp lực giảm
giá đồng USD khiến tỉ giá biến động bất lợi cho nền kinh tế Việt Nam. Chính phủ
Việt Nam đã thực hiện can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm làm giảm áp lực
tăng

giá

VND

khiến

cho

tỉ

giá


USD/VND

trong

thời

gian

này

biến

động

không
nhiều trong khi giá USD đang giảm mạnh so với các ngoại tệ mạnh khác trên thế
giới. Tuy nhiên, đây chỉ là tình trạng tạm thời, trong dài hạn, Chính phủ Việt Nam
13
vẫn cam kết áp dụng chính sách tỉ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước.
Chế

độ

tỉ

giá

cố

định


với

biên

độ

dao

động

rộng
Chế độ tỉ giá cố định với biên độ dao động rộng là chế độ tỉ giá mà trong đó
Chính phủ neo đồng tiền

của mình

(chính thức hay

ngầm) tại

một tỷ giá cố định,
đồng thời cho phép tỉ giá dao động trong một biên

độ rộng hơn ±1% quanh tỷ giá
trung tâm.
Theo thống kê của IMF (tháng 4/2008), hiện trên thế giới chỉ có 3 quốc gia
áp dụng chế độ tỉ giá này là Cộng hòa Slovak (neo tỉ giá với EUR), Syria và Tonga
(neo tỉ giá với một rổ tiền tệ).
Chế độ tỉ giá cố định với biên độ dao động rộng tuy có giảm bớt tính cứng

nhắc của tỉ giá nhưng nó vẫn không tránh khỏi những nhược điểm của chế độ tỉ giá
cố định nói chung như không phản ánh đúng tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị
trường,

việc duy trì tỉ giá cố định sẽ tác động trực tiếp đến dự

trữ ngoại hối của
NHTW,

tuy

nhiên

trong

dài

hạn

thì

tỉ

giá

vẫn



xu


hướng

trở

về

mức

giá

thị
trường.
Chế

độ

tỉ

giá

cố

định

trượt
Đây

là chế độ tỷ giá cố định,


nhưng

định kỳ,

tỷ giá trung tâm sẽ được điều
chỉnh theo

một tỷ lệ nhất định được thông

báo trước, hoặc để phản ánh thay đổi
trong một chỉ tiêu nhất định đã được lựa chọn (lạm phát, cán cân thương mại).
Theo thống kê của IMF (tháng 4/2008), hiện trên thế giới có 8 quốc gia áp
dụng chế độ tỉ giá này như: Trung Quốc, Bolivia, Iraq…
Chế

độ

tỉ

giá

cố

định

trượt



biên


độ
Đây là chế độ tỉ giá cố định với các nội dung:
- Tỷ giá được dao động trong một biên độ nhất định xung quanh tỷ giá trung
tâm.
- Tỷ giá trung tâm được điều chỉnh định kỳ theo tỷ lệ nhất định được thông
báo trước hoặc để phản ánh những thay đổi trong một chỉ tiêu nhất định đã được
lựa chọn.
Theo thống kê của IMF

(tháng 4/2008), hiện trên thế giới chỉ có hai quốc
gia áp dụng chế độ tỉ giá này là Costa Rica và Azerbaijan.
Chế độ tỉ giá cố định trượt và chế độ tỉ giá cố định trượt có biên độ về bản
chất vẫn là chế độ tỉ giá cố định nhưng nó khắc phục phần nào những nhược điểm
của

chế

độ

tỉ

giá

cố

định,

tỉ


giá

trung

tâm

được

điều

chỉnh

định



sẽ

phản

ánh
đúng hơn tương quan cung cầu trên thị trường ngoại hối, giảm gánh nặng duy trì tỉ
giá trên vai NHTW trong điều kiện nền kinh tế có biến động, các NHTW thường
chọn những mục tiêu như mục tiêu về lượng cung tiền, mục tiêu về kiểm soát lạm
phát

hay

mục


tiêu

về

cán

cân

thanh

toán

để

làm

căn

cứ

đưa

ra

tỉ

giá

trung



m trong từng thời kì.
Các

chế

độ

tỉ

giá

cố

định

thường

được

áp

dụng



các

nước


đang

phát
triển, thị trường ngoại hối còn non trẻ, để phát triển kinh tế cần có sự điều tiết của
chính phủ trong chính sách tỉ giá nhằm đảm bảo mục tiêu chính sách kinh tế của
quốc giá.
Chế

