Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu Luận Việt nam trong quan hệ hợp tác kinh tế với eu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.31 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Cùng với Mỹ và Nhật Bản, EU là một trong ba trụ cột của nền kinh tế thế
giới. Do dó, quan hệ hợp tác kinh tế với tổ chức này là một trong những vấn đề
quan trọng hàng đầu của một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Quan
hệ với EU chính thưc từ năm 1990 và đặc biệt là khi bản “Hiệp định khung Việt
Nam - EU” được thơng qua vào năm 1995 thì Việt Nam đã trở thành một đối tác
bình đẳng với EU.
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ HỢP TÁC
KINH TẾ VỚI EU
Là một tổ chức kinh tế khổng lồ, chỉ đứng sau Mỹ vì thế mà các học giả
kinh tế của Việt Nam và nước ngoài đã cho rằng: Quan hệ kinh tế Việt Nam EU giữ một vị trí vơ cùng quan trọng trong quan hệ kinh tế đối ngoại Việt Nam,
thậm chí đây cịn là một yếu tố mang tính chất sống cịn của nền kinh tế Việt
Nam - đây là những đánh giá chính xác và khách quan, bởi lẽ:
Thứ nhất, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế ngày nay, thắt
chặt mối quan hệ với EU sẽ nâng cao vị thế của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai, EU là một thị trường rộng lớn và đày tiềm năng cho sự nghiệp
hiện đại hố, cơng nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, việc EU mở rộng ngày 1.5.2004 với việc kết nạp thêm 10 thành
viên Đông Âu (các nước thuộc khối XHCN trước kia và cũng là những nước
thành viên của hội đồng tương trợ kinh tế SEV) là một thuận lợi không nhỏ đối
với Việt Nam bởi lẽ các nước thành viên mới này là những bạn hàng truyền
thống của Việt Nam từ những năm 50, do đó sự kiện mở rộng này của EU là
một ưu thế rất lớn mà Việt Nam cần phải tận dụng.
II. THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - EU
Nhận thức rõ được những lợi ích và vị trí của nhau trong chiến lược phát
triển kinh tế của mình, ngày nay cả Việt Nam và EU đang không ngừng nỗ lực
nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác toàn diện về kinh tế trên mọi lĩnh vực.


1. Về hợp tác phát triển.


Trong lĩnh vực này EC ln duy trì cam kết ODA ở mức cao với Việt
Nam. EC và các nước EU hiện nay là nhà cung cấp viện trợ khơng hồn lịa lớn
nhất cho Việt Nam. Cụ thể là tại hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam
tháng 12/2003, EC và 11 quốc gia thành viên của EU cùng một thành viên mới
cộng hoà Séc cam kết viện trợ 528,95 triệu EURO, trong đó 6,7% (356,63 triệu)
là viện trợ khơng hồn lại. Như vậy tổng cam kết của EU cho năm 2004 tăng
9,6% so với năm 2003.
Theo: “Chiến lược hợp tác với Việt Nam giai đoạn 2002-2006” được EC
thông qua tháng 5/2002 với ngân sách là 162 triệu EURO, các chương trình và
dự án hợp tác của EC đều đã tập trung vào 5 lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam:
Một là, phát triển nông thôn làm giảm khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo, tập trung vào vùng sâu, vùng xa, miền núi.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực.
Ba là, phát triển y tế và giáo dục.
Bốn là, hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực quản lý đặc biệt trong các lĩnh
vực kế toán, kiểm toán, quản lý chất lượng, sở hữu trí tuệ v.v....
Năm là, hỗ trợ cải cách hành chính, tư pháp, ngân hàng, tài chính và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Về dự án ODA của EC đang được triển khai ở Việt Nam là Sự án “Quỹ
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” trị giá 21 triệu EURO; dự án “Chương trình
kỹ thuật của Châu Âu cho Việt Nam” trị giá 14 triệu EURO; dự án “Hỗ trợ trẻ
em lang thang” trị giá 6,8 triệu EURO; dự án “Thị trường lao động” trị giá 12,1
triệu EURO.
Hiện EC đang tiến hành nghiên cứu khả thi và hoàn thành hiệp định tài
chính cho các dự án thuộc giai đoạn 2005 - 2005 như : Hỗ trợ lĩnh vực giáo dục
- đào tạo, hỗ trợ lĩnh vực kinh tế tư nhân, chương trình quy haọch đơ thị tại Việt
Nam v.v...
2. Về thương mại

