Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ca dao tục ngữ và lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.5 KB, 11 trang )

Ca Dao và Lịch Sử
Phương Nghi

Ca dao, tục ngữ là tiếng nói của dân gian Việt, trải qua nhiều thời đại, từ
thời xưa và đến cả thời nay. Ca dao, tục ngữ phản ảnh tâm tư, tình cảm của
người dân trong sinh hoạt hằng ngày, không chỉ ở nơi đồng nội mà còn ở
thành thị, kinh đô. Tuy là ngôn ngữ dân gian, nhưng ca dao, tục ngữ không
phải là tiếng nói bình thường mà là ngôn ngữ có vần điệu, ngắn gọn và vì
ngắn gọn, có vần điệu nên dễ phổ biến rộng rãi trong quần chúng.

Từ trước, người ta thường có quan niệm rằng ca dao, tục ngữ là văn
chương bình dân, phát xuất từ nông thôn, thật sự ca dao tục ngữ là tiếng nói
của nhiều tầng lớp dân chúng, và có lẽ phần lớn tác giả là những kẻ sĩ, cư
ngụ ở khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn.

Ca dao, tục ngữ là loại văn chương truyền khẩu, biểu hiện nhiều mặt sinh
hoạt của quần chúng Việt Nam, nhất là về mặt tình cảm, nên trong ca dao rất
phong phú khúc hát trữ tình. Ngoài ra, đặc biệt ca dao, tục ngữ còn biểu lộ
những nhận định của dân chúng đối với những hành vi tốt, xấu của con
người trong xã hội khi giao tiếp với nhau, hay bình luận, phê phán giới lãnh
đạo trong chính quyền hiện tại, hoặc trong quá khứ, tức là những nhân vật
lịch sử và các biến cố liên quan đến vận mệnh dân tộc và đất nước.

Trường hợp này, ca dao, tục ngữ có thể xem là một hình thức ngôn luận
của quần chúng ở thời đại xưa, khi xã hội chưa phát triển, chưa có điều kiện
phổ biến dư luận của người dân như là báo chí hoặc các hình thức thông tin
trong thời đại mới, mặc dù từ trước đã có thư tịch nhưng chỉ là để chuyển tải
văn chương, sử liệu, mô phạm (thánh mô hiền phạm) v v

Bài viết này chỉ đề cập đến phần ca dao, tục ngữ có liên hệ với các vấn đề
lịch sử Việt Nam.



Nho giáo từ Trung Quốc truyền sang đất Việt, qua giới nho sĩ, từ trước
thường có quan niệm trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô). Nhưng đối với người dân Việt thì không có quan niệm kỳ thị đó, nhất là
đối với hạng anh thư nữ kiệt.

Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng
Rõ ràng câu ca dao này đã ca ngợi công đức chống ngoại xâm của Triệu
Nữ Vương (tức là Triệu Thị Trinh - mà sử Tàu miệt thị gọi là Triệu Ẩu : Bà
vú Triệu). Sau cuộc nổi dậy chống Tô Định của Hai Bà Trưng bị thất bại, Bà
Triệu noi gương anh dũng đó đã phất cờ khởi nghĩa chống quân Đông Ngô.
Khi Bà đánh giặc, mặc áo giáp vàng cỡi voi xông vào quân địch như vào chỗ
không người, xưng danh hiệu là Nhụy Kiều tướng quân.

Sau một thời gian dài bị lệ thuộc Trung Hoa, Việt Nam giành được độc
lập và Ngô Quyền thiết lập một vương triều tự chủ, sau hơn 10 thế kỷ chịu
nhục của người dân dưới ách đô hộ. Nhưng cuối đời nhà Ngô, vì thế lực suy
yếu, nên đã có 12 sứ quân nổi dậy, đánh lẫn nhau, làm cho dân tình khổ sở.
Các sứ quân đó, trong hơn 20 năm, vẫn xưng hùng xưng bá, không ai chịu
phục ai. Kết cuộc, họ phải khuất phục dưới tay Vạn Thắng Vương Đnh Bộ
Lĩnh, tức Đinh Tiên Hoàng sáng lập ra vương triều nhà Đinh. Phán xét sự
tranh giành quyền lực của các sứ quân và cuộc chiến thắng của Đinh Bộ
Lĩnh, dân gian đã tóm gọn trong câu ca dao :

Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
Thật vậy, ở đời muôn sự của chung, nhưng của chung đó không phải là ai
cũng có thể chiếm hữu dễ dàng. Phải có tài năng hay mưu lược quyền biến.