độ

tỉ

giá

thả

nổi



điều

tiết

không

thông

báo


trước
Chính phủ

tác động ảnh hưởng lên xu hướng vận động của tỷ giá thông qua
14
hành động can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối, nhưng không có

thông báo
trước hay cam kết về hướng và mức

độ can thiệp.
Theo thống kê của IMF (tháng 4/2008), hiện trên thế giới có 44 quốc gia áp
dụng chế độ tỉ giá này trong đó có Singapore, Thái Lan, Peru…
Chế

độ

tỉ

giá

thả

nổi

độc

lập
Trong chế độ tỷ giá thả nổi độc lập,


tỷ giá được xác định theo thị trường,
các hoạt động can thiệp ngoại hối chỉ nhằm mục đích giảm sự biến động quá mức
của tỷ giá, chứ không theo đuổi một hướng vận động hay một giới hạn cụ thể về tỷ
giá.
Theo thống kê của IMF (tháng 4/2008), hiện trên thế giới có 40 quốc gia áp
dụng chế độ tỉ giá này, là những nước có nền kinh tế phát triển như Anh, Mĩ, Đức,
Pháp…
Đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển, giá trị đồng tiền được duy
trì ổn định thì chế độ tỉ giá thả nổi sẽ giúp tự điều chỉnh những quan hệ cung cầu
trên thị trường ngoại hối,

lúc này NHTW đóng vai trò trung lập. Tuy nhiên, trên
thực tế, kể cả trong chế độ tỉ giá thả nổi độc lập, các NHTW cũng không hoàn toàn
chỉ đóng vai trò trung lập trên thị trường ngoại hối. Đặc biệt, trong giai đoạn khủng
hoảng, các NHTW luôn áp dụng tích cực những công cụ nhằm tác động vào tỉ giá
để ổn định tỉ giá, ổn định nền kinh tế.
3.2.5.

Hệ

thống

tiền

tệ

Châu

Âu


-

EMS
Kể từ sau khi Cộng đồng kinh tế Châu Âu - EEC ra đời vào năm 1957, quan
hệ thương mại giữa các nước thành viên ngày càng phát triển, nền kinh tế của các
quốc gia Châu Âu ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong kinh tế toàn cầu. Xuất
phát

từ những

lo ngại

cho

tiến

trình

phát

triển

thương

mại

trong

điều


kiện

tỉ

giá
không

ổn

định,

các

nước

thành

viên

Cộng

đồng

Kinh

tế Châu Âu đã

thống

nhất

hình thành

cơ chế tỉ giá Châu Âu (Exchange

Rate Mechanism – ERM)

vào

năm
1971. Cơ chế tỉ giá này còn được biết đến với tên gọi chế độ “Con rắn trong hang”,
một tên gọi đầy hình tượng của chế độ thỏa thuận tỉ giá giữa các quốc gia Châu
Âu. Đến tháng 3 năm 1979, Hệ thống tiền tệ Châu Âu (European Monetary System
– EMS) chính thức ra đời.
Trong hệ thống này, đơn vị tiền tệ chung của Châu Âu là đồng ECU – một
đồng tiền ghi sổ, các quốc gia xác định tỉ giá trung tâm theo ECU. Giá trị của đồng
ECU được neo vào một giỏ các đồng tiền Châu Âu với số lượng được xác định từ
trước và 5 năm tái định. Mỗi thành viên của EMS buộc phải đóng góp 20% lượng
vàng và USD đang nắm giữ vào Quỹ hợp tác tiền tệ Châu Âu và họ được quyền
nhận lại khối lượng tương đương bằng đồng ECU. EMS cũng quy định tỉ giá hối
đoái giữa mỗi cặp tiền của các nước tham gia được xác định theo tỉ giá chéo trung
tâm và không được biến động vượt ra ngoài giới hạn quy định chung là ±2.25%.
Nếu tỉ giá vượt ra ngoài vùng thỏa thuận, hai chính phủ sẽ phải can thiệp để tỉ giá
về lại mức quy định. EMS yêu cầu sự can thiệp phải có tính đối xứng, ví dụ khi
đồng

FRF

giảm

giá


nhiều

hơn

giới

hạn

cho

phép

so

với

đồng

DEM,

ngân

hàng
trung

ương

của


Pháp

buộc

phải

bán

đồng

DEM



mua

vào

FRF,

điều

này

làm
giảm

dự

trữ


bằng

đồng

DEM

của

ngân

hàng

trung

ương

Pháp.