2



EU là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu tại Việt Nam. Kể từ năm
1995 đến nay quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước thành viên EU đã
tăng nhanh, trung bình khoảng từ 15 đến 20%/năm. Năm 2002, kim ngạch hai
chiều tăng gấp 20 lần so với năm 1990, kim ngạch thương mại Việt Nam EU
năm 2003 đạt 6,8 tỉ USD, đứng thứ 2 sau Mỹ, trong đó Việt Nam tiếp tục xuất
siêu. Xuất khẩu vào thị trường EU tăng mạnh, nhất là với Anh, Pháp, Đức, Thụy
Điển, Hà Lan.
Về nông sản, trong cơ cấu về hàng xuất khẩu sang thị trường EU thì nó
chiếm tỷ trọng lớn 85% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó cà phê
(đạt 213 triệu EURO). Tuy nhiên, một số hàng nơng sản khác của Việt Nam có
nhu cầu xuất khẩu lớn như gạo và đường nhưng đang vấp phải hàng rào thuế
quan cao (gạo 100%, đường 200%) mặc dù nó đã được giảm thuế theo GSP.
Về thủy sản, theo số lượng thống kê, năm 2003 hàng hoá thuỷ sản xuất
sang thị trường EU đạt 100 triệu USD, một con số khá cao, tuy nhiên trong mấy
năm gần đây nó đang có xu hướng giảm do EU là một thị trường rất khó tính về
chất lượng và giá cả. Nhưng với việc EU cho phép 40 doanh nghiệp hàng đầu
Việt Nam được phép xuất khẩu thủy sản vào EU thì kim ngạch về mặt hàng này
sẽ có cơ hội tăng lên.
Về hàng giày dép và đồ da, (đạt 210 triệu EURO năm 2002). Đây cũng là
một mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU. Song hiện nay mặt
hàng này vẫn cịn đang gặp phải khó khăn do vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu,
công nghệ lạc hậu v.v...
Về hàng dệt may, đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (đạt
717 triệu EURO năm 2002), mặt hàng này ngày càng có chỗ đứng trong thị
trường EU, tuy nhiên do bị hạn chế về hạn ngạch nên mặt hàng này xuất sang
EU tuy có tăng hơn so với những năm trước, nhưng vẫn còn thấp so với khả
năng cung cấp của Việt Nam và nhu cầu tiêu dùng của người châu Âu.
Các mặt hàng khác như đồ gỗ, nhựa gia dụng, thực phẩm chế biến v.v...

được đánh giá là có khả năng xuất khẩu và được thị trường EU chấp nhận.

3


Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ thị trường EU là hàng công
nghệ cao như thiết bị (70%); hoá chất, hoá dược (15%); sản phẩm sữa, nguyên
liệu bia..., Mỹ phẩm, thuốc lá v.v... (10%).
Ngày 15.02.2003, Việt Nam và EC đã ký tắt thoả thuận, theo đó EU chấp
nhận tăng 50 - 75% hạn ngạch cho các mặt hàng dệt, may nhạy cảm của Việt
Nam đến năm 2004.
Một điểm quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai bên cần phải đề
cập đến đó là EU tích cực ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập WTO, điều này được
các nhà lãnh đạo EC và EU khẳng định nhiều lần trong tiếp xúc với giới lãnh
đạo cấp cao của Việt Nam. Phía Việt Nam thì đã chọn EU là đối tác hàng đầu để
tiến hành đàm phán song phương gia nhậnp WTO.
Tuy nhiên, đây là một đàm phán khó khăn và phức tạp liên quan đến vấn
đề mở cửa thị trường theo những quy định của WTO trong khi nền kinh tế của
Việt Nam thuộc dạng kém phát triển, ở trình độ thấp. Mặt khác EU vẫn tiếp tục
gắn vấn đề mở cửa thị trường về dịch vụ bảo hiểm, viễn thông, dịch vụ vận tải
hàng hải, xe máy, hàng tiêu dùng cao cấp như rượu và mỹ phẩm với việc tăng
hạn ngạch hàng dệt.
3. Về đầu tư
Các nước EU đã đầu tư vào Việt Nam ngay từ những ngày đầu khi ta ban
hành luật đầu tư nước ngoài (12.1987). Trong số 15 nước EU cũ chỉ có 4 nước
tính đến thời điểm này chưa có dự án FDI đó là: Bồ Đào Nha, Hi Lạp, Ireland và
Phần Lan. Tuy nhiên, quy mô đầu tư của hai bên là chưa tương xứng với tiềm
năng hợp tác của hai bên. Tính đến tháng 11.2003, các doanh nghiệp Tây bắc
Âu đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam 6 tỉ 711 triệu USD với 402 dự án. Pháp, Hà
Lan và Anh là những nước đi đầu trong khu vực về đầu tư vào Việt Nam.

