Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Một số giải pháp và kiến nghị đối với ngành viễn thông trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.31 KB, 129 trang )


1
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới, đó là thời đại của nền kinh
tế tri thức, thời đại của xã hội thông tin. Trong chính sách phát triển của các quốc
gia trong đó có Việt Nam, viễn thông luôn được coi là một ngành kinh tế kỹ thuật
quan trọng và là một trong những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn ảnh hưởng tới sự phát
triển của nền kinh tế, đồng thời là lĩnh vực ảnh hưởng nhạy cảm đối với an ninh,
chính trị của quốc gia.
Trên thế giới, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách mạnh
mẽ, nó lôi cuốn các quốc gia, các ngành, các lĩnh vực tham gia cuộc chơi chung vì
những lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Trong xu thế này, Việt Nam nói
chung và ngành viễn thông nói riêng đã và đang tích cực tham gia quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế mà mục tiêu đặt ra là gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
vào cuối năm nay, năm 2005.
Bắt đầu từ năm 2003, các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến ngành
viễn thông bắt đầu có hiệu lực, trong đó đặc biệt là Hiệp định Thương mại Việt Nam
Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang trong giai đoạn cuối gấp rút đàm
phán gia nhập WTO, do đó việc nghiên cứu về thực trạng hội nhập của ngành viễn
thông trong thời gian qua là rất cần thiết.
Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài: Ngành viễn thông Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế làm đề tài luận văn cao học. Trong
luận văn này, tác giả chỉ ra những yêu cầu của hội nhập, mà đặc biệt là các yêu cầu
của Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, yêu cầu của WTO về lĩnh vực viễn
thông, phân tích những vấn đề mà Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu và những vấn
đề mà cần phải rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập.
2. Mục đích của chuyên đề
Chuyên đề đi sâu phân tích thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của ngành
viễn thông Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở phân tích những thực trạng đó,


2
tác giả đưa ra những giải pháp và khuyến nghị để phát triển ngành viễn thông trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế của
ngành viễn thông Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn phân tích thực trạng hội nhập kinh tế quốc
tế của ngành viễn thông Việt Nam trong những năm gần đây với việc đi sâu vào các
vấn đề như hoạt động quản lý nhà nước về viễn thông, môi trường pháp lý, mở cửa
thị trường, năng lực cạnh tranh của ngành, môi trường đầu tư có yếu tố nước ngoài
và thực trạng nguồn nhân lực viễn thông.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề khoa học sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như duy
vật lịch sử, duy vật biện chứng, diễn dịch, các phương pháp phân tích tổng hợp, so
sánh, phương pháp đối chiếu, khái quát hoá... trên cơ sở sử dụng số liệu thống kê và
tư liệu của ngành viễn thông để phân tích, đánh giá và rút ra kết luận cho vấn đề
nghiên cứu.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luật và phần tài liệu tham khảo, chuyên đề bao gồm
3 chương:
Chương 1: Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế và thể chế hội nhập kinh tế
quốc tế của ngành viễn thông Việt Nam
Chương 2: Thực trạng ngành viễn thông Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị đối với ngành viễn thông trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.


3
Chương I

Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế và thể chế hội
nhập kinh tế quốc tế của ngành viễn thông

1.1 Những khái niệm chung và các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1 Khái niệm và vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập (hay liên kết) kinh tế quốc tế được hiểu là quá trình các nền kinh tế
thế giới kết hợp với nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau. Hội nhập
kinh tế quốc tế được coi là một khâu trong quá trình phát triển và là tiền đề của sự
phát triển bền vững.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới.
Một quốc gia nếu không muốn tụt hậu thì không thể không tham gia vào quá trình
quốc tế hoá đời sống kinh tế, hội nhập nền kinh tế quốc tế, tham gia vào phân công
lao động và hợp tác quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những lợi ích kinh tế mà không phải quốc
gia nào cũng có được. Hội nhập thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho
mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ,
trình độ quản lý. Về lâu dài, tự do hoá thương mại góp phần tăng năng suất lao
động, tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra cho các quốc gia những
thách thức mới cần phải xử lý cho phù hợp với quá trình tự do hoá thương mại.
Những thách thức đó là: phải điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên cơ sở
xoá bỏ những hạn chế về thương mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan; vấn đề
việc làm và giải quyết thất nghiệp; cải cách hệ thống tài khoá
Phương thức hội nhập: các quốc gia tiến hành cam kết mở cửa cho phép các
doanh nghiệp, công dân của các quốc gia khác thâm nhập vào thị trường của mình
theo các quy định nhất định trên cơ sở thoả thuận song phương, đa phương. Về cơ
bản các cam kết được xây dựng trên cơ sở lĩnh vực thương mại hàng hoá và thương
mại dịch vụ.

4

Lộ trình mở cửa hội nhập: là các cam kết được thể hiện theo thời gian trên cơ
sở thoả thuận nhằm cho phép sự thâm nhập của các doanh nghiệp, công dân của các
quốc gia khác được tiến hành kinh doanh, sản xuất trên lãnh thổ của mình với các
đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia.
Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế: là mức độ mà một quốc gia tham gia vào
các liên kết kinh tế quốc tế
1.1.2 Liên kết kinh tế quốc tế
Có thể nói các liên kết kinh tế quốc tế là biểu hiện của hội nhập kinh tế quốc
tế. Liên kết kinh tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hoá có tính
chất quốc tế đối với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế. Đó là sự thành
lập một tổ hợp kinh tế quốc tế của một nhóm thành viên nhằm tăng cường phối hợp
và điều chỉnh lợi ích giữa các bên tham gia, giảm bớt sự khác biệt về điều kiện và
trình độ phát triển của mỗi bên và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả về
bề rộng và bề sâu.
1.1.3 Các loại hình liên kết kinh tế quốc tế
Liên kết kinh tế quốc tế được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau. Nếu căn
cứ vào trình độ của liên kết kinh tế quốc tế có thể chia các liên kết thành các dạng:
khu thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế và
liên minh tiền tệ:
a) Khu thương mại tự do (Free Trade Area)
Sự thành lập một khu vực thương mại tự do là giai đoạn đầu của quá trình hội
nhập kinh tế khu vực. Đây là một hình thức liên kết kinh tế mà các thành viên cùng
nhau thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán
về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là:
- Giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối
với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.
- Tiến tới tạo lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ.

