Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu Luận Một số giải pháp hợp tác cho ngành Bưu chính viễn thông trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.31 KB, 20 trang )

I. TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC CỦA NGÀNH BƯU CHÍNH VIỄN
THÔNG VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
1. Tính tất yếu khách quan phải phát triển BCVT trong qua trình hội
nhập
Không có một quốc gia nào trên thế giới có thể tồn tại độc lập, phát triển có
hiệu quả mà không có mối quan hệ nào với các quốc gia khác đặc biệt trong lĩnh
vực kinh tế. Một quốc gia không thể đạt được mức tăng trưởng kinh tế bền vững
mà không hạ thấp hàng rào thương mại nước mình. Nếu một nước đóng cửa thị
trường, nước đó buộc ngươì lao động phải làm việc vất vả hơn với mức thu nhập ít
hơn. Cuối cùng nền kinh tế của nước đó sẽ chịu thua lỗ và dần suy thoái. Ngày nay
quan hệ buôn bán trao đổi hàng hoá tiền tệ đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia và
ngày càng mở rộng thành một hệ thống mang tính chất quốc tế. Quan hệ kinh tế
quốc tế phát triển đã đem lại nhiều lơi ích cho các nước tham gia. Đối với các nước
phát triển :mở rộng kinh tế ra bên ngoài giúp cho việc bành trướng nhanh chóng
sức mạnh nền kinh tế của mình, như tìm kiếm thị trường về dư thừa hàng hoá, tìm
kiếm nơi đầu tư thuận lợi đem lại lợi nhuận cao, giảm được chi phí sản xuất nhờ sử
dụng được nhân công và tài nguyên rẻ ở các nước chậm phát triển, giải quyết được
vấn đề thiếu năng lượng và nguyên liệu… Đối với các nước đang phát triển : thì
mở rộng quan hệ kinh tế ra bên ngoài có lợi trong việc tiếp nhận kỹ thuật mới làm
cho năng xuất lao động tăng lên, sử dụng hiệu quả nguồn lao động dư thừa, có
nhiều điều kiện thu hút vốn để phát triển kinh tế. Thương mại không bao giờ chỉ
đem lại lợi ích cho quốc gia này còn quốc gia kia chịu thiệt. Thực tế đã chứng minh
tất cả các quốc gia giàu có trên thế giới đều giành được vị trí của họ nhờ vào yếu
tố - họ là những quốc gia thương mại lớn.
Để tăng trưởng kinh tế, các quốc gia phải mở cửa thị trường với nhau. Nhận
thức được thức tế cơ bản này, những nước ASEAN đã đồng ý mở cửa thị trường
khu vực của họ, cũng giống như thị trường các khu vực khác như châu Âu, Bắc Mỹ
.Toàn cầu hoá về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các quốc gia. Nó được biểu
hiện thông qua sự chuyển dịch tài chính giữa các nước (qua hoạt động đầu tư trực
tiếp, đầu tư gián tiếp, tín dụng quốc tế, tài trợ OAD…); sản phẩm sản xuất ngày
càng mang tính quốc tế cao (theo báo cáo của tổ chức OECD về kinh tế đưa ra kết


luận: trên 90% sản phẩm của các nước, có sự tham gia của hai nước trở lên, ví dụ
hàng nông sản do Việt Nam sản xuất nhưng phân bón lại của Indonesia, máy bơm
phục vụ tưới tiêu của Trung Quốc, thuốc trừ sâu nhập khẩu của Thái Lan…); hoạt
động thương mại giữa các nước gia tăng (theo báo cáo của WTO năm 2000:
năm1994 tổng kim ngạch thương mại thế giới là 8090 tỷ USD - lần đầu tiên kim
ngạch xuất nhập khẩu thế giới vượt quá 8000 tỷ USD, thì năm 2000 đã tăng lên gần
14000 tỷ USD); di dân và xuất khẩu lao động, vấn đề lao động và nhập cư…
Toàn cầu hoá kinh tế là một cỗ xe lớn. Cỗ xe muốn vận hành tốt thì trước
tiên nó phải được lắp giáp bằng những phụ tùng tốt và công nghệ thông tin, BCVT
là một trong những mắt xích quan trọng của bộ máy lớn đó. Toàn cầu hoá diễn ra
càng mạnh mẽ thì nhu cầu trao đổi thông tin, buôn bán thương mại điên tử được đòi
hỏi càng cao. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi muốn đưa ra quyết định để giải
quyết ba vấn đề cơ bản của kinh tế học: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất
như thế nào, đều phải trải qua các bước: thu nhập thông tin, thăm dò tìm hiểu thị
trường, tìm đối tác, tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm… và BCVT đã trở thành
công cụ không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh để phù hợp với sự phát triển
mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của thời đại ngày nay. Nó làm cho quá trình này dễ
dàng, nhanh chóng và thuận lợi hơn. Do đó phát triển mạng lưới BCVT là một yêu
cầu tất yếu trong quá trình hội nhập.
Theo nhận xét của các nhà kinh tế, có 6 yếu tố tác động đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghịêp Việt Nam đó là:
1.Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp .
2.Trình độ khoa học và công nghệ.
3.Chất lượng và hình thức của sản phẩm.
4.Năng lực sản xuất lao động.
2
5.Chi phí sản xuất và quản lí.
6.Đầu tư cho nghiên cứu,triển khai thương hiệu,kiểu dáng
công nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam tương đối thấp: năm 1997