Ngôi vua cuối cùng của nhà Lý thuộc về Lý Chiêu Hoàng, tức là Chiêu
Thánh công chúa, con vua Lý Huệ Tôn, mới lên 7 tuổi. Quyền hành lúc đó ở
trong tay Trần Thủ Độ. Và Thủ Độ đã làm chủ hôn cho cháu là Trần Cảnh
lấy Chiêu Hoàng, để chuyển vương quyền qua nhà Trần. Quần chúng có
lòng lưu luyến nhà Lý đã tỏ lòng công phẫn và mỉa mai trong câu ca truyền
khẩu :

Trống chùa ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng
Dưới đời vua Trần Anh Tông, vì lý do chính trị, đã gả em gái là Huyền Trân
công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (tức Địa Lý
và Bố Chính), sau đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu. Người Việt vẫn có
tinh thần kỳ thị chủng tộc, cho người Chiêm là giống man di, lên tiếng phản
đối việc làm này của triều đình nhà Trần

Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Quần chúng còn tiếc thương cho thân phận một vị công chúa, lá ngọc
cành vàng, phải lấy chồng man rợ ở phương xa, qua ca khúc Nam Bình , vẫn
lưu truyền ở cố đô Huế : "Nước non ngàn dặm ra đi ".

Về sau, Chế Mân chết, vua Trần sai Trần Khắc Chung sang Chiêm tìm
cách đưa Huyền Trân về nước để khỏi bị hỏa thiêu theo chồng (theo tục lệ
Chiêm). Dư luận quần chúng có vẻ khắc nghiệt khi nghi ngờ về tình cảm của
Trần Khắc Chung đối với công chúa Huyền Trân trên chặng đường thủy dài
ngày đưa công chúa về nước. Người ta xót xa thân phận Huyền Trân, một
lần nữa, qua tay Trần Khắc Chung.

Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đem vò nước đục lại vần lửa rơm

Nhưng đó chỉ là chuyện đồn đại trong dân gian, không có bằng chứng gì
xác thực.

Khi Lê Lợi dấy binh chống Minh, khởi đầu ở vùng Thanh Hóa, sau chiếm
lĩnh Nghệ An để mở rộng khu vực chiến đấu, nhân dân đã phấn khởi ca ngợi
vùng đất tự do ấy và cổ võ cuộc di dân vào vùng này :

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô
Các biến cố lịch sử ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân chúng, nhất là
loạn lạc. Chiến tranh gây cảnh điêu tàn, chết chóc, nhà tan cửa nát. Nhân dân
chỉ biết kêu trời, bày tỏ nỗi oán thán :

Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Em về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Ấy là thảm cảnh của người dân phải thi hành nghĩa vụ tòng quân dưới
thời Nam Bắc Triều, xảy ra cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc. Cao Bằng là căn
cứ địa trọng yếu của nhà Mạc. Người lính trong câu ca dao trên thuộc hàng
ngũ quân Trịnh, được lệnh lên đường đánh quân Mạc, vỗ về vợ con trong
buổi chia ly.

Từ khi Trịnh Tùng diệt được nhà Mạc, dù với danh nghĩa phù Lê, nhưng
tập trung mọi quyền hành vào tay mình rồi xưng Chúa, vua Lê chỉ còn giữ
hư vị.