5
- Mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn

bán với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính sách
ngoại thương riêng đối với các quốc gia ngoài khối (các quốc gia ngoài liên
minh). Hiện nay các liên kết như EFTA (European Free Trade Area),
NAFTA (North American Free Trade Agreement); AFTA (ASEAN Free
Trade Area) là những liên kết tiêu biểu thuộc hình thức liên kết này.
b) Liên minh hải quan hay đồng minh hải quan (Customs Union)
Đây là liên minh quốc tế nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hợp tác giữa các
nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên
cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia
thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các
quốc gia ngoài liên minh, tức là phải thực hiện chính sách thuế quan chung đối với
các nước không phải là thành viên. Thí dụ, Cộng đồng kinh tế Châu Âu ở thời kỳ
trước 1992 (European Economic Community).
c) Thị trường chung (Common Market)
Là liên kết quốc tế ở mức độ cao hơn liên minh hải quan. ở mức độ liên kết
này, các thành viên ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế
quan trong trao đổi thương mại, các thành viên còn thoả thuận và cho phép: tư bản
và lực lượng lao động được tự do di chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng
bước hình thành thị trường thống nhất. (Các quốc gia trong cộng đồng kinh tế châu
Âu EEC từ năm 1992 thuộc loại hình liên kết này).
d) Liên minh kinh tế
Là liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về sự tự do di chuyển hàng
hoá, dịch vụ, vốn và lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất
biểu thuế quan chung áp dụng cho cả các nước không phải là thành viên. Ngoài ra
các nước thành viên còn phối hợp các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ (liên
minh Châu Âu (EU) từ năm 1994 được coi là liên minh kinh tế).

6
e) Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Đây là hình thức liên kết kinh tế với các mục tiêu:

- Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng (dân
tộc) của các nước thành viên.
- Thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ
- Xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng trung ương của
các nước thành viên.
- Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước ngoài
liên minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.
- Liên minh châu Âu đã có 25 nước tham gia thống nhất sử dụng chung đồng
EURO thuộc loại hình liên kết này.
1.2 Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về mở cửa và hội nhập
với thế giới, Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế với việc tham gia các thể chế sau:
1.2.1.Hiệp hội các quốc gia Đông nam á
Hiệp hội các quốc gia Đông nam á (ASEAN) được thành lập vào ngày 8
tháng 8 năm 1967 bao gồm Inđônêxia, Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippin.
Sau đó, Brunei Darusalem được kết nạp vào ngày 8 tháng 1 năm 1984 và từ ngày
28/7/1995 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội này, tiếp
sau đó là hai nước Lào và Myanma (1998) và Campuchia (1999).
Mục tiêu thành lập ASEAN đã được nhấn mạnh trong Tuyên ngôn ASEAN gồm:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực
bằng những nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm xây dựng
nền tảng cho một cộng đồng các quốc gia Đông nam á thịnh vượng và hoà bình.
- Củng cố hoà bình và ổn định trong khu vực. Trong quan hệ giữa các quốc gia
tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.

7
- Là diễn đàn để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong khu vực.
Thời kỳ đầu hợp tác kinh tế chưa có vai trò nổi bật trong ASEAN. Những
năm 70 và 80 của thế kỷ XX đã có những thoả thuận hợp tác về kinh tế và thương
mại như Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA), Chương trình hỗ trợ công nghiệp

ASEAN (AIC), Dự án công nghiệp ASEAN (AIP), Chương trình liên doanh công
nghiệp ASEAN (AIJV). Tuy nhiên, thời kỳ này chưa có những thành tựu hợp tác
kinh tế đáng ghi nhận trong khối.
Một mốc đánh dấu sự chuyển đổi trọng tâm hợp tác của ASEAN sang các
vấn đề kinh tế là việc các nước ASEAN quyết định thành lập Khu vực thương mại tự
do ASEAN (AFTA) vào năm 1992. Khu vực thương mại tự do ASEAN dựa trên các
yếu tố cơ bản sau:
- Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).
- Thống nhất công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên.
- Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá.
- Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với hoạt động thương mại
- Tăng cường hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô
Trong các yếu tố trên chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung có vai
trò quan trọng nhất.
Ngoài Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ASEAN còn có các
chương trình và hiệp định hợp tác quan trọng như:
- Hiệp định khung về đầu tư của ASEAN
- Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO)
- Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS), và hai nghị định thư cam
kết giảm hàng rào thương mại trong 7 lĩnh vực dịch vụ gồm tài chính, vận tải
biển, du lịch, xây dựng, hàng không, kinh doanh và bưu chính viễn thông
- Xúc tiến ký kết Hiệp định khung e-ASEAN.

8
Ngay sau khi trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam đã cam kết tích cực
tham gia các chương trình và hoạt động của Hiệp hội trong đó có việc thực hiện
CEPT/AFTA. Tại Hội nghị Hội đồng AFTA ngày 10/12/1995, Việt Nam đã công bố
các danh mục và lộ trình cắt giảm thuế qua cho toàn bộ thời kỳ 1996-2000, gồm
1633 nhóm mặt hàng, chiếm 50,1% tổng các nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập
khẩu của Việt Nam. Trong lộ trình cắt giảm thuế này, danh mục các mặt hàng đưa

vào cắt giảm ngay của Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng đang có thuế suất thấp
hơn 5%. Do vậy, lịch trình cắt giảm không có ảnh hưởng lớn đến nhập khẩu và thu
ngân sách từ thuế nhập khẩu.
Năm 1996, Việt Nam đã công bố đưa thêm vào danh mục cắt giảm ngay 857
mặt hàng. Năm 1997 Việt Nam tiếp tục đưa thêm vào diện thực hiện CEPT 621 mặt
hàng, năm 1998 là 137, năm 1999 là 1949 và năm 2000 là 640
(1)
. Năm 2003, Việt
Nam đưa thêm 1.374 mặt hàng vào danh mục cắt giảm, nâng tổng số mặt hàng vào
diện cắt giảm thuế lên 10.143 mặt hàng
(2)

Từ năm 2006 trở đi, Việt Nam sẽ đưa các mặt hàng còn lại vào diện cắt giảm
thuế và phải giảm thuế suất các mặt hàng này xuống bằng 0 5%, trừ 139 mặt
hàng nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn và 51 mặt hàng nhạy cảm có lộ trình
giảm thuế chậm hơn
(3)
.
Ngoài việc thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo cam kết, Việt Nam còn
thực hiện các cam kết khác như hợp tác trong việc thống nhất tiêu chuẩn chất lượng,
công nhận lẫn nhau về kiểm tra và chứng nhận chất lượng, loại bỏ dần các rào cản
đối với đầu tư nước ngoài v.v... Trong lĩnh vực hải quan, Việt Nam dã hợp tác với
các nước ASEAN trong việc thống nhất danh mục biểu thuế quan ASEAN, thực hiện

(1) Bộ Tài Chính. Lịch trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam để thực hiện khu vực mậu dịch tự
do CEPT/AFTA, Nxb Tài Chính, 1998.
(2) Chương Chí Trung. Thời báo Kinh tế, số 39, 8/3/2004, tr.3
(3) Lương Văn Tự. Việt Nam thực hiện cam kết tham gia AFTA. <>