xếp thứ 49/53; năm 1998 xếp thứ 39/53 (vì các nước trong khu vực chịu nhiều thiệt
hại do khủng hoảng tài chính tiền tệ); năm 1999 xếp thứ 48/59. Từ năm 2000 WEF
- diễn đàn kinh tế thế giới điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn
là: sáng tạo kỹ thuật, khoa học công nghệ; tài chính; quốc tế hoá trong đó trọng số
của sáng tạo kỹ thuật, khoa học công nghệ tăng từ 1/9 còn 1/3 và Việt Nam xếp thứ
53/59 năm 2000 và năm 2001 là 62/75.Với số liệu này cho thấy doanh nghiệp Việt
Nam chịu nhiều thiệt thòi để duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm
dịch vụ của mình vì nhiều yếu tố như: khả năng tiếp cận thị trường vốn, công nghệ,
ngoại tệ, chi phí của các dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng … đều bất lợi so với những
nước được xếp hạng. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho biết, kết quả của nhiều cuộc điều
tra và hội thảo cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thiếu nghiêm trọng
thông tin về thi trường, về những sản phẩm thích hợp có thể đưa ra thị trường thế
giới, về đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh. Công tác tiếp thị còn rất
nhiều hạn chế, ít được đầu tư. Nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được rằng trong
kinh tế thị trường thì bán hàng còn khó hơn sản xuất ra mặt hàng đó. Theo báo cáo
của phòng Thương mại và công nghệ Việt Nam ( ngày 25/10/2001) nhiều doanh
nghiệp Việt Nam chưa tổ chức tốt công tác thu thập thông tin về thị trường quốc tế,
gặp nhiều khó khăn về ngoại ngữ, thiếu khả năng tài chính để tiếp cận Internet ở
mức giá quá cao hiện nay. Vì vậy số doanh nghiệp có địa chỉ thư điện tử và sử
dụng Internet để giao dịch còn rất hạn chế, số trang chủ (website) của các doanh
nghiệp còn ít hơn và chậm được cập nhật. Nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen
phúc đáp kịp thời ( theo qui định là 24h) qua thư điện tử làm cho đối tác nước
ngoài thiếu tin tưởng. Vì thế phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông, giảm giá
3
cước dịch vụ… là vấn đề cấp thiết được đặt ra trong thời đại hiện nay, đặc biệt là
đối với Việt Nam.
Bảng 1: Doanh số thương mại điện tử toàn cầu 1997 - 2002.
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Doanh số (tỷ USD) 13,0 33,5 69,3 137,1 243,3 435,1
Tốc độ tăng trưởng % - 257,69 206,86 197,83 177,4 178,83

Nguồn: International Dât Corp - Canadian Economic Outlook.
2. Tình hình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BCVT
Bưu chính viễn thông giờ đây không đơn giản chỉ là phương tiện giao tiếp,
trao đổi thông tin mà thực sự đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ
câu kinh tế của mọi quốc gia. Trong qua trình hội nhập, các nước đều gặp phải sự
cạnh tranh mạnh mẽ, gay gắt trong lĩnh vực BCVT nói riêng như các yêu cầu mở
cửa thị trường BCVT, thực hiện các nguyên tắc tối huệ quốc (MFN-Most
Favoured Nation), nguyên tắc đối xử quốc gia (NT-National Treatment); giảm giá
cước dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ để tăng khả năng cạnh tranh. Việt Nam
là nước có trình độ khoa học kĩ thuật thấp, thiếu cơ sở vật chất, có xuất phát điểm
thấp hơn nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới nên chắc chắn sẽ gặp nhiều khó
khăn trong quá trình hội nhập. Nhưng không vì thế mà ta đứng ngoài xu thế chung
của thế giới, đợi chuẩn bị đầy đủ các điều kiện rồi mới tham gia. Cho nên Viêt
Nam đã từng bước đổi mới, cải cách, kiện toàn bộ máy quản lý và hệ thống luật
trong BCVT và đã tham gia vào các tổ chức BCVT trong khu vực và thế giới như:
liên minh bưu chính thế giới (UPU), liên minh bưu chính khu vực Châu á -Thái
Bình Dương (APPU), liên minh viễn thông quốc tế (ITU), tổ chức viễn thông
(ITSO) –Intelsat cũ), tổ chức thông tin vũ trụ Intersputnik, diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu á -Thái Bình Dương (APEC) và nhóm công tác chuyên ngành về thông tin và
viễn thông. Mỗi tổ chức quốc tế và khu vực, các hiệp định có những yêu cầu và
điều luật khác nhau, song nhìn chung tất cả đều nhằm mục tiêu: tự do hoá thương
mại, không phân biệt đối xử, công bằng và bình đẳng trong cạnh tranh, luật lệ,
chính sách minh bạch hoá, công khai.
4
2.1. Các cam kết về viễn thông của Việt Nam trong diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC)
Các cam kết về viễn thông trong APEC được thiết lập trên nguyên tắc tự
nguyện và có thể được điều chỉnh hàng năm trên nguyên tắc không được giảm bớt
mức độ tự do hoá với từng loại hình cam kết của các nền kinh tế thành viên. Với
nguyên tắc tự nguyện, các nước thành viên của APEC đặt ra mục tiêu sẽ tự do hoá

