A/ PHẦN MỞ BÀI
Tài sản là vấn đề trung tâm cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ
pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được đề cập từ rất lâu trong thực tiễn cũng
như trong khoa học pháp lý. Tài sản trên thực tế tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, vô
cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên mỗi loại tài sản lại có những đặc tính khác
biệt cần thiết phải có những quy chế pháp lý điều chỉnh riêng. Khái niệm tài sản
được đề cập tại Điều 163, BLDS 2005. Theo đó thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản. Đây là cách định nghĩa tài sản mang tính chất liệt kê chứ
không mang tính khái quát. Theo qui định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ
tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
B/ PHẦN NỘI DUNG
I. Những vấn đề lí luận và thực tiễn về khái niệm tài sản theo Điều 163 BLDS 2005.
1. Vật
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể
cảm giác được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành đối
tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận của thế giới vật chất mà con người
không thể kiểm soát được chiếm hữu được nó thì đồng nghĩa với việc con người
không thể tác động được vào nó. Do đó, không khí, gió, mưa thuộc về vật chất
nhưng không thể được coi là tài sản về mặt pháp lý. Hơn nữa, là đối tượng trong
quan hệ pháp luật nên vật phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ thể trong quan
hệ. Như vậy, muốn trở thành vật trong dân sự phải thỏa mãn những điều kiện sau:
- Là bộ phận của thế giới vật chất: đây là một điều kiện không thể thiếu
để trở thành vật trong giao lưu dân sự, đồng thời ta cũng có thể coi đó là sự
khác nhau giữa “vật” và “quyền tài sản”. Ta có thể hiểu quyền tài sản là một
cái gì đó rất trừu tượng, nó không phải là một bộ phận của thế giới vật chất mà
nó tồn tại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Ví dụ như đất đai được
coi là vật trong giao lưu dân sự vì nó là một bộ phận của thế giới vật chất, nó
tồn tại không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Nhưng quyền sử
dụng mảnh đất ấy lại không tồn tại khách quan, không phải là một bộ phận
của thế giới vật chất nên đương nhiên nó không phải là vật trong giao lưu dân
sự mà nó là một loại tài sản khác mang tên “quyền tài sản”. Vì thế mà “đất
đai” thì thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý
nhưng “quyền sử dụng đất” lại thuộc về các cá nhân, tổ chức khác. Ở đây cả
“đất đai” và “quyền sử dụng đất” đều được coi là tài sản nhưng đất đai là vật,
còn quyền sử dụng đất là quyền tài sản.
- Con người phải chiếm hữu được. Có những bộ phận của thế giới vật
chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là
vật. Chỉ khi con người chiếm hữu được nó thì nó mới được coi là vật. Ví dụ ô
xi còn ở dạng không khí trong tự nhiên thì chưa thể được coi là vật, vì chưa
thể đưa vào giao dịch dân sự. Chỉ khi được nén vào bình, tức là con người có
thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và được coi
là vật.
- Mang lại lợi ích cho chủ thể và phải có đặc trưng giá trị. Trong thực
tiễn ta bắt gặp nhiều trường hợp một vật là bộ phận của thế giới vật chất, con
người có thể chiếm hữu được nhưng nó vẫn không được coi là vật trong dân
sự. Ví dụ như: một cọng rác, một viên đá, một hạt cát…rõ ràng nó là một bộ
phận của thế giới vật chất và ta hoàn toàn có thể chiếm hữu nó nhưng vì nó
không mang lại lợi ích gì cho chủ thể và không có đặc trưng giá trị nên không
thể coi là vật trong giao lưu dân sự. Chỉ khi rác có thể tái chế mà người ta đi
buôn đồng nát, hoặc đá, cát dùng làm vật liệu xây dựng để xây nhà thì lúc đó
nó mới trở thành vật trong giao lưu dân sự. Tức là người ta có thể khai thác
công dụng của nó, để nó trở thành vật có giá trị thì lúc đó nó mới được coi là
vật trong giao lưu dân sự.