9
các cam kết về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan, áp dụng thống nhất Hiệp
định trị giá hải quan của WTO v.v...
1.2.2 Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC)
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập
năm 1989 ở Australia với 12 nước ban đầu. Đến nay, số thành viên của APEC đã là
21 nước. APEC gồm hai nền kinh tế mạnh nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản, cùng với
các nền kinh tế tăng trưởng nhanh ở Đông á như Trung Quốc, NIEs châu á, các nước
ASEAN. APEC là một khu vực kinh tế lớn nhất thế giới, bởi lẽ APEC có cả thành
phần của Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), có cả thành phần của Khu
vực Thương mại tự do ASEAN AFTA, cũng như thành phần của khu vực hợp tác kinh
tế giữa Australia và Niu Dilân. Các nền kinh tế thành viên APEC hiện chiếm tới 57%
tổng sản phẩm GDP của thế giới, khoảng 14.469 tỷ USD, và gần một nửa thương mại
toàn cầu
(1)
. Đối với Việt Nam, quan hệ thương mại với các nền kinh tế thành viên
APEC chiếm khoảng 62% cơ cấu xuất khẩu và 72% cơ cấu nhập khẩu
(2)
.
Tuyên bố Xơ-un 1991 đề ra 4 mục tiêu phát triển trong APEC gồm:
- Duy trì tăng trưởng và phát triển, vì lợi ích chung của nhân dân các quốc gia
trong khu vực, góp phần vào tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế thế giới.
- Phát huy những tác động tích cực của sự phụ thuộc kinh tế ngày càng tăng
đối với kinh tế khu vực và thế giới bằng cách đẩy mạnh sự giao lưu hàng hoá,
dịch vụ, vốn và công nghệ.
- Xây dựng và tăng cường hệ thống thương mại đa biên, vì lợi ích của châu á -
Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác.

(1) Việt Nam: Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr.441 440

(2) Bộ Kế hoạch Đầu tư. Việt Nam sau 5 năm gia nhập APEC. Trang website của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư:

10
- Giảm dần những rào cản đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ giữa các
nền kinh tế thành viên, phù hợp với các nguyên tắc của WTO và không có hại
đối với các nền kinh tế khác.
Tuyên bố Bô-go 1994 xác định mục tiêu của APEC là: thực hiện tự do hoá
thương mại và đầu tư tại Châu á - Thái Bình Dương đối với các nền kinh tế phát
triển vào năm 2010 và đối với các nền kinh tế đang phát triển vào năm 2020.
Nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra, nội dung hoạt động của APEC xoay
quanh ba trụ cột chính là tự do hoá thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương
mại và đầu tư, và hợp tác kinh tế kỹ thuật với các Chương trình hành động tập thể
(CAP) và Chương trình hành động quốc gia (IAP) của từng thành viên. Nói cách
khác, mục tiêu của APEC không phải là để xây dựng một khối thương mại, một liên
minh thuế quan hay một khu vực mậu dịch tự do như kiểu EU, NAFTA, hay AFTA,
mà là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế, thúc đẩy
thương mại và đầu tư giữa các nền kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện
trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác. Tất cả những nội
dung này hoạt động theo nguyên tắc cùng có lợi, nguyên tắc đồng thuận, nguyên tắc
tự nguyện và phù hợp với nguyên tắc của WTO/GATT.
Sau 16 năm tồn tại và phát triển, với vai trò là một tổ chức nhằm thúc đẩy mở
cửa và hợp tác về kinh tế thương mại giữa các nền kinh tế Châu á - Thái Bình
Dương, góp phần hình thành cơ chế buôn bán mở toàn cầu, APEC hiện đang đứng
trước những vấn đề không đơn giản. Có thể nói rằng, từ khi thành lập cho đến những
năm 1994, 1995, APEC tỏ ra là tổ chức hoạt động năng động và hiệu quả. Nhưng từ
sau Hội nghị cấp cao 1998, các hoạt động trong APEC đã có chiều hướng đi xuống
và không đạt được những kết quả về thực chất. Hướng hoạt động chính của APEC là
thúc đẩy mở cửa thông qua chương trình EVSL đã bế tắc và phải đưa vào đàm phán
trong WTO; lĩnh vực quan trọng khác là hợp tác kinh tế kỹ thuật thì tiến triển

chậm chạp.
Tuy vậy, xét về ba trụ cột của APEC, có thể thấy vấn đề tự do hoá thương mại
và tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư vẫn là chủ đề mà các thành viên APEC
tiếp tục theo đuổi và tập trung thực hiện. Bên cạnh đó, Chương trình hợp tác kinh tế

11
kỹ thuật (ECOTECH), trong đó nhấn mạnh đến công tác xây dựng năng lực, thu
hẹp khoảng cách, phát triển nguồn nhân lực đang trở thành một vấn đề được các
thành viên APEC quan tâm và chú trọng hơn bao giờ hết.
Việt Nam gia nhập APEC năm 1998. Tuy là một nền kinh tế đang phát triển
trong giai đoạn chuyển đổi. Việt Nam đã tích cực tham gia vào các chương trình
hoạt động của APEC. Tháng 10/1998, Việt Nam đã hoàn thiện Chương trình hành
động quốc gia và nộp cho APEC, sau đó hàng năm chung ta tiếp tục nâng cấp và
cụ thể hoá hơn các cam kết đưa ra trong IAP. Cam kết và thực hiện IAP của Việt
Nam được coi là nghiêm túc nhất trong số các thành viên mới gia nhập (đã mở
rộng cam kết trong 11 trên tổng số 15 lĩnh vực). Trong thời gian tới, Việt Nam tập
trung dành ưu tiên cho chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật, tham gia có chọn
lọc một số Kế hoạch hành động cụ thể (CAP) như thủ tục hải quan, tiêu chuẩn chất
lượng, du lịch
1.2.3 Tổ chức thương mại thế giới
a) Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức quốc tế điều phối thương
mại toàn cầu có vai trò quan trọng bậc nhất hiện nay. WTO hiện có 148 nước thành
viên và chiếm tới 97% thương mại của thế giới. Là thành viên của WTO các nước sẽ
được hưởng các định chế thương mại và một môi trường thương mại bình đẳng hơn
trong khối, đương nhiên đi kèm với thuận lợi này là những thách thức lớn hơn khi
hàng rào bảo hộ của quốc gia bị dỡ bỏ.
Việt Nam đang trong quá trình đàm phán để sớm trở thành thành viên của
WTO. Đây là một bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước. Trở thành thành viên của WTO sẽ làm thay đổi sâu sắc môi trường

kinh tế và thương mại của nước ta cả trước mắt và lâu dài.
b) Các nguyên tắc của hệ thống thương mại của WTO
WTO chính thức ra đời vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 thay thế Hiệp định
chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) được ký kết vào năm 1947. Kế thừa tinh