hoàn toàn viễn thông vào năm 2020, mức độ và lộ trình nằm trong chương trình
hành động của từng quốc gia. Năm 2002 các cam kết của Việt Nam về viễn thông
tại APEC về cơ bản còn nhiều hạn chế, mới dừng lại ở mức tối thiểu là chế độ đãi
ngộ tối huệ quốc và về cơ bản dựa trên các cam kết của Việt Nam trong Asean.
2.2. Các cam kết về viễn thông của Việt Nam trong Asean
Các cam kết về dịch vụ viễn thông của các nước ASEAN thể hiện trong Hiệp
định khung của ASEAN về thương mại dịch vụ – AFAS. Hiệp định này buộc các
nước thành viên phải tuân thủ triệt để quy chế đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc
gia. Các nước thành viên phải thông báo các giới hạn về đãi ngộ quốc gia cho từng
phương thức của bốn phương thức cung cấp dịch vụ viễn thông. Cụ thể, Việt Nam
cam kết không hạn chế việc cung cấp dịch vụ viễn thông đối với phương thức:
1) Cung cấp dịch vụ qua biên giới.
2) Tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài.
3) Hiện diện thương mại. Việt Nam đã cam kết mở cửa, cho phép các
nhà
đầu tư nước ngoài tham gia vào việc cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng trên cơ
sở hợp đồng hợp tác kinh doanh (BBC) với các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam
trong các loại hình dịch vụ sau: dịch vụ điện tử, dịch vụ thư thoại, dịch vụ trao đổi
dữ liệu, dịch vụ telex, dịch vụ điện báo, truyền số liệu chuyển mạch gói, truyền số
liệu mạch kênh, dịch vụ Facsimile, dịch vụ thuê kênh riêng, truy cập dữ liệu trực
tuyến, xử lí dữ liệu trực tuyến, chuyển đổi mã và gia thức và các dịch vụ giá trị gia
tăng Facsimile.
5
Tuy nhiên ASEAN cũng quy định: đối với quốc gia thành viên ASEAN mà
chưa tham gia vào Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (GATS), thì
bất cứ cam kết nào về mở cửa dịch vụ, trong đó có dịch vụ viễn thông, sẽ đuợc xác
định theo nguyên tắc “GATS plus”, tức là cam kết trong ASEAN phải mở cửa hơn
so với các cam kết mà nước đó đưa ra tại GATS. Như vậy, đến thời điểm hiện nay,
khi hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết và đã có hiệu lực, được đánh giá là
có tính cởi mở cao hơn các cam kết đã có trong AFAS, phù hợp với quy định về

tuân thủ bắt buộc quy chế tối huệ quốc của AFAS, các cam kết của Việt Nam trong
AFAS cần phải được hiểu là không kém thuận lợi hơn so với cam kết của Việt Nam
trong hiệp định thương mại Việt Nam _ Hoa Kỳ vì hiệp định này được coi là có
tính chất quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
2.3. Các cam kết về bưu chính viễn thông vủa Việt Nam trong hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký ngày 13/07/2000 và
được quốc hội nước ta phê chuẩn ngày 28/11/2001 . Ngày 10/12/2001 ,Bộ
trưởngthương mại Vũ Khoan và Bộ trưởng thương mại Hoa Kỳ Donal Evans đã
trao đối công hàm phê chuẩn Hiệp định ,chính thức đưa vào thực hiện từ ngày
10/12/2001 >Những vấn đề về khung thời gian được bắt đầu tính từ 01/2002
Nguyên tắc hợp tác chung kể từ khi hiệp định có hiệu lực đối với tất cả các
loại hình dịch vụ viễn thông là:
1) Cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới : các công ty Hoa Kỳ chỉ
được ký kết qua các thoả thuận khai thác với các nhà khai thác chạm cổng của Việt
Nam.
2) Tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài : không hạn chế .
3) Hiện diện thương mại : chỉ thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh
với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 2 năm (3 năm
đối với dịch vụ Internet) kể từ khi hiệp định có hiệu lực va phần góp vốn của phía
Hoa Kỳ không quá 50% vốn pháp định của liên doanh.
6
- Đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản : từ ngày 10/12/205 ( tức là sau 4
năm kể từ ngày hiệp định co hiệu lực ) các công ty Hoa Kỳ được phép thành lập
liên doanh ,với mức giới hạn cổ phần tối đa là 49% vốn pháp định của liên doanh.
- Đối với các dịch vụ điện thoại cố định bao gồm nội hạt , đường dài trong
nước và quốc tế:từ ngày 10/12/2007các công ty Hoa Kỳ dược phép thành lập liên
doanh với mức giới hạn cổ phần tối đa là 49% vốn pháp định của liên doanh .
Theo qui định của hiệp định ,Việt Nam cam kết sẽ xem xét việc tăng giới hạn
góp vốn của Hoa Kỳ trong linh vực viễn thông khi hiệp định được xem xét lại sau 3