Cũng trong năm 2003, chỉ có 47 dự án mới của EU trị giá gần 68 triệu
EURO được đầu tư vào Việt Nam, kém hơn nhiều so với năm 2002 (gần 1,5 tỉ
USD).
Nguyên nhân chủ yếu là do nhêìu dự án đầu tư lớn đã được ký kết trong
năm 2002 (khí đốt nam Cơn Sơn; Viễn thơng comvick, xi măng Hải Phòng...)
4


trong khi 2003 khơng có một dự án lớn nào. Ngồi ra, tuy mơi trường đầu tư
Việt Nam phần nào đã được cải thiện, nhưng các nước trong khu vực lại tăng
đáng kể sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư (Trung Quốc vào WTO, Singapore
ký FTA, Thái Lan và Malaysia có thị trường đầu tư hấp dẫn v.v...) các nhà đầu
tư EU vẫn còn rất nhiều quan ngại về chính sách đầu tư của Việt Nam.
Dự án đầu tư của EU và Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư
(Những dự án đang có hiệu lực tính đến 10.10.2002)
Vốn đầu
TT Ngành đầu tư

Số dự án tư
(triệu$)

1
2
3
4
5
6
7
8
9

10
11

Vốn
thực
hiện
(triệu$)

Doanh
thu
(triệu$)

Cơng nghiệp dầu khí
10
1.431,7
1.241,2 0
Cơng nghiệp nặng
73
2.529,0
569,0
1.573,0
Tài chính - ngân hàng
14
165,8
153,2
357,5
Cơng nghiệp nhẹ
48
117,4
85,6

450,9
Khách sạn-du lịch
14
183,2
152,4
183,5
Xây dựng
28
336,5
158,2
470,9
Dịch vụ
42
214,9
85,2
95,1
Nông lâm nghiệp
32
835,7
265,0
780,2
Công nghiệp thực phẩm
27
328,7
192,7
590,2
Giao thông VT-bưu điện
14
690,1
136,9

489,4
Y tế, Giáo dục
13
67,2
30,4
194,2
Tổng cộng
315
5.900,5
3.069,8 5.335,9
Về các hình thức và lĩnh vực đầu tư, cho đến nay EU chủ yếu đầu tư vào

lĩnh vực bất động sản và hoạt động xây dựng, ngành công nghiệp đang thu hút
nhiều đầu tư nước ngoài. Các lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất là năng lượng,
công nghệ sản xuất bia, các sản phẩm kem và sữa, ngân hàng, bất động sản. Các
dự án lớn của các nước EU đang được thực hiện ở Việt Nam có thề kể đến như
hãng Helneken (sản xuất bia); Shell (dầu khí), Unilever (dầu gội, xà phịng).
Các nhà đầu tư EU còn thực hiện một số lĩnh vực đầu tư khác như dự án
liên doanh giữa Thụy Điển, với nhà máy chế tạo biến thế Hà Nội, Phần Lan với
dự án đầu tư vào nhà máy điện Vũng Tàu…
*Tiểu kết.