12
thần và nguyên tắc của GATT, WTO đã nâng GATT lên một tầm cao mới. Các văn
kiện của GATT 1947 giờ đây đã được sửa đổi, cập nhật và được gọi là GATT 1994.
Các hiệp định của WTO do vậy đã mang tính chất của các đạo luật, còn tổ chức của
nó có thể ví như một thực thể kết hợp giữa nghị viện và toà án.
WTO tiếp tục thực hiện những mục tiêu được nêu ra trong lời nói đầu của
GATT 1947 là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, tạo việc làm,
thúc đẩy tăng trưởng và thương mại, và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của
thế giới.
Các hiệp định của WTO bao trùm rất nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên
chúng đều được xây dựng dựa trên những nguyên tắc chung làm nền tảng cho hệ
thống thương mại đa phương. Các nguyên tắc đó là: không phân biệt đối xử, thương
mại tự do hơn, có thể dự đoán, khuyến khích cạnh tranh công bằng, và ưu đãi hơn
cho các nước kém phát triển.
Không phân biệt đối xử trong thương mại, điều đó có nghĩa là:
Thứ nhất, một nước không được có sự phân biệt đối xử giữa các đối tác
thương mại của mình. Khi nó trao quy chế tối huệ quốc (MFN), còn được gọi là
quan hệ thương mại bình thường cho một đối tác thương mại ví dụ: ưu đãi đặc biệt
nào đó như mức thuế quan thấp, thì đương nhiên tất cả các đối tác thương mại khác
là thành viên của WTO đều được hưởng sự ưu đãi đó.
Thứ hai, một nước phải thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT), có nghĩa
là hàng hoá nhập khẩu phải được đối xử bình đẳng như hàng hoá sản xuất trong
nước. Nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho các dịch vụ, thương hiệu, quyền sở hữu
trí tuệ. Với nguyên tắc này WTO ngăn cấm một nước áp đặt thuế hoặc các biện pháp
điều chỉnh nhằm chống lại các sản phẩm của nước ngoài.

Thương mại tự do hơn: nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên phải
ngày càng mở cửa thị trường, giảm dần các rào cản thương mại gồm cả các rào cản
thuế quan và phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu v.v Các vòng đàm
phán của GATT và WTO đã liên tục cắt giảm thuế quan và xoá bỏ nhiều rào cản phi

13
thuế quan khác. Hiện nay, biện pháp phi thuế quan hạn ngạch đã không được phép
áp dụng trong WTO trừ một ngoại lệ là hàng dệt may.
Có thể dự đoán: hệ thống thương mại đa phương yêu cầu các chính phủ phải
tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định và có thể dự đoán. Điều đó sẽ khuyến
khích đầu tư, tạo thêm việc làm và người tiêu dùng có thể hưởng lợi nhờ tăng khả
năng lựa chọn hàng hoá dịch vụ với giá cả thấp. Một biện pháp để đạt được điều đó
là WTO yêu cầu các chính phủ phải đặt ngưỡng cho các cam kết mở cửa thị trường
của mình. Ví dụ, đó là mức thuế ngưỡng, tức là mức thuế trần đối với hàng hoá nhập
khẩu mà chính phủ cam kết trong tương lai không được nâng thuế vượt hoặc không
cho phép áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng đối với xuất khẩu. Ngoài ra,
WTO còn yêu cầu các chính phủ phải minh bạch hoá chính sách thương mại thông
qua việc công khai hoá chính sách và việc thực thi chính sách ở trong nước và thông
báo thường xuyên cho WTO.
Khuyến khích cạnh tranh công bằng: quy tắc không phân biệt đối xử
(MFN và NT) được xem là qui tắc để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng. Ngoài
ra, WTO còn có các quy tắc và hiệp định khác nhằm khuyến khích sự cạnh tranh
công bằng như các quy tắc về trợ cấp và chống bán phá giá, hiệp định về mua
sắm của chính phủ.
Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế: WTO đề ra các quy tắc và luật lệ
thương mại chung cho tất cả các nước thành viên. Tuy nhiên, trình độ phát triển của
các nước thành viên lại rất không đồng đều. Khoảng hai phần ba thành viên của
WTO là các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Các nước
này có vị trí ngày càng quan trọng trong các diễn đàn của WTO và thương mại thế
giới. Do vậy, WTO cho phép các nước kém phát triển được hưởng một số ưu đãi khi

thực hiện các cam kết của mình.
c) Các văn kiện pháp lý cơ bản của WTO
Vòng đàm phán Uruguay đã đi đến ký kết các văn bản pháp lý điều chỉnh
hoạt động của WTO. Đây là hệ thống các văn kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh

14
rộng lớn nhất và phức tạp nhất trong lịch sử luật pháp quốc tế. Trong các hiệp định
và phụ lục kèm theo của nó quan trọng nhất là các hiệp định và văn kiện cơ bản sau:
- Hiệp định Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới
- Các hiệp định đa biên về thương mại hàng hoá:
+ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994
+ Với các hiệp định kèm theo
+ Hiệp định về thực hiện Điều VII của GATT 1994 (xác định trị giá tính thuế hải quan)
+ Hiệp định về giám định hàng hoá trước khi gửi hàng (PSI)
+ Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
+ Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS)
+ Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu
+ Hiệp định về các biện pháp tự vệ
+ Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM)
+ Hiệp định về thực hiện điều VI của GATT 1994 (chống bán phá giá) (ADP)
+ Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
+ Hiệp định dệt may (ATC)
+ Hiệp định nông nghiệp
+ Hiệp định về quy tắc xuất xứ
- Thương mại dịch vụ: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
- Quyền sở hữu trí tuệ: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
- Hiệp định thương mại nhiều bên:
+ Hiệp định về thương mại máy bay dân dụng
+ Hiệp định về mua sắm của chính phủ