Mặt

khác,

ngâ
n
hàng

trung

ương


Đức

cũng

phải

bán

đồng

DEM



mua

vào

đồng

FRF

qua

đó
15
buộc phải tăng dự trữ bằng đồng FRF của mình.
Với chế độ tỉ giá cố định như trên, EMS lại mắc phải sai lầm như trong chế
độ Bretton Woods, khi các nhà đầu cơ tấn công vào một đồng tiền, nó sẽ làm cho tỉ

giá biến động mạnh và ảnh hưởng đến cả hệ thống. Điều này đã được minh chứng
trong cuộc khủng hoảng hối đoái tháng 9/1992. Sau sự kiện Bức tường Berlin sụp
đổ vào tháng 10/1989, nước Đức hoàn toàn thống nhất. Để xây dựng nền kinh tế
và thống nhất hệ thống tiền tệ, chính phủ Đức đã hào phóng cho đổi 1 đồng Mark
Đông Đức lấy 1 đồng Mark Tây Đức dẫn đến tỉ lệ lạm phát tăng từ 3% năm 1990
lên gần 5% vào năm 1992. Để kiềm chế lạm phát, chính phủ Đức lại phát hành một
số lượng lớn trái phiếu dài hạn khiến cho lãi suất ở Đức tăng lên đến mức gần hai
con

số.

Theo

đó,

các

nước

Châu

Âu

khác



đồng

tiền


gắn

với

Mark

Đức

cũng
phải tăng lãi suất. Tuy nhiên, các quốc gia khác như Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha
đang

phải

đối

mặt

với

tình

trạng

nền

kinh

tế


quốc

gia

bị

đình

trệ,

họ

rất

miễn
cưỡng áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất. Điều này khiến cho dòng
tiền từ Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha chảy vào Đức, nơi có lãi suất cao và lạm phát
thấp, trong khi nền kinh tế các nước này ngày càng trì trệ do cung tiền giảm, lãi
suất tăng. Cuối cùng, sau những nỗ lực can thiệp mạnh mẽ nhằm bảo vệ cơ chế tỉ
giá chung, ngân hàng trung ương Anh buộc phải đầu hàng vào ngày 16/9/1992, họ
cương

quyết

rút

khỏi

EMS.


Sau

đó,

ngày

17/9/1992,

các

nhà

đầu



quay

san
g
đồng Lira củaÝ, nước này cũng buộc phải từ bỏ EMS. Làn sóng đầu cơ vẫn không
ngừng tấn công vào các đồng tiền thuộc EMS cho đến tháng 8/1993, các thống đốc
ngân hàng trung ương đi đến quyết định: con đường duy nhất để duy trì hệ thống
ERM khỏi bị sụp đổ là mở rộng biên độ dao động của các đồng tiền trong ERM từ
±2.25% lên ±15%, đây thực chất là sự chấm dứt của cơ chế tỉ giá chung Châu Âu –
ERM.
Không từ bỏ mục tiêu hình thành liên minh tiền tệ Châu Âu, các nước thành
viên EMS đã họp tại Maastricht, Hà Lan và kí hiệp định Maastricht, hiệp định này
chính thức có hiệu lực từ ngày 1/11/1993. Liên minh tiền tệ Châu Âu (EMU) được

thiết lập với một đồng tiền duy nhất là đồng EURO và một ngân hàng trung ương
duy nhất là ngân hàng trung ương Châu Âu (European Central Bank – ECB). Theo
đó, Ngân hàng trung ương Châu Âu sẽ là cơ quan duy nhất thực thi chính sách tiền
tệ chung cho

mọi quốc

gia thành viên.

Mặt khác,

đồng tiền chung

EURO

đã bắt
đầu

được

sử

dụng

kể

từ

tháng


1/1999

như



đồng

tiền

duy

nhất

của

các

nướ
c
thành viên EMU, các nước thành viên cố định giá trị đồng tiền quốc gia với đồng
EURO và tỉ giá EURO được thả nổi so với USD. Đến ngày 1/1/2002, đồng EURO
chính thức

đến tay người tiêu dùng và trở thành tiền tệ chính

thức

của các nước
thành


viên.