năm .Các liên doanh cung cấp dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng và dịch vụ viễn
thông cơ bản chgưa được phép xây dựng mạng lưới riêng mà thuê laị chúng từ các
công ty khai thác dịch vụ Việt Nam
4) Hiện diện thể nhân :chưa cam kết ngoài các cam kết chung
Như vậy từ cuối năm 2003 các doanh nghiệp Hoa Kỳ dã có thể được thành
lập các liên doanh trong lĩnh vực các dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng bao gồm:
dịch vụ thư điện tử, dịch vụ thư thoại, dịch vụ truy cập cơ sở dữ liệu và thông tin
trên mạng, dịch vụ trao đổi điện tử ( EDI), dịch vụ fax nâng cao hay gia tăng giá trị,
bao gồm lưu giữ và gửi, lưu giữ và truy cập ,dịch vụ chuyển đổi mã hiệu ,dịch vụ
xử lý dữ liệu và thông tin trên mạng . Đến cuối 2004 các doanh nghiệp viễn thông
Hoa Kỳ sẽ được thiếp lập liên doanh cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam với
bất kỳ nhà khai thác được phép nào của Việt Nam
2.4. Các cam kết về bưu chính viễn thông của Việt Nam trong khuôn khổ
WTO
Tháng 1 năm 1995, Việt Nam bắt đầu đệ đơn xin ra nhậpWTO .Với mục tiêu
đặt ra là Việt Nam trở thành thành viên của WTO vào năm 2005,Việt nam đã có
nhiều cố gắng trong việc sửa đổi các điều luật và mở cửa thị trường. Trong lĩnh vực
BCVT, Việt Nam cũng đã ký một số cam kết trong hiệp định thương mại Việt Nam
–Hoa Kỳ - là cơ sở để Việt Nam tiến hành các cuộc đàm phán song phương và đa
phương với các nước thành viên.
7
Một số cam kết của GATS trong lĩnh vực dịch vụ BCVT :
-Lĩnh vực dịch vụ viễn thông :
+Sự minh bạch: Sự minh bạch yêu cầu phải được thể hiện toàn diện từ việc
mở cửa thị trường, việc sử dụng dịch vụ, biểu giá cước, đến việc quy định và chỉ số
kỹ thuật của mạng và dịch vụ, các điều kiện về cấp phép.
+ Sự thâm nhập và sử dụng dịch vụ : thể hiện ở :
Từng quốc gia thành viên phải đảm bảo cho bất kì nhà khai thác viễn thông
của quốc gia khác sẽ có khả năng thâm nhập và sử dụng dịch vụ và hệ thống thông
tin viễn thông công cộng với những điều khoản và điều kiện hợp lý, không phân

biệt đối xử.
Từng thành viên đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông của bất kì
thành viên nào khác của GATS có khả năng thâm nhập và sử dụng mọi hệ thống
thông tin viễn thông công cộng và dịch vụ được cung cấp trên toàn bộ lãnh thổ của
thành viên đó bằng cách : thuê hoặc mua điểm đầu cuối, hoặc các thiết bị khác vào
mạng để các nhà dịch vụ viễn thông có thể cung cấp được dịch vụ, kết nối mạch
thuê riêng, hoặc mạch thuộc sở hữu của các nhà khai thác khác vào mạng viễn
thông công cộng, sử dụng các phương thức khai thác do các nhà cung cấp dịch vụ
lựa chọn.
- Lĩnh vực bưu chính: bảng số liệu
Bảng 2: Lộ trình cam kết trong lĩnh vực dịch vụ chuyển phát nhanh.
8
Cung cấp qua
biên giới
Tiêu thụ ở
nước ngoài
Hiện diện
Thương mại
Hiện diện thể
nhận
F P N F P N F P N F P
N
Thâm nhập thị
trường (%
42 30 27 55 33 12 39 59 3 15 76
9
Đối xử quốc
gia (%)
45 30 24 55 30 15 42 58 0 9 79
12

F: Cam kết hoàn toàn
P: Cam kết từng phần
N: Không cam kết
2.5. Các cam kết trong một số tổ chức khác
-Tổ chức liên minh viễn thông Quốc tế-ITU<International
Telecommunication Union>
Được thành lập ngày 17/5/1865 có tên Liên minh điện tín Quốc tế
(International Telegraph Union ) với 20 thành viên ban đầu. Ngày 1/1/1934 Liên
minh điện tín Quốc tế quyết định đổi tên thành Liên minh viễn thông Quốc tế –
ITU với đầy đủ chức năng nhiệm vụ : các dạng thông tin như hữu tuyến, vô tuyến,
hệ thống cáp quang hay hệ thống điện tử khác.
Từ năm 1975 đến nay Chính phủ cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại
diện hợp pháp duy nhất của nước Việt Nam thống nhất tham gia vào Liên minh
viễn thông quốc tế. Là một thành viên của Liên minh ITU, Việt Nam đã tham gia
tích cực vào các hoạt động của tổ chức như :
Năm 1982 Việt Nam tham gia Hội nghị toàn quyền ở Nairobi (ở Kenya ), kí
công ước Nairobi-82.
Năm 1989 Việt Nam tham gia Hội nghị toàn quyền Nice (Pháp) và kí các
văn kiện Nice – 89.
Năm 1992 Việt Nam tham gia Hội nghị toàn quyền bổ sung ở Geneva (Thụy
Sĩ) và kí các văn kiện Geneva-92
9
Năm 1994 Việt Nam tham gia Hội nghị toàn quyền Kyoto (Nhật Bản) và kí
các văn kiện Kyoto – 94. Việt Nam được bầu vào Hội đồng điều hành ITU trong
nhiệm kì 1994-1998.
Năm 1998 Việt Nam tham gia Hội nghị toàn quyền Minneapolis (Mĩ) và kí
các văn kiện Minneapolis – 98. Việt Nam được tái cử vào Hội đồng điều hành ITU
trong nhiệm kì 1998 – 2002.
Năm 2002 Việt Nam tham gia Hội nghị toàn quyền Marrakech (Marốc) và kí
các văn kiện Marrakech – 02. Tại hội nghị này Việt Nam được tái cử lần 3 vào Hội