- Có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai. Đây là một nội
dung rất mới mẻ của BLDS năm 2005 so với BLDS năm 1995. BLDS 1995
tại Điều 172 qui định: “Tài sản bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được
thành tiền và các quyền về tài sản”. Trong đó vật có thực được xác định bởi
các điều kiện như: vật phải có hình dáng, kích thước cụ thể, con người có thể
tri giác được và có giá cả tương ứng với giá trị của vật. Tuy nhiên BLDS 2005
xác định lại khái niệm tài sản tại Điều 163 như sau: “Tài sản bao gồm: vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền về tài sản”. Theo tinh thần Điều 163 thì phạm
vi của “vật” rộng hơn so với khái niệm cũ trước đó, bao gồm cả những vật có
thực và những vật sẽ có trong tương lai. Vật có thực là vật đã tồn tại vào thời
điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của vật đó. Ví
dụ: nhà đã được xây, thuyền đã được đóng,… Còn vật hình thành trong tương
lai được hiểu là vật chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm
xem xét nhưng chắc chắn sẽ có hoặc được hình thành trong tương lai. Ví dụ
như: một dự án nhà cao tầng đang chuẩn bị khởi công xây, một cái cầu đang
bắc…cả hai cái đó đều được đưa vào giao dịch dân sự như một vật sẽ hình
thành trong tương lai.
Sự mở rộng khái niệm “vật” của BLDS 2005 so với khái niệm “vật có thực” của
BLDS 1995 làm cho giá trị pháp lý của tài sản được xác định ở phạm vi rộng hơn,
quan niệm về giao dịch dân sự hợp pháp cũng được mở rộng hơn theo hướng đa
dạng hơn, phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường nhiều thành phần
hiện nay ở nước ta, làm cho thị trường mua bán hàng hóa sôi động hơn, nhất là thị
trường bất động sản. Ví dụ như muốn xây dựng một khu chung cư nhưng nhà đầu tư
không đủ vốn, họ muốn thế chấp khu chung cư sẽ hình thành trong tương lai đó tại
ngân hàng để lấy vốn xây dựng khu chung cư thì lúc này phải coi khu chung cư sẽ
hình thành trong tương lai ấy là tài sản, phải coi nó là tài sản thì mới được đem nó ra
thế chấp trong giao dịch dân sự được.
Trong thực tế áp dụng pháp luật, những vật có thực thông thường bao giờ cũng dễ
xác định hơn so với các vật chưa có thực, và quy định mở rộng nội hàm khái niệm
“vật” ở BLDS 2005 cũng mang lại nhiều khó khăn trong việc giải quyết những tranh
chấp liên quan đến vật hình thành trong tương lai.
Ví dụ như một công ty muốn thế chấp khu chung cư sẽ xây dựng của họ để lấy vốn
nhưng lần thứ nhất, họ đến ngân hàng A thế chấp khu đất làm khu chung cư đó. Lần
thứ hai, họ thế chấp cả khu chung cư đó. Lần thứ ba, họ thế chấp từng căn hộ trong
khu chung cư đó…Như vậy chỉ là một dự án nhưng với qui định của pháp luật về vật
sẽ hình thành trong tương lai, người vay vốn họ có thể thế chấp nhiều lần trên khu
chung cư đó. Điều đó cho thấy những lỗ hổng trong pháp luật hiện hành. Nếu như
công ty kia gặp trục trặc không thể hoàn thành khu chung cư đó hoặc không có khả
năng trả nợ thì các ngân hàng sẽ bị thiệt hại rất lớn. Bởi vì đặc trưng của vật hình
thành trong tương lai đã là mang tính rủi ro cao, theo dự kiến là nó sẽ hình thành
nhưng vì một bất lợi nào đó mà nó không hoàn thành, vậy ai sẽ phải chịu rủi ro đó?
Những trường hợp như thế trên thực tế rất nhiều và những tranh chấp về tài sản sẽ
hình thành trong tương lai ngày càng gia tăng và phức tạp. Pháp luật cần quy định rõ
ràng hơn nữa về loại tài sản này để tránh tình trạng “lách luật” gia tăng, gây thiệt hại
cho các chủ thể tham gia giao dịch.