Bên

cạnh

đó,

thị

trường

chung

Châu

Âu

cũng

được

hoàn

tất

với

4

quyền tự do lưu thông: hàng hóa, dịch vụ, vốn và con người.
Có thể nói, kể từ khi ra đời đến nay, Liên minh Châu Âu đang ngày càng
lớn mạnh về nhiều mặt, đặc biệt hội tụ đông đảo các nền kinh tế phát triển (chiếm
khoảng

1/3 GDP

toàn cầu). Việc

hình thành một

khối thị trường chung

dần phát
triển thành một thị trường duy nhất đưa Liên minh Châu Âu trở thành khu vực trao
đổi thương mại rộng lớn nhất thế giới. Cùng với sự phát triển của thị trường chung
Châu

Âu,

vị

thế của

đồng

EURO

ngày


càng

được

cải

thiện



trở

thành

đối

thủ
16
cạnh tranh nặng kí với đồng USD trong vai trò là tiền tệ quốc tế.
Tuy

nhiên,

để duy

trì

được sự

ổn


định

của hệ

thống,

Liên

minh Châu

Âu
cần chú trọng đến việc dung hòa giữa lợi ích của mỗi quốc gia với lợi ích của toàn
hệ thống, sự phối hợp

chính sách chặt chẽ giữa các quốc

gia thành

viên,

và việc
nâng

cao

vai

trò


độc lập

của

Ngân

hàng

trung

ương

Châu

Âu



ECB

trong

điều
hành chính sách tiền tệ chung cho cả khối.
/>III/



K


ẾT



LUẬN
Kể từ sau những năm 1970, trải qua nhiều khủng hoảng, hệ thống Bretton
Woods

chính

thức

bị sụp

đổ

vào

năm

1973.

Lúc này,

các

nước

được tự


do

theo
đuổi chế độ tỉ giá phù hợp với chính sách về kinh tế, thương mại của mình. Mặc dù
vậy, vai trò của USD trong hệ thống tiền tệ quốc tế cho đến ngày nay vẫn là không
thể phủ nhận, nó chiếm trên 60% tổng dự trữ ngoại hối của các quốc gia trên thế
giới, là đồng tiền giao dịch chủ yếu trên thị trường ngoại hối và trong các giao dịch
xuất nhập khẩu.
Tuy nhiên, sau một loạt sự kiện có ảnh hưởng đến hệ thống tiền tệ thế giới,
đồng USD đang đứng trước những thách thức to lớn trong việc giữ địa vị là đồng
tiền dự trữ quốc tế như hiện nay. Trong đó, đặc biệt là sự kiện Liên minh Châu Âu
với đồng EURO ra đời và đang từng bước chứng minh tầm ảnh hưởng của nó đối
với thương mại quốc tế. Thêm vào đó, sự kiện ngày 11/09/2001 làm rung chuyển
cả thế giới, tòa tháp đôi, biểu tượng của nền tài chính Mỹ đã bị đánh sập; Tiếp đó
là việc Chính phủ Mĩ sa lầy vào cuộc chiến tranh Irap khiến giá dầu thế giới tăng
đồng nghĩa với đồng USD giảm giá; Sự kiện khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 –
1998 một lần nữa cho thấy những bất ổn của hệ thống tiền tệ quốc tế. Và đến năm
2007, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới với những hậu quả vô cùng nghiêm trọng
lại được châm ngòi từ

chính “quê hương” của đồng USD. Lúc này, niềm tin vào
sức

mạnh

cũng

như

sự


ổn

định

của

đồng

USD

càng

lung

lay

hơn

bao

giờ

hết.
Thêm vào đó là sự trỗi dậy của một số nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn
Độ… trong đó, đặc biệt là Trung Quốc. Có nhiều ý kiến cho rằng, sau một loạt sự
kiện kể từ sau khi Bretton Woods ra đời cho đến nay, hệ thống tiền tệ quốc tế ngày
nay đang phải đối mặt với khủng hoảng và nguy cơ bị thay thế bởi một hệ thống
khác, mà trong đó, vai trò đồng tiền dự trữ quốc tế sẽ được thay thế bởi một đồng
tiền không phải là đồng tiền quốc gia.

Tóm lại,

đơn vị tiền tệ của một nước có thể trở thành ngoại tệ dự trữ của
quốc tế chủ yếu là do thực lực kinh tế của nước đó. Vì vậy, việc đồng USD có còn
là đồng tiền “thống soái” nữa hay không phụ thuộc phần nhiều vào “sức khỏe” của
nền kinh tế Mỹ. Thậm chí, có quan điểm cho rằng khủng hoảng tài chính kinh tế
Tài liệu tham khảo:
/>truoc-chien-tranh-the-gioi-lan-thu-nhat-1914
/>17
Tài liệu tham khảo: />thong-tien-te-bretton-wood
Bài giảng tai chính quốc tế ths: Phạm thị Bích Duyên GV: Võ Hải Long
/>dong-den-nen-kinh-te-nhat-ban-giai-doan-1985-2000-47389/
18
19

×