đồng điều hành ITU trong nhiệm kì 2002 – 2006.
Ngoài tham gia vào những hội nghị lớn này, Việt Nam còn có nghĩa vụ đóng
góp về tài chính cho các hoạt động của liên minh. Hiện nay, Việt Nam đăng kí
đóng góp hàng năm ở mức 1/2 đơn vị và mức đóng góp niên liễm của Việt Nam
cho năm 2003 là 157500 Phrang Thụy Sĩ.
Trong thời gian qua, Tổng cục Bưu điện ( nay là Bộ BCVT ) được nhà nước
ủy quyền đã tham gia tích cực nhiều hoạt động của ITU và qua đó uy tín của Việt
Nam đối với các tổ chức Quốc tế về viễn thông nói riêng đã được nâng cao. Việt
Nam đã được liên minh hỗ trợ tư vấn về chính sách cước phí và quản lý viễn thông,
đồng thời ITU đã phối hợp với Chương trình phát triển Liên hợp quốc xây dựng
một số dự án lớn như : dự án VIE85/019 về củng cố và trang bị mạng thông tin
chống bão lụt cho tỉnh Bình Trị Thiên; dự án VIE86/047 về nâng cấp phòng thí
nghiệm kĩ thuật số cho Viện khoa học kĩ thuật Bưu điện với số vốn do UNDP cấp
là 700000 USD và ITU là cơ quan điều hành được thực hiện từ năm 1989 đến năm
1993; dự án VIE89/006 về đánh giá tổng thể mạng viễn thông Việt Nam với tổng
số vốn UNDP cấp là 580000 USD và cũng do ITU điều hành thực hiện.
- Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương và nhóm công tác
chuyên ngành về viễn thông và công nghệ thông tin APEC and APEC TEL.
Việt Nam thường xuyên tham gia vào các cuộc họp Nhóm chuyên ngành
thông tin
10
và viễn thông và có những sáng kiến đóng góp vào sự thành công trong hoạt
động của nhóm. Việt Nam tham gia vào thoả thuận công nhận lẫn nhau về chứng
nhận hợp chuẩn thiết bị viễn thông (APEC TEL NRA ).Trong năm tài chính 2003-
2004 Việt Nam tham gia dự án “Mạng các trường đại học điện tử phục vụ cho phát
triển Chính phủ điện tử “ với tư cách là đồng chủ trì với các nước Thái Lan, Nhật
Bản, Philipin và Inđônêxia.
- Liên minh viễn thông Châu á Thái Bình Dương APT.
Là tổ chức chuyên ngành viễn thông trong khu vực được thành lập vào tháng
5/1979

dưới sự bảo trợ của ESCAP. Hiện nay APT đã được tăng cường với 32 Quốc
gia thành viên, 4 thành viên liên kết và 95 thành viên không chính thức.
Tháng 10/1979, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của APT và
tham gia các cuộc họp Đại hội đồng và Hội đồng quản trị của APT. Việt Nam tham
gia trong APT với mục tiêu đề xuất, đóng góp ý kiến để phát triển thành đề xuất
khu vực tại các diễn đàn quốc tế lớn, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực,
đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của APT qua các chương trình phát triển nguồn nhân
lực, chuyên gia tư vấn…
Hiện nay Việt Nam đóng niên liễm 1,5 đơn vị (tương đương với 11688$).
Bưu điện Việt Nam thường xuyên nhận được học bổng tham dự các khoá học tại
các nước trong khu vực về lĩnh vực kĩ thuật, phát triển nguồn nhân lực, quản lí…
(khoảng 20-25 học bổng/năm).
- Tổ chức Vệ tinh viễn thông Quốc tế ITSO ( Intelsat cũ)
(International Telecommunication Sattelite Organization )
Nhiệm vụ chủ yếu của ITSO nhằm đảm bảo rằng công ty Intelsat, trên cơ sở
kinh doanh, sẽ cung cấp các dịch vụ viễn thông công cộng quốc tế nhằm : duy trì
kết nối và phủ sóng toàn cầu.
Từ 1975 đến nay, Chính phủ CHXHCN Việt Nam là đại diện của nước
CHXHCN Việt Nam tại Intelsat. Sau khi INTELSAT cơ cấu lại tổ chức thành
11
ITSO, Việt Nam tiếp tục duy trì tư cách quốc gia thành viên trong ITSO. Tham gia
vào Hội nghị Toàn thể các nước thành viên ITSO được tổ chức 2 năm một lần để
đảm bảo quyền lợi thành viên và bảo vệ cho cổ đông của Việt Nam ( VNPT ) trong
công ty Intelsat. Thông qua các hoạt động của ITSO để tìm hiểu thông tin và kinh
nghiệm quản lý tần số, vệ tinh.
II. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI CỦA NGÀNH BƯU CHÍNH
VIỄN THÔNG VIỆT NAM
1. Những thuận lợi
Như các nhà kinh tế học cho rằng thương mại là chìa khoá dẫn đến sự giàu
có cho tất cả các quốc gia. Hợp tác thương mại làm cho các nước tham gia đều thu