+ Hiệp định quốc tế về bơ sữa

15
+ Hiệp định quốc tế về thịt bò
d) Đàm phán gia nhập WTO
Về nguyên tắc bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ hải quan nào có đầy đủ
quyền tự chủ trong việc tiến hành các hoạt động ngoại thương đều có thể xin gia
nhập WTO. Để trở thành thành viên của WTO, các quốc gia hoặc nền kinh tế phải
tiến hành đàm phán.
e) Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
Tháng 1 năm 1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ngày 31 tháng 1
năm 1995, nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, gồm 40 thành viên là các
đối tác thương mại chủ yếu của Việt Nam, đã được thành lập. Tháng 8 năm 1996,
Việt Nam hoàn thành và gửi cho WTO và các thành viên của nhóm công tác bản vị
vong lục về các thể chế và chính sách thương mại của Việt Nam. Đây là tài liệu chính
thức đầu tiên giải thích một cách toàn diện các chính sách, các vấn đề thương mại
hàng hoá, dịch vụ, thuế quan, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam.
Có thể chia quá trình đàm phán làm ba giai đoạn: giải thích chính sách
thương mại; đàm phán về thực chất; và đột phá trong đàm phán. ở giai đoạn thứ
nhất, bên cạnh việc trả lời các câu hỏi của các thành viên của Nhóm công tác, Việt
Nam còn gửi cho WTO các tài liệu có liên quan. Từ 1998 đến 2000 đã có bốn cuộc
họp của Nhóm công tác. Trong thời kỳ này, Việt Nam đã trả lời 1700 câu hỏi liên
quan đến tất cả các khía cạnh của chính sách kinh tế và thương mại, và đã chuyển
cho WTO các chương trình thực hiện các hiệp định đa phương về GATS, TRIMs,
TRIPs và báo cáo về tình hình trợ cấp cho các sản phẩm nông nghiệp v.v Khi giai
đoạn này kết thúc vào tháng 11 năm 2000, các thành viên của nhóm công tác đã
nắm được một cách khái quát về chính sách thương mại của Việt Nam.
Đàm phán về thực chất bao gồm các cuộc đàm phán đa phương và song
phương. Đàm phán đa phương tập trung vào việc rà soát lại hệ thống luật pháp và
các chính sách thương mại dựa theo các định chế của WTO. Trọng tâm của các cuộc

đàm phán song phương là việc mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ. Tháng 12
năm 2000, Việt Nam đã trình WTO bản chào đầu tiên về mở cửa thị trường hàng

16
hoá và dịch vụ, bao gồm 96% các dòng thuế quan và 9 ngành dịch vụ với 78 phân
ngành. Bình quân đơn thuế suất nhập khẩu của toàn bộ các sản phẩm được chào
giảm xuống còn 27,8% và 32% đối với sản phẩm nông nghiệp và 27,1% đối với sản
phẩm phi nông nghiệp.
Đàm phán đã đạt được những tiến triển đáng kể, đặc biệt là trong phiên đàm
phán thứ năm (tháng 4 năm 2002) và phiên thứ sáu (tháng 4 năm 2003). Trong các
phiên đàm phán đó Việt Nam và các đối tác thương mại đã trao đổi ý kiến về các
vấn đề liên quan. Việt Nam cũng đã hoàn thành và nộp cho WTO báo cáo về trợ cấp
nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu, và thông báo cho WTO về các biện pháp phi thuế
quan đang được áp dụng và chương trình cải cách pháp luật của mình.
Phiên đàm phán thứ bảy diễn ra tại Geneva vào các ngày 10 11 tháng 12
năm 2003. Trong phiên đàm phán này, Việt Nam đã cung cấp cho WTO bản dự thảo
báo cáo trong đó trả lời rất nhiều câu hỏi do các nước thành viên đặt ra ở các phiên
trước đây, nhất là về mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ, chương trình hành động
cải cách pháp luật. Trọng tâm của đàm phán vẫn là cắt giảm thuế quan, hạn ngạch,
trợ cấp cho nông dân và xuất khẩu nông sản. Một kết quả quan trọng đạt được của
phiên đàm phán lần này là Ban thư ký đã soạn thảo dự thảo báo cáo về việc Việt
Nam gia nhập WTO. Ngoài ra, Việt nam còn tiến hành đàm phán song phương với
13 nước thành viên của WTO.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia 9 phiên đàm phán. Phiên họp trù bị cho
phiên thứ 10 đã diễn ra vào ngày 20/5/2005 vừa qua. Sau phiên họp trù bị cho thấy
khả năng Việt Nam gia nhập WTO trong năm nay là rất cao. Hiện chúng ta đã kết
thúc đàm phán song phương với 9 đối tác trên tổng số 28 đối tác có yêu cầu. Phiên
thứ 10 sẽ diễn ra vào tháng 9 năm nay. Phiên thứ 10 sẽ rà soát lại tiến độ đàm phán
song phương, chương trình làm luật của Việt Nam và thảo luận dự thảo báo cáo của
Ban công tác. Việt Nam đang đặt mục tiêu gia nhập WTO tại Hội nghị Bộ trưởng

WTO ở Hồng Kông cuối năm nay.
1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực viễn thông của Việt Nam
1.3.1 Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực viễn thông Việt Nam

17
Hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện ở việc tham gia của ngành viễn thông
Việt Nam vào hoạt động của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế như Hiệp hội
các nước Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình
Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng như tham gia vào các
hiệp định khung của ASEAN về dịch vụ (AFAS), ITU, UPU, APPU các tổ chức
kinh tế khu vực và quốc tế hay các Hiệp định thương mại có các yêu cầu khác nhau
song đều có chung một số mục tiêu và nguyên tắc cơ bản hướng tới như: tự do hoá
thương mại, không phân biệt đối xử , công bằng và bình đẳng trong cạnh tranh, luật
lệ, chính sách minh bạch, công khai và ổn định.
1.3.1.1 Các cam kết về viễn thông của Việt Nam trong Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam á (ASEAN)
Các cam kết về dịch vụ viễn thông của các nước trong ASEAN thể hiện trong
Hiệp định khung của ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS). Phù hợp với GATS,
AFAS buộc các nước thành viên ASEAN phải tuân thủ triệt để quy chế đãi ngộ Tối
huệ quốc và đãi ngộ quốc gia. Các nước thành viên phải thông báo các giới hạn về
đãi ngộ quốc gia cho từng phương thức của bốn phương thức cung cấp dịch vụ viễn
thông. Cụ thể, trong ASEAN, Việt Nam cam kết không hạn chế việc cung cấp dịch
vụ viễn thông đối với phương thức (1) cung cấp dịch vụ qua biên giới và phương
thức (2) tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài.
Đối với phương thức (3) hiện diện thương mại, Việt Nam đã cam kết mở cửa
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ giá trị
gia tăng trên cơ sở các Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC) với các nhà cung cấp
dịch vụ Việt Nam trong các loại hình dịch vụ sau đây: dịch vụ thư điện tử, dịch vụ
thư thoại, dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử, dịch vụ telex, dịch vụ điện báo, truyền số
liệu chuyển mạch gói, truyền số liệu chuyển mạch kênh, dịch vụ facsimile, dịch vụ

thuê kênh riêng, truy cập dữ liệu trực tuyến, xử lý dữ liệu trực tuyến, chuyển đổi mã
và giao thức và các dịch vụ giá trị gia tăng facsimile.
Việt Nam chưa cam kết mở cửa đối với phương thức (4) hiện diện thể nhân.