5


Có thế nói quan hệ kinh tế Việt Nam - EU trong những năm vừa qua đã
có được những bước tiến và thành công đáng kể, quan hệ thương mại hai bên đã
tăng 20 lần so với đầu những năm 1990, hàng hố Việt Nam đang dần dần
khẳng định mình trên thị trường Châu Âu, tuy nhiên tính cạnh canh so với các
quốc gia khác vẫn còn kém do nhiều nguyên nhân nội tại và khách quan, đặc

biệt là môi trường đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực là chưa
thực sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư EU.
III. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM
TRONG QUAN HỆ KINH TẾ VỚI EU
1. Những thuận lợi
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ ngày nay đã
tạo ra cho Việt Nam rất nhiều những cơ hội và thuận lợi cho qúa trình thúc đẩy
quan hệ thương mại với EU. Có thể nêu ra một số thuận lợi như sau:
Thứ nhất, về vị trí địa lý, đây là lợi thế nhỏ bởi Việt Nam nằm ở trung tâm
của tuyến đường biển, huyết mạch từ Bắc Á xuống Đông Nam Á và Ấn Độ
Dương. Theo chính nhận định của các nhà kinh tế EU, Việt Nam là một nước
lớn ở Đơng Nam Á, với vị trí này nó khong những có thuận lợi về chính trị mà
cịn cho cả phát triển về giao lưu thương mại quốc tế. Rõ ràng, đây là một thuận
lợi mà Việt Nam cần phải tận dụng.
Thứ hai, Việt Nam ngày nay đã là thành viên của rất nhiều tổ chức kinh tế
lớn như APEC, ASEAN, và đang tích cực ra nhập WTO. Việc Việt Nam là
thành viên của ASEAN là một nhân tố rất quan trọng bởi lẽ EU luôn coi
ASEAN là một đối tác lớn, do đó quan hệ với Việt Nam sẽ là một bàn đạp quan
trọng để thúc đẩy hơn nữa quan hệ với ASEAN, đặc biệt trong tháng 10.2004
vừa qua Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị cấp ASEM V tại Hà Nội, điều
đó đã làm tăng thêm uy tín của Việt Nam trong con mắt của các nhà đầu tư EU.
Thứ ba, Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào, (khoảng 35 triệu
người), chi phí lao động ở Việt Nam lại rất thấp so với các nước trong khu vực.
Chẳng hạn trong ngành may một giờ lao động của công nhân Việt Nam chỉ tốn
khoảng 0,2 USD, bằng một nửa so với Trung Quốc (0,4 USD) và bằng 1/18 của
6


Hàn Quốc (4 USD). Như vậy, nếu đầu tư vào Việt Nam các nhà đầu tư của EU
các nhà đầu tư của EU sẽ tiết kiệm được một số chi phí lao động rất lớn. Rõ ràng

đây là một lợi thế so sánh rất lớn của Việt Nam.
Thứ 4, Việt Nam có một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trong
khi đó trình độ cơng nghiệp há của Việt Nam chưa cao nên khả năng chế biến và
sử dụng tài ngun cịn hạn chế, EU với trình độ kỹ thuật và khoa học cao có thể
tận dụng được thời cơ này. Một mặt nó giúp cho Việt Nam khai thác nguồn tài
nguyên, mặt khác nó sẽ tiết kiệm cho các nhà đầu tư EU rất nhiều trong lĩnh vực
nguyên liệu đầu vào (về giá thành, vận chuyển, v.v…).
Thứ năm, EU mở rộng cũng là một lợi thế không nhỏ, như đã trình bày ở
phần I, khác với những lần mở rộng trước đó. Đây là lần mở rộng lớn thứ nhất
với 10 thành viên Đông Âu vốn là bạn hàng truyền thống của Việt Nam. Mặt
khác đợt mở rộng này với 25 thành viên đã tạo lại thế có lợi cho Việt Nam mở
rộng quan hệ thương mại vì nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng hệ
thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) mới của EU được áp dụng từ 1.7.1999.
Đặc biệt từ tháng 2.2004, các nước Đơng Nam Á trong đó có Việt Nam được
hưởng quy chế mua sắm trong lĩnh vực giao thông vận tải, viễn thông và trợ
giúp các mặt hàng theo quy chế của OECD. Hơn nữa EU mở rộng, Việt Nam
cũng sẽ có lợi từ các khoản ưu đãi và miễn trừ trong nội khối.
2. Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi vô cùng to lớn trong quan hệ kinh tế với EU
như đã trình bày ở trên, thì cũng cịn rất nhiều những khó khăn và thử thách đã
và đang đặt ra cho Việt Nam.
Về phía Việt Nam, cịn rất nhiều những vấn đề tồn tại như thủ tục giấy tờ
rườm rà, việc giải phóng mặt bằng chậm, kinh nghiệm quản lý và trình độ cơng
nghệ cịn hạn chế... Mặt khác, việc mở rộng EU ngồi đem đến những thuận lợi,
nó còn phát sinh nhiều vấn đề mới và phức tạp. Muốn xâm nhập vào thị trường
EU rộng lớn đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện đúng quy cách, cơ chế, tiêu chuẩn
mà EU đề ra như thuế quan, hạn ngạch về kiểm định chất lượng hàng hoá và vệ