Trong lúc họ Trịnh xưng chúa ở miền Bắc, thì Nguyễn Hoàng được Trịnh
Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hóa từ trước, gây dần thế lực, đến lúc vững

mạnh cũng xưng chúa ở miền Nam. Rồi đôi bên gây nên cuộc Nam Bắc
phân tranh, kéo dài đến non nửa thế kỷ. Họ đánh nhau liên miên, xây thành
đắp lũy kiên cố, hiểm trở để phòng chống nhau, nên có câu tục ngữ :

Hiểm nhất lũy Thầy
Thứ nhì đồng lầy Võ Xá
Lũy Thầy tức là lũy Trường Dục, do Đào Duy Từ chỉ huy xây cất. Nhờ
lũy này, quân Nguyễn mới chống cự được lâu dài với quân Trịnh, phải lặn
lội đường xa, vất vả nên ở thế bất lợi trong việc tiến quân đánh Nguyễn.
Cuộc nội chiến Nam Bắc giữa hai nhà Trịnh - Nguyễn kéo dài, nhưng hai
phe cũng liên tục kế truyền nghiệp Chúa. Và cũng vì chiến tranh quá lâu dài
nên sau cuộc ngưng chiến, với sông Gianh làm giới hạn hai miền Nam Bắc,
họ Trịnh tổ chức một xã hội gần như thanh bình ở Bắc. Các vua chúa cũng
như quần thần có mức sống xa xỉ, trụy lạc. Theo tập "Vũ Trung Tùy Bút"
của Phạm Đình Hổ, đời chúa Trịnh thứ 12 là Trịnh Sâm thường tổ chức
nhiều cuộc vui chơi ở ly cung trên Tây Hồ, sai người xây cất luôn mãi. Mỗi
lần vui chơi thì lại có binh lính hầu quanh hồ, các nội thần thì giả làm đàn bà
và dân thì bày bán hàng hóa như ở chợ để vua quan mua sắm.

Cũng dưới triều Trịnh Sâm, phế bỏ con cả là Trịnh Khải, lập con thứ là
Trịnh Cán làm thế tử (con của sủng phi Đặng Thị Huệ, thường gọi là Bà
Chúa Chè), giao cho Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo làm phụ chính. Khi
Trịnh Sâm mất, đảng Trịnh Khải mưu với quân tam phủ nổi loạn, giết Quận
Huy và được tam quân (thường gọi là loạn kiêu binh - hạng lính được ưu
đãi, tuyển mộ ở Thanh Nghệ = Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần) lập lên làm
Chúa, tức là Đoan Nam Vương. Khi Trịnh Sâm còn sống, ham vui thú ăn
chơi, nên mọi quyền hành ở tay Quận Huy. Ông này tự do ra vào cung cấm
và có mối liên hệ bất chính với Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Việc này không
tránh khỏi búa rìu của dư luận quần chúng :


Ba quân có mắt như mờ
Để cho Huy Quận vào sờ chính cung
Khi viết tập "Vũ Trung Tùy Bút", về việc chúa Trịnh ham mê hưởng lạc,
bày cảnh vui chơi làm khổ dân với nhiều sai dịch, Phạm Đình Hổ đã cho là
có sự bất tường. Cho nên hết đời Trịnh Sâm, các con ông là Trịnh Khải và
Trịnh Cán vì tranh quyền đã gây rối loạn ở kinh thành. Trịnh Cán (con
Tuyên phi Đặng Thị Huệ) mới được lập lên, với sự hỗ trợ của Quận Huy,
chưa được hai tháng, thì bị anh là Trịnh Khải trừ diệt. Và các chúa Trịnh từ
đó về sau cũng vì lý do nữ họa mà mất nghiệp :

Sự này chỉ tại Bà Chè
Cho Chúa mất nước cho Nghè làng xiêu
Về chuyện hai anh em họ Trịnh tương tàn, dân gian đã cố lời bàn tán :
Đục cùn thì giữ lấy tông
Đục long cán gãy còn mong nỗi gì
"Tông" ám chỉ tước hiệu của Trịnh Cán (Tông Đô Vương).
"Đục long cán gãy" là nghiệp chúa của Trịnh Cán không tồn tại bao lâu.

Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 19, suốt 200 năm là
một chuỗi biến cố đẫm máu. Hết cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, đến cuộc
tương tranh Nguyễn - Tây Sơn. Từ lúc anh em Tây Sơn khởi nghĩa, chủ yếu
là vua Quang Trung, lập nên một triều đại huy hoàng với nhiều võ công
oanh liệt, nhưng khá ngắn ngủi :

Đầu cha lấy làm đuôi con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi
Tương truyền đây là một câu sấm ứng vào việc triều Tây Sơn mất nghiệp
sau 14 năm. Đầu chữ Quang ( - Quang Trung) lấy làm đuôi chữ Cảnh
( - Cảnh Thịnh).