18
Tuy nhiên, ASEAN cũng quy định: đối với các quốc gia thành viên ASEAN
mà chưa tham gia vào Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (GATS),
thì bất cứ cam kết nào về mở cửa dịch vụ, trong đó có dịch vụ viễn thông, sẽ được
xác định theo nguyên tắc GATS Plus, tức là, các cam kết trong ASEAN phải cởi
mở hơn so với các cam kết mà nước đó đưa ra tại GATS. Như vậy, vào thời điểm
hiện nay khi mà Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ đã có hiệu lực và được
đánh giá là có tính mở cao hơn so với các cam kết đã có trong AFAS, phù hợp với
quy định về tuân thủ bắt buộc quy chế tối huệ quốc của AFAS, các cam kết của Việt
Nam trong AFAS cần phải được hiểu là không được kém thuận lợi hơn so với các
cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ vì hiệp
định này được coi là có tính chất quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình đàm
phán để gia nhập WTO.
1.3.1.2 Các cam kết về viễn thông của Việt Nam trong Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu á - Thái Bình Dương (APEC)
Các cam kết về viễn thông trong APEC được thiết lập trên nguyên tắc tự
nguyện và có thể được điều chỉnh hàng năm trên nguyên tắc không được giảm bớt
mức độ tự do hoá với từng loại hình cam kết của các nền kinh tế thành viên. Với
nguyên tắc tự nguyện, các nước thành viên của APEC đặt ra mục tiêu sẽ tự do hoá
hoàn toàn viễn thông vào năm 2020, mức độ và lộ trình nằm trong chương trình
hành động của từng quốc gia. Tuy nhiên, do có sự chênh lệch lớn về trình độ phát
triển kinh tế kỹ thuật của các nền kinh tế thành viên nên trong các quốc gia thành
viên của APEC, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada, Hồng Kông, Mêhicô, Singapore và
Australia là những nước có cam kết mở rộng; các nước như Chilê, Đài Loan,
Indonesia, Niu-Di-Lân, Papua New Ghine, Philippine và Việt Nam là những nước có
cam kết. Năm 2002, các cam kết của Việt Nam về viễn thông tại APEC về cơ bản là

còn hạn chế, mới dừng lại ở mức tối thiểu là chế độ đãi ngộ Tối huệ quốc và về cơ
bản dựa trên các cam kết của Việt Nam trong ASEAN.
1.3.1.3 Các cam kết về viễn thông của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt
Nam Hoa Kỳ.

19
Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ có hiệu lực từ ngày 10 tháng 12
năm 2001. Hiệp định sẽ được xem xét gia hạn 3 năm một. Các cam kết về dịch vụ
viễn thông trong Hiệp định được hai bên thoả thuận trên cơ sở của các nguyên tắc
theo chuẩn của WTO trong Tài liệu tham chiếu.
Nguyên tắc hợp tác chung kể từ khi Hiệp định có hiệu lực (10/12/2001) đối
với tất cả các loại hình dịch vụ viễn thông là:
Việc cung cấp dịch vụ qua biên giới, các công ty Hoa Kỳ chỉ được ký kết qua
các thoả thuận khai thác với các nhà khai thác trạm cổng của Việt Nam.
Để đầu tư vào Việt Nam, các công ty Hoa Kỳ chỉ được phép hợp tác kinh
doanh theo hình thức Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh với đối tác Việt Nam được
phép cung cấp dịch vụ viễn thông.
Hiệp định quy định cho phép các công ty Hoa Kỳ thành lập liên doanh cung
cấp dịch vụ viễn thông với những hạn chế khác nhau về vốn và thời gian. Đối với
từng loại hình dịch vụ cụ thể, lộ trình mở cửa để các công ty Hoa Kỳ thâm nhập vào
thị trường viễn thông Việt nam được quy định cụ thể là:
Đối với các dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng:
Từ ngày 10/12/2003, các công ty Hoa Kỳ được phép thành lập liên doanh
(riêng dịch vụ Internet thời điểm áp dụng là 10/12/2004), với mức giới hạn cổ phần
tối đa là 50% vốn pháp định của liên doanh.
Đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản:
Từ ngày 10/12/2005 (tức là sau 4 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực), các
công ty Hoa Kỳ được phép thành lập liên doanh, với mức giới hạn cổ phần tối đa là
49% vốn pháp định của liên doanh.
Đối với các dịch vụ điện thoại cố định bao gồm nội hạt, đường dài trong nước

và quốc tế:
Từ ngày 10/12/2007 (tức là sau 6 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực), các
công ty Hoa Kỳ được phép thành lập liên doanh, với mức giới hạn cổ phần tối đa là
49% vốn pháp định của liên doanh.

20
Theo quy định của Hiệp định, Việt Nam cam kết sẽ xem xét việc tăng giới
hạn góp vốn của Hoa Kỳ trong lĩnh vực Viễn thông khi Hiệp định được xem xét lại
sau 3 năm . Các liên doanh cung cấp dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng và dịch vụ
viễn thông cơ bản chưa được phép xây dựng mạng riêng mà thuê lại chúng từ các
công ty khai thác dịch vụ Việt Nam.
Như vậy là từ cuối năm 2003, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã có thể được thành
lập các liên doanh trong lĩnh vực các dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng bao gồm:
dịch vụ thư điện tử, dịch vụ thư thoại; dịch vụ truy cập cơ sở dữ liệu và thông tin trên
mạng; dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử (EDI); dịch vụ fax nâng cao hay gia tăng giá
trị, bao gồm lưu giữ và gửi, lưu giữ và truy cập; dịch vụ chuyển đổi mã, hiệu; dịch
vụ xử lý dữ liệu và thông tin trên mạng. Đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp viễn
thông Hoa Kỳ được thiết lập liên doanh cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam với
bất kỳ nhà khai thác được phép nào của Việt Nam. Mặc dù, theo khảo sát ban đầu
trong giai đoạn qua, các doanh nghiệp Hoa Kỳ chưa mặn mà với việc hợp tác thành
lập công ty liên doanh trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng, nhưng
các công ty Hoa Kỳ vẫn đang tích cực tìm kiếm đối tác và cơ hội để thâm nhập vào
thị trường viễn thông Việt Nam khi lộ trình mở cửa đi vào hiệu lực.
Với dịch vụ máy tính và các dịch vụ có liên quan lộ trình mở cửa như sau:
Việt Nam không hạn chế trong việc tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối
với hình thức cung cấp qua biên giới (phương thức 1) và phương thức sử dụng ở
nước ngoài (phương thức 2).
Đối với hình thức hiện diện thương mại cho phép các công ty Hoa Kỳ có hiện
diện thương mại trừ việc lập chi nhánh là không được phép và trong vòng 2 năm đầu
kể từ khi thành lập, các xí nghiệp 100% vốn Hoa Kỳ chỉ được cung cấp dịch vụ cho

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đối với hình thức hiện diện thể nhân, Việt Nam chưa đưa ra các cam kết cụ
thể ngoài các cam kết nền chung.
1.3.1.4 Các quy định của WTO về lĩnh vực viễn thông