7



sinh an tồn thực phẩm do đó khơng cho phép Việt Nam coi nhẹ hay lơ là về
vấn đề này.
Các nhà doanh nghiệp Việt Nam cũng đứng trước những khó khăn không
nhỏ trong việc phải tiến hành những thay đổi về thủ tục, mơi trường và điều kiện
kinh doanh thích hợp. Muốn có hiệu quả cao và tăng khả năng cạnh tranh để
thâm nhập vào thị trường EU rộng lớn, Việt Nam phải tự nâng cấp chính mình
một cách tồn diện bằng việc thúc đẩy cải cách kinh tế hành chính và pháp luật.
Một khó khăn khác dành cho Việt Nam đó là một số nước trong EU trên
mức độ nhất định vẫn còn quan điểm kỳ thị với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Một mặt, họ đang mở cửa giao lưu kinh tế, văn hoá... với Việt Nam,
nhưng mặt khác lại tăng cường sức ép với Việt Nam về kinh tế, thương mại và
các vấn đề xã hội.
Về phía EU: các nhà đầu tư chưa chú ý nhiều lắm tới cơng nghiệp sản
xuất hàng hố. Cá doanh nghiệp, mơ hình phát triển năng động nhất trong nền
kinh tế các nước EU chưa tìm được chỗ đứng cho mình tại thị trường Việt Nam.
Các cơng th vừa và nhỏ của các nước EU chưa thích nghi được với thị trường,
cung cách hđ kinh doanh cũng như phối hợp điều hành tại các liên doanh ở Việt
Nam nên gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó cịn có rất nhiều khó khăn khác. Có
ý kiến cho rằng có lẽ do thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa Việt Nam và liên minh
Châu Âu về việc quản lý và thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển mà
chưa có được nhiều các dự án trên cơ sở các nguồn vốn hỗ trợ phát triển.
IV. KẾT LUẬN
Xét về tính chất quan hệ Việt Nam - EU là mối quan hệ dựa trên cơ sở
những lợi ích chung của hai bên, đối với EU, Việt Nam ngày nay đã trở thành
một đối tác tin cậy không thể thiếu được trong chiến lược phát triển kinh tế của
mình ở khu vực Đơng Nam Á nói riêng và Châu Á nói chung. Cịn về phía Việt
Nam EU là đối tác được ưu tiên đặc biệt và dự kiến trong những năm tới EU sẽ
chiếm khoảng 25 - 27% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tuy
nhiên hiện tại quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU cũng như giữa Việt Nam và


8


từng thành viên EU còn rất hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng thực tế của
hai bên.
Triển vọng phát triển kinh tế giữa Việt Nam và EU trong tương lai phụ
thuộc rất nhiều vào Việt Nam và EU khai thác triệt để được những cơ hội đang
thay đổi trên thế giới cũng như trong bản thân mỗi phía và vượt qua được những
khó khăn và thách thức đang đặt ra hiện nay.

9


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.

Web side: www.europa.eu.int

2.

Web side: www.mofa.gov.vn.

3.

Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu: Các số 1(2000); số 3(2004)’

số 4 (2004) ; số 6 (2004).

10



MỤC LỤC

11



×