được những nguồn lợi nhất định. Việt Nam tuy gặp phải nhiều khó khăn trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn có một số thuận lợi sau :
_ Thuận lợi trước tiên đó chính là tính chất của ngành BCVT – tính không
biên giới : Đặc điểm này có tác động không nhỏ tới việc phát triển kinh doanh của
các doanh nghiệp BCVT, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Việc tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế với tư cách là thành viên đầy đủ của các định chế thương
mại đa biên quốc tế, trong đó có các định chế thương mại đa biên về dịch vụ sẽ tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam gia tăng tính chủ động trong việc khai
thác các thị trường truyền thống và thị trường tiềm năng. Tức là, trước đây việc
thiết lập quan hệ dịch vụ được tiến hành bằng các hợp đồng, thoả thuận cung cấp
dịch vụ với các đối tác có quốc tịch nước ngoài tại thi trường nước ngoài ( thông
qua phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới ). Sau khi gia nhập các định chế
thương mại đa biên quốc tế. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ của Việt Nam có khả
năng gia tăng mức độ tham gia thông qua phương thức thâm nhập thị trường khác
như hiện diện thương mại, hiện diện thể nhân. Đồng thời bằng các cam kết song
biên trong khuôn khổ các cam kết có tính đa biên, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
BCVT khi thành lập các văn phòng đại diện, các công ty chi nhánh hay các liên
doanh cung cấp dịch vụ tại quốc gia sở tại sẽ được hưởng những bảo hộ về đầu tư,
12
bảo hộ về đãi ngộ quốc gia tương ứng với các đãi ngộ quốc gia mà Việt Nam dành
cho quốc gia khác. Đây là điều kiện tiền đề để các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
BCVT của Việt Nam vươn tầm quốc tế.
_ Nguyên tắc xác lập cam kết minh bạch và có khả năng tiên liệu trước sẽ tác
động đến việc hình thành các khung khổ pháp lý trong nước có tính tương đồng
ngày càng tăng với môi trường pháp lý quốc tế. Điều này giúp cho các doanh
nghiệp Việt Nam có thể rút ngắn được quá trình tìm hiểu thâm nhập thị trường mới,
có môi trường cạnh tranh lành mạnh.
_ Mĩ là một thị trường rộng lớn, có uy tín trên trường quốc tế ( chiếm gần
50% sản lượng công nghiệp, gần 20% trị giá XNK của thế giới. Mỗi năm xuất khẩu
gần 900 tỷ USD, nhập khẩu gần 1300 tỷ USD. Năm 2001 GDP của Mỹ lên đến gần

10000 tỷ USD – số liệu WTO công bố năm 2002 ), có vai trò nòng cốt chi phối sự
hoạt động của các định chế tài chính và thương mại quốc tế như IMF, WTO, WB,
ADB…cho nên kí hiệp định thương mại với Mỹ tạo ra khả năng tăng cường sự ảnh
hưởng thuận lợi của các tổ chức trên với nền kinh tế Việt Nam và giúp đẩy nhanh
tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam.
_ Tham gia vào các tổ chức BCVT trong khu vực và trên thế giới là điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam tiếp thu kinh nghiệm quản lý, các công nghệ khoa học
kĩ thuật mới, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng…đáp ứng từng bước yêu cầu chất
lượng trong hội nhập quốc tế.
2. Những khó khăn và thách thức.
BCVT đã thực sự trở thành phương tiện phục vụ thông tin liên lạc không thể
thiếu của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập nói riêng và của tất cả các
quốc gia khác nói chung. Trong quá trình xây dựng lộ trình và thực hiện các cam
kết trong chương trình hợp tác kinh tế ASEAN, APEC, Hiệp định thương mại Việt
Nam – Hoa Kỳ… Ngành BCVT Việt Nam gặo nhiều khó khăn do xuất phát điểm
thấp. Cụ thể là :
13
_ Nước ta xuất thân từ một nước nông nghiệp nghèo, lạc hậu, lại phải chịu
hậu quả nặng nề của chiến tranh vì thế về cơ sở vật chất của ta rất thấp, ảnh hưởng
nhiều đến quá trình mở rộng mạng lưới BCVT. Trình độ phát triển kinh tế còn
thấp, năng lực cạnh tranh trong nhiều ngành sản xuất và dịch vụ yếu. Do đó nhu
cầu sử dụng thông tin liên lạc rất ít.
Lĩnh vực thương mại điện tử ờng như còn rất mới mẻ đối với nền kinh tế
nước ta. Internet chưa được phổ cập rộng rãi. Các nhà khai thác dịch vụ viễn thông
chưa có kế hoạch mang tính dài hạn để khai thác nhu cầu sử dụng dịch vụ điện tử
viễn thông trong nước.
_ Cơ chế thị trường đang trong quá trình hình thành, khung pháp lý chưa
hoàn chỉnh nhất là trong lĩnh vực BCVT. Các nhà khai thác mới chỉ hình thành,
cạnh tranh chưa thực sự mạnh mẽ. Ngành BCVT Việt Nam hiện tại vẫn dừng ở
mức độ độc quyền nhà nước :