Một câu ca dao khác , cũng cùng ý nghĩa :
Cha nhỏ đầu con nhỏ chân
Đến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn
Chữ "tiểu" ở trên đầu chữ Quang, ở chân chữ Cảnh.
Trong xã hội Việt Nam ngày trước, có hạng sĩ phu, ở lẫn trong dân chúng,
thường nhận định về các hoạt động của giới cầm quyền đương thời và đề
xuất những câu sấm để tuyên truyền cho một phe phái nào đó. Câu sấm được
truyền trong dân gian bằng cách dạy cho trẻ con hát khi nô đùa ở các nơi
công cọng. Chẳng hạn câu sấm sau đây, dưới hình thức ca dao, được truyền
là của các cựu thần nhà Mạc tổ chức chống Trịnh làm ra để liên lạc với các
đồng chí tìm đến cơ sở ở mạn Bắc :

Ai lên Phố Cát Đại Đồng
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa ?
Có chồng năm ngoái năm xưa
Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng
Dù chiến tranh xảy ra giữa hai miền Nam Bắc hết sức khốc liệt, nhưng hai
họ Trịnh Nguyễn vẫn thực hiện những công cuộc phúc lợi ở vùng họ cai trị.

Ở Nam, các chúa Nguyễn nhiều đời trấn thủ, mưu cầu an cư lạc nghiệp
cho dân chúng. Dưới đời chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu, đường đi qua
vùng Hồ Xá - Quảng Trị (tức truông nhà Hồ) thường có bọn cướp ẩn núp,
cướp bóc kẻ qua đường. Năm 1722, Chúa sai ông Nguyễn Khoa Đăng, làm
Nội Tán, đi đánh dẹp bọn cướp đó. Người dân ca tụng việc ấy, qua câu ca
dao quen thuộc :

Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm

Phá Tam Giang ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, nơi có 3 sông lớn
của Huế (sông Ô Lâu, sông Bồ,sông Hương) chảy về rồi đổ ra cửa biển
Thuận An. Phá này nhiều sóng lớn, thuyền bè qua lại khó khăn, về sau cạn
đi.

Sau một thời gian dài, suốt 25 năm, đấu tranh gian khổ, Chúa Nguyễn
AÙnh đã có thế vững mạnh, tiến quân ra Trung để chiến thắng Tây Sơn.
Nhân dân miền Nam vốn có cảm tình với nhà Nguyễn đã truyền câu hát :

Lạy trời cho chóng gió nồm
Để cho Chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra
Khi Chúa Nguyễn còn ở trong Nam, tổ chức cuộc Nam tiến vào đất Gia
Định, khẩn hoang lập ấp. Dân chúng đồng lòng cổ võ :

Nhà Bè nước chảy rẽ hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Vua Gia Long thống nhất sơn hà, lập nên triều Nguyễn, truyền được 13
đời vua. Kế tục sự nghiệp mở nước của Thế Tổ Gia Long, vua Minh Mạng
đã có công dẹp các vụ nổi loạn ở Bắc và Nam, cũng như chống cự ngoại
xâm (Xiêm), chiếm Chân Lạp, bảo hộ Ai Lao.

Về nội trị, vua chấn chỉnh luật pháp, chế độ, làm thành một nước có kỷ
cương, văn hiến. Trong việc bảo vệ phong tục, vua đã chạm đến tinh thần
bảo thủ của người dân miền Bắc, tức là cấm đàn bà mặc váy :

Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải lột quần chồng sao đang ?
Dưới triều vua Tự Đức, nhiều biến cố trọng đại đã xảy ra. Từ những vụ

nổi loạn ở miền Bắc, chủ trương phù Lê, như giặc Châu Chấu (có Cao Bá
Quát làm quốc sư), Cai Tổng Vàng ở Bắc Ninh, giặc Khách ở Cao Bằng. Ở
triều đình, có người anh vua Tự Đức là Hồng Bảo, âm mưu đoạt ngôi nhưng
thất bại. Năm 1886, nhân dịp vua Tự Đức cho xây Khiêm Lăng ở Vạn Niên
(Huế), ba anh em họ Đoàn (Đoàn Trưng, Đoàn Trực, Đoàn Ái) khai thác
nỗi oán hận của người dân phải đi làm phu gian lao vất vả, nổi dậy chống
triều đình. Họ khích động dân bằng câu ca dao :

Vạn niên là Vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Trong cuộc khởi nghĩa nầy, họ Đoàn tôn Đinh Đạo (con của Hồng Bảo -
cải họ Đinh, sau khi Hồng Bảo bị tội, tự thắt cổ chết) làm minh chủ. Vụ này
cũng không thành công. Ngoài các vụ nổi loạn, triều vua Tự Đức còn phải
đối phó với cuộc xâm lăng của người Pháp.

Tự Đức là ông vua có tinh thần bảo thủ, từ khước đề nghị canh tân của
các sĩ phu, nhất là Nguyễn Trường Tộ, nên vận nước có chiều suy vong. Vua
Tự Đức chỉ là một nho sĩ thuần túy, có tiếng hay chữ nhất triều Nguyễn, ưa
thích thi văn, ngâm vịnh. Dưới triều vua, có ông Lê Ngô Cát là một danh sĩ,
đã soạn một bộ sử bằng văn vần là "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca". Soạn xong,
ông dâng lên vua Tự Đức ngự lãm. Vua xem rồi ban thưởng cho ông Cát :

Vua khen thằng Cát nó tài
Ban một cái khố với hai đồng tiền
Việc ban thưởng này, có lẽ do chuyện bàn tán giữa các đồng liêu với ông
Cát ở triều đình, nhưng lại lọt ra ngoài, nên dân gian đã có lời phẩm bình
mỉa mai trên, cho rằng vua Tự Đức không quí trọng văn tài của người khác.

Sau khi vua Tự Đức mất, quyền hành ở triều đình Huế thuộc về hai ông
Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hai ông này trong bốn tháng đã

phế và lập 3 vua : Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc. Cho nên thời đó, trong
dân gian có câu, giữa lúc có sự tranh chấp giữa Pháp và Việt :

Nhất giang lưỡng quốc nan phân THUYẾT
Tứ nguyệt tam vương triệu bất TƯỜNG
Nghĩa là : Một sông hai nước (Việt - Pháp) không thể thương thuyết, bốn
tháng ba vua điềm chẳng lành. (cuối 2 câu có tên hai ông Thuyết và Tường).

Thời gian triều đình Huế khởi xướng công cuộc chống Pháp với các đại
thần và các tướng lãnh, dù có tâm huyết nhưng thiếu kinh nghiệm lãnh đạo
chiến tranh, nên dân chúng đã có lời bình phẩm có phần khắc nghiệt :

Nước Nam có bốn anh hùng
Tường gian Viêm dối Khiêm khùng Thuyết ngu
Tường là Nguyễn Văn Tường, trước sát cánh với Tôn Thất Thuyết chống
Pháp, sau ra hàng. Viêm là Hoàng Kế Viêm, trước cũng chống Pháp, sau
được vua Đồng Khánh phục chức và sai đi dụ hàng vua Hàm Nghi. Khiêm là
Ông Ích Khiêm, một vị quan thời Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường
chuyên quyền, vì tính khẳng khái, không luồn cúi cấp trên, làm phật ý hai
ông Tường, Thuyết nên bị giam vào ngục. Dân gian nói ông Khiêm "khùng"
vì có tính khí khác thường, ngang bướng, không chịu khuất phục cường
quyền. Và "Thuyết ngu", ngụ ý cho rằng ông Thuyết là một kẻ "hữu dũng vô
mưu". Dù sao, dư luận quần chúng cũng chê hai kẻ gian dối và khen hai
người trung can, nghĩa khí.

Thời Pháp xâm lược nước ta, người dân không khỏi buồn lòng nhìn thế sự
rối reng :

Đêm đêm chớp bể mưa nguồn
Hỏi người quân tử có buồn chăng ai ?