21
Về lĩnh vực dịch vụ viễn thông, phụ lục về viễn thông của GATS là các cam
kết về viễn thông mà các nước thành viên của WTO phải tuân thủ. Đó là:
Sự minh bạch yêu cầu phải được thể hiện toàn diện từ việc mở cửa thị trường,
việc sử dụng dịch vụ và mạng thông tin công cộng, điều kiện về dịch vụ, biểu giá
cước, đến việc quy định về chỉ số kỹ thuật của mạng và dịch vụ, tiêu chuẩn của việc
thâm nhập và sử dụng mạng và dịch vụ, các điều kiện về cấp phép.
Sự thâm nhập và sử dụng dịch vụ: thể hiện ở việc:
Từng quốc gia thành viên phải đảm bảo cho bất kỳ nhà khai thác viễn thông
nào của các quốc gia thành viên khác sẽ có được khả năng thâm nhập và sử dụng
dịch vụ và hệ thống thông tin viễn thông công cộng với những điều khoản và điều
kiện hợp lý, không phân biệt đối xử.
Từng thành viên đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông của bất kỳ
một thành viên nào khác của GATS có khả năng thâm nhập và sử dụng mọi hệ thống
thông tin viễn thông công cộng và dịch vụ được cung cấp trên toàn bộ lãnh thổ của
thành viên đó bằng cách: mua hoặc thuê các điểm đầu cuối hoặc các thiết bị khác
vào dịch vụ, kết nối mạch thuê riêng hoặc mạch thuộc sở hữu của các nhà khai thác
khác vào mạng viễn thông công cộng, sử dụng các phương thức khai thác do các nhà
cung cấp dịch vụ lựa chọn.
Các yêu cầu này chỉ có hiệu lực nếu các nước thành viên đưa vào bản cam kết
của mình. Tuy nhiên, sức ép về tự do hoá viễn thông và công nghệ thông tin (CNTT)
đối với các nước muốn gia nhập WTO là rất lớn, vì từ tháng 11/1998, 89 quốc gia
thành viên của WTO có thu nhập viễn thông chiếm 90% toàn thế giới đã đồng ý mở
cửa thị trường viễn thông của mình. Trung Quốc cũng đã phải đưa ra lộ trình cam kết
mở cửa của mình trong từng lĩnh vực như: máy tính và các dịch vụ liên quan, dịch vụ

về phần mềm, dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng, dịch vụ viễn thông cơ bản, dịch vụ
thoại và số liệu di động, dịch vụ viễn thông trong nước và dịch vụ viễn thông quốc tế.
Cũng như các nước thành viên khác của WTO là những nước đang phát triển,
Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của mình, có thể đưa ra các điều kiện hợp
lý cho việc thâm nhập, tiếp cận và sử dụng các dịch vụ và mạng vận chuyển thông

22
tin viễn thông công cộng cần thiết để tăng thêm năng lực của hệ thống hạ tầng cơ cở
và khả năng cung cấp dịch vụ nhằm tăng khả năng tham gia vào thương mại quốc tế
về dịch vụ thông tin viễn thông. Các điều kiện đó sẽ được quy định chi tiết trong
danh mục cụ thể của một quốc gia thành viên. Việt Nam muốn đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu về gia nhập WTO phải đưa ra các cam kết và lộ trình mở cửa thị trường một
cách hợp lý được các nước thành viên của WTO chấp thuận.
Phần 6 của phụ lục viễn thông quy định việc hợp tác kỹ thuật thông qua các
chương trình phát triển của ITU, UNDP, IBRD và các thông tin về dịch vụ thông tin
quốc tế, công nghệ thông tin. Trên cơ sở Phụ lục về viễn thông và Nghị định thư thứ
tư kèm theo Hiệp định chung, các quốc gia thành viên WTO đã tiến hành đàm phán
nhiều vòng và liên tục trong nhiều năm, sử dụng nhiều hình thức và phương pháp
đàm phán khác nhau để đi tới một danh mục tổng hợp các cam kết về tự do hoá viễn
thông cơ bản được gọi là Hiệp định Viễn thông Cơ bản BTA. Hiệp định Viễn
thông cơ bản ban đầu có sự tham gia của 69 quốc gia thành viên và khu vực. Nội
dung của nó bao trùm các chuyên ngành dịch vụ cơ bản quan trọng là:
Dịch vụ thoại cố định (đường dài quốc tế và nội hạt)
Các dịch vụ truyền số liệu
Các dịch vụ fax và telex
Các dịch vụ thuê kênh riêng
Các dịch vụ điện thoại di động
Và toàn bộ các dịch vụ viễn thông cũng như về mạng lưới.
Phương thức tự do hoá được tiến hành là theo các cam kết cụ thể của từng
quốc gia. Ví dụ đối với Liên minh Châu Âu, toàn bộ các dịch vụ điện thoại di động

được tự do hoá từ năm 1998 tại toàn bộ các quốc gia trừ Bồ Đào Nha. Với Nhật Bản
là tự do hoá hoàn toàn trừ giới hạn nắm giữ cổ phần trong NTT và KDD bị giới hạn
ở mức 20%.
Ngay sau khi đạt được những thoả thuận nhượng bộ trong lĩnh vực dịch vụ
viễn thông cơ bản, các quốc gia thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới cũng

23
đã chuẩn bị các cơ sở cần thiết cho việc tiếp tục gia tăng các cam kết đối với các
dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng. Ngày 1/2/1998, Hiệp định Viễn thông cơ bản đã
có hiệu lực. Đi kèm với Hiệp định Viễn thông cơ bản là một văn kiện quan trọng có
tên gọi là Tài liệu tham chiếu. Tài liệu tham chiếu là các quy định cơ bản chi tiết với
các nội dung về các định nghĩa và các nguyên tắc về khung pháp lý nhà nước đối với
các dịch vụ viễn thông cơ bản.
Các định nghĩa cơ bản này hiện thời đang được áp dụng tại các quốc gia tham
gia vào Hiệp định cũng như các quốc gia hướng đến việc gia nhập WTO như Việt
Nam, bao gồm định nghĩa về người sử dụng viễn thông, các phương tiện cơ bản, nhà
cung cấp chính. Hiệp định quy định các nguyên tắc quan trọng về các lĩnh vực như
các biện pháp bảo vệ cạnh tranh, biện pháp tự vệ, các tập quán chống cạnh tranh,
các vấn đề về kết nối, thủ tục đối với việc thương lượng kết nối, minh bạch các thoả
thuận kết nối, giải quyết tranh chấp kết nối. Tài liệu tham chiếu cũng đề cập đến các
vấn đề về dịch vụ phổ cập đại chúng, cấp phép. Tài liệu tham chiếu trở thành nội
dung cơ bản cho việc xây dựng và hình thành các cơ chế điều chỉnh trong cơ quan
quản lý viễn thông sẽ không thể tự do định đoạt hay xác lập các cơ chế điều chỉnh
một khi đã là thành viên của Hiệp định viễn thông cơ bản.
1.3.2 Đàm phán gia nhập WTO trong lĩnh vực bưu chính viễn thông
Kể từ khi nộp đơn xin gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã bốn lần cải thiện
bản chào đa phương về dịch vụ. Bản chào mới nhất (lần thứ 4) về viễn thông và
CNTT được đưa ra vào tháng 4 năm 2004, về tổng thể đã đi theo nguyên tắc hiệp
định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ (BTA) cắt ngang lộ trình: các hạn chế then
chốt về hình thức đầu tư nước ngoài, giới hạn sở hữu vốn, lộ trình mở cửa thị trường

