Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

vấn đề tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.32 KB, 15 trang )

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/. Khái quát chung về vấn đề tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân.
1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được hiểu là vật, lợi ích vật chất khác thuộc quyền sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng, do vợ chồng cùng chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt vì nhu cầu chung của gia đình.
Do tính chất cộng đồng của hôn nhân và với vai trò là hạt nhân của gia đình đòi
hỏi giữa vợ và chồng phải có một lượng tài sản chung nhất định để bảo đảm các chi
phí cho cuộc sống chung và để thực hiện các chức năng xã hội cơ bản của gia đình,
đặc biệt trong việc chăm sóc giáo dục và bảo vệ các con. Dựa trên cơ sở đó, kế thừa
và phát triển điều 14 luật HN-GĐ năm 1986, Điều 27 luật HN-GĐ năm 2000 quy
định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ
là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng
kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ
chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình đã xác định thời điểm hình thành và nguồn
gốc phát sinh tài sản chung của vợ chồng. Kể từ sau khi kết hôn, những tài sản do
vợ, chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp của vợ chồng, tài sản mà vợ chồng mua sắm
được từ những thu nhập hợp pháp đều thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
mà không phụ thuộc vào công sức đóng góp của vợ chồng ít hay nhiều, có lao động


trực tiếp hay không. Đồng thời pháp luật còn quy định quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng đối với khối tài sản chung và mục đích của việc sử dụng tài sản chung là nhằm

đáp ứng nhu cầu chung của gia đình, đảm bảo cho vợ chồng cùng nhau xây dựng gia
đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình. Những quy định đó còn
là cơ sở cho việc chia tài sản chung của vợ chồng.
2. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng.
Để xác lập tài sản chung của vợ chồng, về mặt lý thuyết, các nhà làm luật đã dựa
vào “thời kỳ hôn nhân” và “nguồn gốc” của các loại tài sản”
Căn cứ thứ nhất : “Thời kỳ hôn nhân”.
Khoản 7, Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, khi giải thích từ ngữ được
sử dụng trong Luật đã chỉ rõ: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ
vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Như vậy, thời
kỳ hôn nhân được tính từ khi hai bên nam nữ đăng ký kết hôn (thời điểm phát sinh
quan hệ vợ chồng trước pháp luật); việc kết hôn đó được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận theo đúng thủ tục và các điều kiện luật định. Sau khi kết hôn, vợ
chồng cùng chung sống với nhau, cùng chung sức, ý chí tạo dựng tài sản nhằm nuôi
sống gia đình, vì lợi ích chung của gia đình. Trong thời kỳ hôn nhân, những tài sản
(bao gồm cả động sản và bất động sản) do vợ chồng tạo ra được (trừ tài sản riêng của
vợ, chồng) đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ: Thu nhập hợp pháp
của mỗi bên trước khi kết hôn “là tài sản riêng” của người đó, nhưng sau khi kết hôn,
những thu nhập đó đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Tính cộng đồng của
quan hệ Hôn nhân và Gia đình được xác lập. Tài sản chung vợ chồng được xác lập
theo căn cứ “thời kỳ hôn nhân” mang đặc điểm:
- Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng tạo ra.
- Tài sản chung của vợ chồng được tạo dựng không phụ thuộc vào điều kiện vợ
chồng ở chung hay ở riêng.
Căn cứ thứ hai: “ Nguồn gốc của các loại tài sản”.
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng. Theo
đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài

sản. Cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau:
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh trong thời kỳ hôn nhân;
- Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, cụ thể là: Tiền
lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản
mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự như xác
lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu (Điều
247), xác định quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy

(Điều 248); Xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên (Điều
249); xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc (Điều 250); xác lập quyền sở
hữu đối với gia cầm bị thất lạc (Điều 251); xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi
dưới nước (Điều 252);
- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được từ những thu nhập hợp pháp trên;
- Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc được thừa kế chung;
- Tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ, chồng
được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ, chồng thỏa thuận
nhập vào khối tài sản chung hoặc theo quy định của pháp luật là tài sản chung;
Theo quy định Điều 233 của Bộ luật dân sự và Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000, tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất có thể phân chia. Sở
hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà phần quyền sở hữu của các chủ thể sở hữu
không được xác định đối với tài sản chung. Do vậy, bình thường chúng ta không thể
xác định được phần tài sản nào của vợ, phần tài sản nào của chồng trong khối tài sản
chung hợp nhất, chỉ khi nào có sự phân chia tài sản của vợ chồng thì mới xác định
phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó. Xuất phát từ tính chất của
quan hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong việc tạo lập khối
tài sản nhằm xây dựng gia đình, đảm bảo cho gia đình có thể thực hiện tốt các chức
năng xã hội (phát triển kinh tế gia đình vững mạnh, tạo điều kiện tốt cho việc nuôi
dạy con, vì vậy pháp luật quy định việc xác lập tài sản chung chỉ căn cứ vào nguồn
gốc, thời điểm (kết hôn) phát sinh tài sản mà không phụ thuộc vào công sức đóng

góp của mỗi người trong việc tạo dựng, phát triển khối tài sản đó. Tài sản chung của
vợ, chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ, chồng tạo ra, có thể chỉ do vợ hoặc
chồng trực tiếp tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.
Quyền sử dụng đất là một tài sản đặc biệt, các tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng trên thực tể chủ yếu là tranh chấp đất đai. Luật quy định, quyền sử dụng đất
mà vợ, chồng có, được thừa kế, chuyển nhượng trước khi kết hôn là tài sàn riêng của
từng người trừ trường hợp có thỏa thuận khác; nếu có được sau khi kết hôn thì là tài
sản chung của vợ, chồng.
Đối với những tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng phải đăng ký quyền sở
hữu thì Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng.
Như vậy, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra
bằng công sức của mỗi người từ khi kết hôn đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài
sản khác do vợ chồng thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung.

Đối với tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt (khoản 2 Điều 233 BLDS
và khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, về nguyên tắc,
vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc phát triển, xây dựng
và duy trì khối tài sản, đồng thời cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung được thể hiện trong việc
xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản có giá trị lớn
hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh
doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận (Điều 28 Luật Hôn nhân và Gia
đình). Như vậy, mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc
là nguồn sống duy nhất của gia đình thì phải có sự bàn bạc, thỏa thuận của cả vợ và
chồng mới có giá trị pháp lý.
Đối với những giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung vợ chồng có giá trị
không lớn hoặc để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì chỉ

cần một bên vợ hoặc chồng thực hiện và đương nhiên coi là có sự đồng ý của bên
kia. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao
dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm để phục vụ nhu cầu
thiết yếu hàng ngày thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới (Điều 25 Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000). Quy định này khẳng định quyền tự chủ của vợ, chồng
trong việc thực hiện các giao dịch dân sự nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu hàng ngày
của gia đình cũng chính là bảo vệ lợi ích gia đình đồng thời cũng khẳng định trách
nhiệm của bên kia đối với các hành vi dân sự hợp pháp do vợ hoặc chồng mình thực
hiện vì lợi ích chính đáng của gia đình mình.
4. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng.
Chia tài sản chung của vợ chồng là chia tài sản chung thuộc quyền sở hữu chung
của hai vợ chồng.
- Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng theo luật HN-GĐ:
+) Chia tài sản chung của vợ chồng khi li hôn
Ly hôn- một hiện tượng xã hội. Theo nguyên tắc chung khi phán quyết ly hôn của
toà án có hiệu lực, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Các quan hệ quyền và nghĩa vụ
nhân thân giữa vợ chồng phát sinh và gắn liền tương ứng trong quan hệ vợ chồng từ
khi kết hôn cũng hoàn toàn chấm dứt khi vợ chồng li hôn. Tài sản chung của vợ
chồng sẽ được chia theo yêu cầu của vợ chồng. Trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự

định đoạt của vợ chồng, khoản 1 điều 95 luật HN-GĐ năm 2000 quy định: Việc chia
tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì được yêu
cầu Toà án giải quyết, tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên ấy.
+) Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị toà
án tuyên bố là đã chết.
Về nguyên tắc, quan hệ hôn nhân chấm dứt khi vợ hoặc chồng chết hoặc quy định
của toà án về việc tuyên bố vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật. Quan hệ hôn nhân
chấm dứt, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của người chồng
hoặc vợ còn sống hoặc của những người thừa kế của người vợ, chồng đã chết . Theo
nguyên tắc vợ chồng bình đẳng trong đó quan hệ về thừa kế tài sản của nhau giữa vợ

và chồng, điều 31 luật HN-GĐ năm 2000 đã quy định : “Vợ chồng có quyền thừa kế
tài sản của nhau theo quy định về pháp luật thừa kế”
+) Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân
Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung cũng vẫn còn tồn tại, chế
độ tài sản này chỉ chấm dứt về mặt pháp lí (li hôn, 1 bên vợ chồng chết hoặc tuyên
bố là đã chết). Tuy nhiên trên thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân, xuất phát từ thực tế này luật HN-GĐ trên cơ sở kế thừa
luật HN-GĐ năm 1986 (điều 18) tiếp tục quy định vánn đề chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân(điều 29, 30). Như vậy việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân được coi là trường hợp ngoại lệ và cần được quan tâm.
II/. Lý luận về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân.
1. Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Điều 29 luật HN và GĐ năm 2000 quy định:
“Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lí do chính đáng khác thì có thể thoả thuận chia
tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận
được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài
sản không được pháp luật công nhận.”
Theo quy định trên thì chia tài sản vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành
theo các trường hợp sau:
Trường hợp1: Vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng:
Xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, nếu một trong
hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ

chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh. Mặt
khác quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, đảm bảo cuộc sống ổn định
của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt
động đầu tư kinh doanh gây ra.

Thực tiễn hiện nay cho thấy nhu cầu kinh doanh tăng nhanh đến chóng mặt, rất
nhiều người muốn đặt chân và lĩnh vực này, tuy nhiên rủi ro mang lại cho họ cũng
không phải là ít. Chính điều này đã gây lo ngại cho những người muốn đầu tư kinh
doanh bởi họ sợ khi công việc kinh doanh thất bại sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống ổn
định của các thành viên trong gia đình. Quy định này đặt ra đã phần nào giải quyết
được những băn khoăn, lo ngại của người dân.
Trường hợp2: Vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng:
Trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc người chồng đó đã
vay nợ (một khoản tiền hay tài sản) để sử dụng vào nhu cầu riêng. Nếu tài sản riêng
không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thoả thuận được về việc lấy tài sản
chung để trả nợ riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân để người vợ hoặc chồng lấy phần tài sản của mình trong số tài
sản chung của vợ chồng nhằm thanh toán món nợ mà mình đã vay.
Trường hợp 3: Có lí do chính đáng khác:
Việc có lí do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là
xuất phát từ lợi ích gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc người thứ ba. Vì vậy lí do
chính đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại tuỳ từng
trường hợp cụ thể.
2. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật HN-GĐ năm 2000 quy định “vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung”.
Nếu vợ chồng thỏa thuận được việc chia tài sản thì sự thoả thuận đó phải được lập
thành văn bản và việc phân chia tài sản được pháp luật công nhận. Vợ chồng có thể
thỏa thuận chia toàn bộ tài sản hoặc chia một phần tài sản. Trong trường hợp vợ
chồng “không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy luật
HN-GĐ 2000 đã tôn trọng quyền tự thỏa thuận của vợ chồng bằng cách quy định
không nhất thiết mọi trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân đều do toà án quyết định mà trước hết sẽ do vợ chồng tự thoả thuận chia bằng
văn bản.
Tuy nhiên quy định về vấn đề này cũng bộc lộ một hạn chế. Cụ thể khoản 2 Điều 6
Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định trường hợp vợ chồng thỏa thuận việc chia tài

sản chung bằng văn bản thì văn bản đó “có thể có người làm chứng hoặc được công

×