Thế và lực chủ yếu vẫn nằm tập chung trong tay của VNPT – một doanh
nghiệp nhà nước. Hiện nay Việt Nam có 6 nhà khai thác dịch vụ BCVT chính thức
là : VNPT – Tổng công ty BCVT Việt Nam, công ty cổ phần Dịch vụ BCVT
( SPT ), công ty điện tử viễn thông quân đội ( Vietel ), công ty Thông tin điện lực
( ETC ), công ty viễn thông Hà Nội ( Hanoi Telecom ) và công ty điện tử Hàng hải
( Vishipel ); nhưng chỉ có VNPT là được đầu tư lớn nhất và được toàn quyền trong
việc khai thác, xây dựng, cung cấp trong Bưu chính – Viễn thông. Ví dụ như khai
thác thông tin vệ tinh chỉ có VNPT được quyền khai thác, thậm chí một số nhà khai
thác như Hanoi Telecom, ETC, Vishipel vẫn phải thuê một số kênh, đường truyền
của VNPT.
_ Bưu điện Việt Nam tuy có tốc độ phát triển và hiện đại hoá hơn một số
ngành khác đã mở rộng được nhiều loại hình dịch vụ đáp ứng ngày càng sát với
nhu cầu của khách hàng, nhưng nhìn chung hoạt động vẫn kém hiệu qủa, về mặt tài
chính vẫn phải dựa nhiều vào viễn thông ( bưu chính chiếm tỷ lệ doanh thu nhỏ bé
so với viễn thông, chỉ đạt 7% còn viễn thông chiếm 93% trong lực lượng lao động
14
lại quá lớn, chiếm 50% số lao động toàn ngành ). Nguyên nhân là do quy mô và
năng lực mạng lưới còn chưa bắt kịp với các nước khác trong khu vực và trên thế
giới.
_ Hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành nhằm xây dựng một môi
trường pháp lý phù hợp với điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên,
các văn bản này chưa tạo ra được môi trường pháp lý hoàn chỉnh, đủ sức điều chỉnh
các mối quan hệ trong lĩnh vực BCVT. Còn thiếu nhiều văn bản pháp luật về mối
quan hệ và chính sách về kinh doanh và công ích trong môi trường cạnh tranh, về
cước phí, xử lý vi phạm BCVT.
_ BCVT Việt Nam còn chứa đựng nhiều phức tạp về dịch vụ thông tin. Điều
đó thể hiện qua môi trường cạnh tranh, biểu giá dịch vụ thông tin, tình trạng việc
làm trong ngành, triển vọng phát triển thị trường này trong trung hạn còn chưa rõ
ràng.
_ Trong thời đại ngày nay, khi trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ phát

triển ngày càng cao thì các điều luật về sở hữu trí tuệ được đặt ra càng chặt chẽ,
nhất là trong WTO. Nhưng luật sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế của ta còn khá mới
mẻ, ít được quan tâm, đặc biệt tính cưỡng chế trong thi hành luật sở hữu trí tuệ còn
chưa cao. Đó cũng là nguyên nhân làm giảm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư của
Việt Nam. Đồng thời, trong qúa trình hội nhập các nhà khai thác dịch vụ thông tin
của ta cũng gặp phải nhiều khó khăn để không vi phạm luật và bảo vệ được quyền
lợi của mình nếu xảy ra tranh chấp
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
1. Giải pháp
_ Việt Nam là một thi trường nhiều tiềm năng, nền kinh tế nước ta đang dần
bước vào hoạt động năng động và hiệu quả hơn,nhu cầu sử dụng Internet và ĐTDD
đang bùng nổ. Vì thế các nhà khai thác dịch vụ cần đưa ra được một kế hoạch kinh
doanh cụ thể,đảy mạnh công tác marketing và chăm sóc khách hàng, đổi mới công
15
nghệ và giảm giá cước để chiếm được đa số thị phần trong nước so với các nhà
khai thác dịch vụ viễn thông nước ngoài.
_ Để làm được điều đó thì ngành BCVT Việt Nam phải tạo ra được một sân
chơi lành mạnh, phải tự do hoá thị trường trong nước về dịch vụ thông tin. Ta cần
nhanh chóng hoàn thiệ khung pháp lý, những điều luật về cạnh tranh, khai thác dịch
vụ, về cướ phí, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… giúp cho các nhà khai thác dịch vụ
yên tâm kinh doanh; đồng thời cũng đòi hỏi phải nâng cao trình độ quản lý, cải tiến
công nghệ…để đưa ra được một phương án kinh doanh hiệu quả mới có thể tồn tại
được trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt này.
_ Bộ máy hành chính trong ngành BCVT cũng như nhiều ngành kinh tế khác
của Việt Nam còn quá cồng kềnh, nguồn nhân lực chưa được sử dụng hợp lý.
Nguyên nhân một phần do trìng đọ năng lực của nhân viên còn thấp; mặt khác do
thái độ ỷ lại, không tích cực trong công việc –do ảnh hưởng của nền kinh tế tiểu
nông lâu đời của ta. Vì vậy các nhà khai thác dịch vụ cần tiến hành cải cách bộ máy
hành chính, sử dụng nguồn nhân lực của mình hiệu quả hơn, phân công đúng người
đúng việc đẻ có thể phát huy hết khả năng của họ; đòng thời cần có kế hoạch đào