Ở một khía cạnh khác của khái niệm vật, hiện nay có một loại vật đang gây ra nhiều
ý kiến tranh luận có nên xác định nó là tài sản hay không, đó là các vật ảo được mua
bán trên mạng giữa những người tham gia một trò chơi cụ thể nào đó. Những vật này
có giá hẳn hoi và người sở hữu có quyền bán nó cho người khác để nhận tiền, tương
tự như việc quy các phỉnh trong các sòng bạc thành một số tiền tương ứng để phục
vụ cho hoạt động kinh doanh cờ bạc. Thực tế, những tranh chấp về loại tài sản này
ngày càng gia tăng. Những món đồ trên các game online có giá trị hàng trăm, thậm
chí hàng triệu, đến hàng chục triệu đồng, người chơi vô tư trao đổi mua bán với nhau
bằng tiền thật. Chính vì nó có tính chất như một loại tài sản nên người ta đưa nó vào
giao dịch dân sự như bình thường thậm chí là ăn cắp, trộm đồ,…rồi đưa nhau ra tòa
đòi giải quyết, nhưng họ lại không biết rằng nó không được coi là tài sản theo pháp
luật hiện hành. Câu hỏi đặt ra là ta có nên coi tài sản ảo trên mạng là tài sản trong
giao lưu dân sự không? Nếu ta coi nó là tài sản thì dựa vào bản chất của loại tài sản
này ta rất khó có thể kiểm soát vì người chơi không đồng thời là chủ sở hữu tuyệt
đối với tài sản đó , hơn nữa nếu coi nó là tài sản thì sẽ dẫn đến tình trạng nghiện
game online ngày càng gia tăng, vì lúc này chơi game đã trở thành một cách kiếm
tiền nhanh chóng và được hợp pháp hóa, không còn mang tính chất giải trí nữa.
Nhưng nếu không công nhận nó là tài sản thì quyền lợi của những người chơi không
được bảo vệ, có tranh chấp xảy ra thì sẽ lấy những điều luật nào để giải quyết? Có
người đưa ra quan điểm vật ảo thì lấy tiền ảo ra để trả, tòa án ảo ra để giải quyết…
nhưng thực sự đó không phải là ý kiến hay. Vì để tạo được những món đồ ảo ấy
người chơi phải bỏ ra những cái có thực như: công sức, tiền bạc, tức là tài sản ấy có
giá trị, mà đã có giá trị thì sẽ có giá cả, giao lưu dân sự xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Theo ý kiến cá nhân, em nghĩ nên coi nó là tài sản vì đây là một loại tài sản tất yếu
khách quan sẽ hình thành trong thế giới hiện đại, phủ nhận nó tức là luật pháp đã đi
ngược lại với quy luật vận động, không bắt kịp xu thế của khoa học kỹ thuật, điều
quan trọng là phải xây dựng luật pháp như thế nào để vừa bảo hộ được quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể, vừa hạn chế được những tiêu cực mà “thế giới ảo”
mang lại.
Thực tế, ngoài vấn đề về tài sản ảo ra thì còn một vấn đề nhức nhối nữa đó là: các vụ
án buôn bán nội tạng người càng ngày càng gia tăng. Vậy các bộ phận cơ thể con
người có được coi là tài sản không?. Nếu coi nó là tài sản thì rất mâu thuẫn vì những
hành vi xâm phạm đến thân thể con người là những hành vi xâm hại đến quyền nhân
thân, là một quyền năng khác hoàn toàn với quyền tài sản. Không thể ai đó cầm dao
đâm bạn, bạn lại bảo đó là hành vi xâm phạm đến tài sản của bạn được. Nhưng nếu
nó không phải là tài sản thì tại sao nó vẫn được buôn bán, trao đổi, vẫn có giá cả trên
thị trường, thậm chí là giá rất cao? Đây cũng là một vấn đề cần có sự quan tâm của
luật dân sự.
2. Tiền
Tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo
giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền hiện nay khi nó đang có
giá trị lưu hành trên thực tế. Tiền được coi là một dạng đặc biệt của tài sản và cũng
là thước đo để xác định toàn bộ khối tài sản của một chủ thể nào đó trong quan hệ
pháp luật dân sự. Loại tài sản này có những đặc điểm pháp lý khác với vật, được thể
hiện ở những mặt sau:
Đối với vật thì ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính vật đó (nhà dùng để ở,
xe để đi lại…). Còn đối với tiền thì không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính
tờ tiền hay đồng tiền xu đó. Tiền thực hiện ba chức năng chính đó là: công cụ thanh
toán đa năng, công cụ tích lũy tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác. Khái
niệm “quyền sử dụng chỉ được áp dụng một cách trọn vẹn cho vật chứ không áp
dụng cho tiền.