là ngang bằng cam kết trong BTA. Kể từ tháng 4 năm 2004 đến nay Việt Nam đã
cải thiện bản chào đa phương nói trên theo nguyên tắc đàm phán song phương, đáp
ứng yêu cầu, lợi ích cụ thể của từng đối tác.
Trong số hơn 25 nước có yêu cầu đàm phán song phương về việc gia nhập
WTO của Việt Nam cho đến nay, có 11 nước có yêu cầu đàm phán về dịch vụ viễn

24
thông và CNTT với Việt Nam bao gồm: Mỹ, EU, Canada, Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Australia, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore. Việt Nam đã kết thúc
đàm phán song phương về dịch vụ viễn thông và CNTT với hầu hết các đối tác trừ
Mỹ, Canada. Với EU ta buộc phải cam kết ở mức BTA cộng, đặc biệt có cam kết
thêm dịch vụ chuyển phát. Singapore chấp nhận mức cam kết như trong bản chào đa
phương lần thứ 4, nghĩa là về cơ bản bằng BTA.
Việt Nam đã thu hẹp đáng kể khoảng cách với một số nước: một số nước đã
chấp nhận về cơ bản bản chào đa phương, chỉ còn quan ngại đến hạn chế tại phương
thức (1) cung cấp dịch vụ qua biên giới; một số nước đã chấp nhận bản chào đối
với dịch vụ cơ bản. Yêu cầu về dịch vụ giá trị gia tăng của họ có thể đàm phán và
thoả thuận được. Tuy nhiên họ còn có lo ngại về tương lai của các BCC và đề nghị
Việt Nam có cam kết đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư của họ. Một số nước vẫn
chưa thực sự bước vào giai đoạn đàm phán thực chất, họ vẫn đưa ra các yêu cầu đàm
phán cao mang tính giữ chỗ. Những nước này đã tỏ thái độ thiện chí, xây dựng hơn
với ta trong đàm phán gia nhập WTO. Tuy nhiên, họ vẫn bán sát mục tiêu thúc đẩy
tự do hoá khi đưa ra các yêu cầu đàm phán với Việt Nam: Việt Nam phải có cam kết
thể hiện Việt Nam sẽ đi theo hướng ngày càng mở cửa hơn, tự do hoá hơn cho dù
thời gian chuyển đổi có thể tương đối dài (theo thông lệ trong WTO).
Các nước này đã nêu khá rõ và tương đối đầy đủ quan điểm và lập trường
của họ trong việc đàm phán gia nhập WTO với Việt Nam:
- Mức cam kết: Việt nam cần cam kết ở mức cao hơn so với mức đã cam kết
với EU (EU+) mà còn ở mức so sánh được so với cam kết của các nước mới
gia nhập. Cho đến nay các nước càng gia nhập sau càng có mức cam kết cao

hơn các nước gia nhập trước và một số nước cầm trịch việc gia nhập WTO
không muốn tạo ra một tiền lệ xấu trong trường hợp Việt Nam.
- Gắn đàm phán song phương với đàm phán đa phương về các luật lệ và quy
tắc chung của WTO: liên qua đến viễn thông và CNTT có các vấn đề như cổ
phần hoá, doanh nghiệp nhà nước, chính sách quản lý giá, chính sách cấp
phép, vài trò của các doanh nghiệp nhà nước trong thương mại quốc tế (hoạt

25
động xuất nhập khẩu: việc đánh giá là cần thiết để xác định xem các doanh
nghiệp nước ngoài có thể bị bất lợi trong cạnh tranh ở mức độ nào)
Những yêu cầu cụ thể mà một số nước đưa ra đối với viễn thông đều là những
vấn đề hết sức nhạy cảm đối với Việt Nam, cụ thể:
- Cách đưa ra cam kết mở cửa thị trường viễn thông: yêu cầu Việt Nam đưa ra
được lộ trình đi đến tự do hoá hoàn toàn (cho phép công ty 100% vốn nước
ngoài), thời gian chuyển đổi có thể đàm phán. Thị trường dịch vụ có thể chia
thành bán lại và cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng, theo đó thị trường bán lại
dịch vụ mở trước. Liên quan đến đầu tư gián tiếp vào các nhà khai thác đã có,
một số nước cho rằng giới hạn 30% như hiện thời là thấp, tuy nhiên họ hiểu
mối quan ngại của Việt Nam đối với VNPT, VIETEL và do vậy sẵn sàng
dành một giới hạn riêng cho các nhà khai thác then chốt này của Việt Nam.
- Dịch vụ viễn thông mới chưa được phân loại chính thức trong WTO dịch
vụ giá trị gia tăng: một nước đề nghị Việt Nam có cam kết chung cho tất cả
các dịch vụ viễn thông được phân loại là dịch vụ giá trị gia tăng theo như
định nghĩa trong WTO các dịch vụ trong đó nhà cung cấp dịch vụ bổ sung
giá trị vào thông tin của khách hàng với việc cải thiện khuôn dạng hoặc nội
dung cung ứng cho khách hàng khả năng lưu giữ hay khôi phục. Một số
nước đặc biệt quan tâm đến dịch vụ VOIP, dịch vụ mạng riêng ảo IP (IP
VPN, VPN MPLS), dịch vụ mạng số liệu có quản lý (managed data network
services MDNS). Đối với những dịch vụ này, việc được phép thành lập công
ty 100% vốn nước ngoài là vấn đề nguyên tắc đối với họ.

- Cung cấp dịch vụ qua biên giới: yêu cầu Việt Nam loại bỏ mọi hạn chế và
một số nước cho rằng điều đó có nghĩa là Việt Nam phải mở cửa không chỉ
thị trường dịch vụ vệ tinh mà cả thị trường cáp quang biển. Một số nước quan
tâm đến khả năng xây dựng cáp quang biển hoặc mua IRU để kết nối vào
trạm cập bờ của Việt Nam. Đối với dịch vụ vệ tinh, một số nước đặc biệt
quan tâm đến bán xỉ dung lượng cho cáckhách hàng lớn, cung cấp dịch vụ
VSAT cho các khách hàng là doanh nghiệp.

×