Nhất là cảnh quốc phá gia vong với một triều đại suy tàn :
Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn (Đồng Khánh) vua mất (Kiến Phúc) vua thua chạy dài (Hàm Nghi)
Tuy thua chạy dài, nhưng vua Hàm Nghi với sự phù trợ của Tôn Thất
Thuyết và các trung thần, nghĩa sĩ đã phát hịch kêu gọi nhân dân hưởng ứng
chống Pháp, khởi xướng phong trào Cần Vương ở khắp nơi. Tình trạng
trong nước Việt lúc bấy giờ đã phân hóa làm hai :

Gẫm xem thế sự thêm rầu Ở giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi
Ở giữa, tức là kinh đô Huế, hai đầu là Nghệ Tĩnh và Nam Ngãi, nơi phát
triển phong trào Cần Vương.

Tinh thần ái quốc của người Việt vẫn liên tục sôi nổi. Dù công cuộc
chống Pháp của vua Hàm Nghi bị thất bại, nhưng đến đời vua Thành Thái,
âm mưu chống Pháp vẫn âm thầm trong trí vị vua đã từng giả điên giả cuồng
để tránh mắt dò xét của người Pháp.Dân gian phát hiện một hành động của
vị vua yêu nước này, mà người ta tưởng lầm là hành vi bất chính, khi vua
vốn mang tiếng điên khùng :

Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi
Tương truyền vua Thành Thái có tổ chức một đội nữ binh ở ngoại thành,
một địa điểm bí mật ở vùng Kim Long và giao cho một vị tướng phụ trách
huấn luyện để chờ dịp khởi nghĩa. Nhiều đêm vua xuất cung vi hành để đến
xem xét kết quả của việc huấn luyện đó.

Vua Duy Tân lên làm vua lúc mới 8 tuổi, nhưng lớn lên có chí khí và có
lòng yêu nước mãnh liệt. Cũng như vua Thành Thái, vua Duy Tân có ý
chống Pháp. Vua thường ra ngoài cung điện để xem xét dân tình và tìm cách
liên lạc với các nhân sĩ. Đi dạo chơi trên bãi biển, tay vấy cát, người hầu lấy

nước cho vua rửa. Vua nói : "Tay nhớp (bẩn) lấy nước rửa, thế nước nhớp
lấy gì mà rửa ?".

Phong trào Văn Thân bí mật liên lạc với vua để tìm phương cứu quốc.
Năm 1915, đảng Việt Nam Quang Phục cử Trần Cao Vân và Thái Phiên hợp
tác với vua mưu đồ khởi sự. Họ hẹn gặp nhau trên bờ sông Ngự Hà, giả làm
người đi câu để tránh tai mắt địch. Rồi mưu đồ phục quốc của vua Duy Tân
cũng bị thất bại và vua phải đi đày. Người dân Huế thương tiếc vua cùng các
nghĩa sĩ Trần Cao Vân và Thái Phiên đã hiến thân vì nước :

Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng
Và trên dòng Hương Giang, nhiều năm sau, trên các chuyến đò dọc, người
ta còn nghe mấy câu hò trầm thống, bi đát, đầy tâm sự của kẻ mang hoài bão
cứu nước không thành :

Trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm
Ai nhớ ai mong
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
o0o
Như trên đã nói, ca dao là phản ảnh một phần nào dư luận của quần chúng
Việt Nam đối với các hiện tượng trong xã hội ở thời kỳ các phương tiện
truyền thông bằng văn tự chưa phát triển.

Với người dân, các hành vi của giới cầm quyền, cũng như hành động của
các nhân vật trong nước, đều phải chịu sự bình phẩm, phán xét của công

luận. Những hành vi có đạo đức, thiện tâm được khen ngợi, ca tụng, trái lại
xấu xa, đê tiện đều bị chê bai, nguyền rủa.

Trăm năm bia đá cũng mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Ca dao, nhất là loại ca dao có liên quan đến lịch sử Việt Nam là tấm bia
miệng để đời cho người ta ghi nhớ, là tấm gương cho nhiều thế hệ soi chung
và bản thân những câu ca dao đócũng là những phán xét của lịch sử./.


×