tạo bổ sung thường xuyên cho cán bộ nhân viên để bắt kịp với sự thay đổi nhanh
chóng của CNTT.
2. Một số thành tựu đạt được
Ngành BCVT Việt Nam trong quá trình hội nhập phải đối mặt với nhiều
thách thức khó khăn do nhiều yếu tố tác động như vốn, trình độ kỹ thuật, công
nghệ, khả năng tổ chức và điều hành còn thiếu kinh nghiệm, chưa bắt kịp được với
những đòi hỏi ngày càng cao trong giai đoạn mở cưa thị trường, bùng nổ CNTT.
Tuy nhiên , bằng nhiều nỗ lực cố gắng cải thiện, đổi mới mô hình quản lý, ban
hành luật BCVT … ngành BCVT của ta cũng đã đạt được những bước tiến quan
trọng.
Trước hết, việc BCVT tham gia vào một số tổ chức Bưu chinh-Viễn thông
trong khu vực và thế giới đã đánh dấu bước tiến quan trọng của BCVT Việt Nam
16
ttrong quá trình hội nhập. Hiện nay Việt Nam đã là thành viên chính thức trong liên
minh viễn thông thế giới (IITU), liên minh viên thông khu vực (APT), trong các tổ
chức ITSO, INTERSPUTNIK, trong liên minh Bưu chính thế giới (UPU), liên
minh Bưu chính khu vực (APPU)… Điều đó đồng nghĩa với việc ngành BCVT
Việt Nam đã đáp ứng được phần nào yêu cầu của hội nhập quốc tế như: tự do hoá
trong cạnh tranh, vấn đè minh bạch, yêu cầu về công nghệ, cơ sở vật chất… tạo
được nhữnquốc gia chuyển biến cơ bản chuẩn bị cho quá trình gia nhập WTO.
Một bước chuyển biến quan trọng trong cải cách mô hình quản lý đó là sự
kiện VNPT chuyển thành tập đoàn BCVT (TĐBCVT), mà bước đi quan trọng đầu
tiên là chủ trương tách Bưu chính ra khỏi Viễn thông. Theo ông Bùi Quốc Việt-
Giám đốc trung tâm Thông tin Bưu điện cho biết: khi VNPT chuyển thành tập đoàn
BCVT Việt Nam, đây sẽ là một tập đoàn có quy mô lớn, kinh doanh đa ngành,
trong đó bưu chính viễn thông và công nghẹ thông tin là lĩnh vực kinh doanh chính
được chuyên môn hoá cao, có sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế trong
và ngoài nước. Khi chuyển thành TĐBCVT Việt Nam, các lĩnh vực kinh doanh sẽ
được chuyển liên kết theo kiểu hành chính với cơ chế giao vốn hiện nay, sang liên
kết theo mô hình công ty mẹ-công ty con. TĐBCVT Việt Nam sẽ là một tổ hợp

kinh tế bao gồm các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lạp, đa sở hữu, trong
đó sở hữu nhà nước đóng vai trò chủ đạo có sự tham gia của các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước. Quyết định tach Bưu chính ra khỏi Viễn thông tuy không phải
là một sáng tạo mới mẻ đối với nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Malaysia, Australia,
Pháp… nhưng là một bước đi dũng cảm và nhạy bén đối với BCVT Việt Nam để
đảm bảo phá triển bền vững trong cạnh tranh và hội nhập. Việc tập trung quản lý
Bưu chính và Viễn thông trong thời gian qua đa bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế
sự năng động trong việc cung cấp dịch vụ, an toàn mạng lưới, chăm sóc khách
hàng, hạn chế hiệu quả đầu tư. Việc hạch toán không rõ ràng giũa hai khối đã khiến
Bưu chính chưa thực sự phát huy hiệu quả tối ưu hoạt động. Vì thế việc bóc tqách
này để nâng cao hiệu quả mạng lưới, giảm bớt sự đầu tư không cần thiết và sử dụng
17
hợp lý lao động. VNPT triển khai thí điểm tách Bưu chính – Viễn thông tại 10 bưu
điện tỉnh gồm: Lào Cai, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nam, Nghệ An, Thừa Thiên Huế,
Lâm Đồng, Ninh Thuận, Long An và Cần Thơ đã bước đau thu được thành công
nhất định. Sau khi tách, hạch toán Bưu chính-Viễn thông vẫn đạt mức tăng trưởng
khá, khối Bưu chính tỏ ra năng động hơn, đưa tỷ trọng doanh thu Bưu chính từ 5-
7% lên tới 18-30% trong tổng doanh thu dịch vụ bưu chính viên thông.
BCVT đã dần trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho các ngành kinh tế khác
như dịch vụ mua bán hàng qua Internet. Nhiều dịch vụ bưu điện đã được mở ra đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng như: dịch vụ nhận, chuyển, phát bưu
phẩm bưu kiện; dịch vụ lưu ký; dịch vụ kho vận; dịch vụ datapost; dịch vụ khai giá;
dịch vụ chuyển tiền điện tử quốc tế…
Internet đã được phổ cập rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Năm 2002-
2003 tất cả các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề được
kết nối Internet. Đến năm 2005: đạt mật độ bình quân 1,3-1,5 thuê bao/100 dân, tỷ
lệ số dân sử dụng Internet là 4-5%, đảm bảo các dịch vụ trong môi trường Interner
cho phát triển thương mại điện tử, dịch vụ ngân hàng, tài chinh, hải quan…
Từ năm 2002, giảm giá cước truy cập Internet tới mức bình quân của khu
vực; giảm cước viễn thông phục vụ phát triển Internet tới mức giá thành; đổi mới

chính sách quản lý giá cước theo cơ chế thị trường; thúc đảy các doanh nghiệp
nâng cao chất lượng, giảm giá thành dịch vụ Internet.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. www.google.com
2. www Buuchinhvienthong.com
3. Hiệp định giữa cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ về quan hệ Thương mại - Thời cơ và thách thức - Luật sư, tiến sĩ Luật
học Phan Hữu Thư
19
MỤC LỤC
20

×