Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về nâng cao năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên môi trường và thúc đẩy quyền trẻ em và phụ nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 43 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới và hội nhập phát triển kinh tế được xem là
mục tiêu phát triển hàng đầu của mỗi quốc gia. Điều đó được thể hiện bằng sự phát triển
thông qua hợp tác cùng phát triển của mỗi nước trong các khu vực và trên toàn thế giới
để cùng hướng đến những mục tiêu chiến lược lâu dài. Với xu thế đó, đất nước ta cùng
với chính sách mở cửa đã cho thấy ưu thế của một quốc gia thu hút đầu tư của nước
ngoài hết sức lý tưởng và đạt được nhiều thành quả đáng mong đợi. Trong đó, thành
công bước đầu phải kể đến các dự án đầu tư phát triển dài hạn mang tính nhân văn nhằm
phát triển con người, đặc biệt với đặc thù địa lý và con người nước ta thì việc các dự án
được triển khai thực hiện tại các vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và đầm phá là rất cần
thiết và quan trọng.
Trong thời gian những năm trở lại đây, hòa chung với sự phát triển và tạo ra
bước tiến mới trong kinh tế xã hội, Thừa Thiên Huế nổi lên với việc thu hút các dự án
đầu tư, trong đó có vùng đầm phá Tam Giang với diện tích lớn nhất Đông Nam Á là nơi
lý tưởng để các dự án thực hiện có tính lâu dài và chiến lược toàn diện.
Phú Vang là huyện đồng bằng ven biển và đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp
giáp với huyện Hương Trà, Hương Thủy, Phú Lộc và thành phố Huế, với diện tích tự
nhiên 280,31 km
2
, dân số là 178.968 người, mật độ dân số bình quân 627 người/ km
2
bao gồm 19 xã và một thị trấn là thị trấn Thuận An, huyện lỵ được đặt tại Phú Đa. Phú
Vang có bờ biển dài trên 35km, hệ thống đầm phá rộng khoảng 7400 ha. Trong 19 xã
thuộc huyện Phú Vang có 13 xã và thị trấn Thuận An tiếp giáp với đầm phá.
(Nguồn: báo cáo chính quyền xã Phú Đa)
Đây cũng là một lợi thế đồng thời cũng đem lại những khó khăn nhất định về
dân sinh kinh tế và môi trường cho địa phương.
Phá Tam Giang với diện tích được xem là lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á với
diện tích với vô vàn sinh vật hết sức phong phú. Nơi đây có hệ sinh vật biển và nguồn


lợi phong phú được xem là nguồn sống chủ yếu của người dân quanh khu vực. Hàng
năm đầm đã đưa lại thu nhập không chỉ cho các hộ dân xung quanh mà còn cho các
vùng lân cận, góp phần cải thiện sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân.
Tuy nhiên trên thực tế, việc tận dụng hiệu quả từ các nguồn lợi tự nhiên trên đầm
phá chưa được người dân phát huy đúng hiệu quả. Một mặt xuất phát từ tính chất ngư
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
nghiệp bán chuyên nghiệp của người dân, mặt khác do trình độ và nhận thức của người
dân trong việc khai thác chưa cao cùng với việc sử dụng và đánh bắt bằng các biện pháp
trái phép đã làm tổn hại nghiêm trọng đến môi trường và hệ sinh thái trên phá, gây thiệt
hại và ảnh hưởng lâu dài về sau.Trước tình hình trên, trong nhiều năm trở lại đây, các
chương trình và mục tiêu quốc gia nói chung và của Thừa Thiên Huế nói riêng đang tập
trung vào cải tạo và khai thác có hiểu quả và lâu dài của đầm phá Tam Giang, trong đó
nâng cao nhận thức và năng lực cho người dân là chủ yếu nhằm trang bị cho người dân
chiến lược sinh kế bền vững và lâu dài qua việc sử dụng nguồn lực tự nhiên và các
nguồn lục có liên quan. Đặc biệt sự can thiệp từ các dự án của nước ngoài không chỉ
mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực mà còn nâng cao năng lực và nhận thức cho người
dân nói chung và người phụ nữ đầm phá nói riêng.
Trong số các dự án đang thực hiện phải kể đến dự án “đồng quản lý tài nguyên: thúc
đẩy quyền phụ nữ và trẻ em” đang được Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Huế
triển khai thực hiện tại 5 xã của huyện Phú Vang. Dự án đã có tác động rất lớn trên tất
cả các mặt của đời sống của người dân, đặc biệt là nâng cao năng lực và nhận thức cho
người dân, nhất là đối với phụ nữ. Ngoài việc chịu ảnh hưởng chung của môi trường
đầm phá ô nhiễm và nguồn tài nguyên cạn kiệt, phụ nữ và trẻ em ở khu vực đầm phá
còn phải đối mặt với sự bất bình đẳng. Vị thế của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài
xã hội thấp hơn so với nam giới. Mặc dù tỷ lệ hai giới trong lực lượng lao động ngang
nhau, nhưng nghề nghiệp khác nhau. Theo Cục thống kê lao động thì phụ nữ có phạm vi
công việc tương đối nhỏ chẳng hạn như bủa lưới, làm thuê, buôn bán hoặc ở nhà chăm
sóc con cái. Trong khi đó nam giới có thể tham gia vào nhiều công việc khác nhau,
những công việc mà nam giới thường làm cho thu nhập cao hơn so với nữ giới. Chính vì

thế nam giới thường có khuynh hướng làm những nghề nghiệp có khả năng nâng cao vị
thế của họ trong gia đình, đồng thời nghề nghiệp và thu nhập cho phép họ có quyền lực
hơn trong gia đinh. Trong khi đó phụ nữ chủ yếu làm những công việc mang lại thu
nhập thấp nên chưa có vị thế xứng đáng trong gia đình. Do vậy, công việc ngoài xã hội
xưa nay do nam giới đảm nhận, vì thế công việc nội trợ - chăm sóc nhà cửa, con cái
được xác định là công việc của phái nữ. Sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động sản xuất
vẫn chưa mang lại thay đổi tích cực về vai trò, trách nhiệm của họ trong gia đình. Ngoài
ra, trình độ học vấn của phụ nữ thường thấp hơn nam giới. Tỷ lệ phụ nữ ở nơi đây biết
đọc và viết rất thấp. Chính điều này đã làm cho tiếng nói và vị thế của họ trong gia đình
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
cũng như trong cộng đồng chưa cao. Hầu như không ai lắng nghe tiếng nói của họ và ý
kiến của họ thường được xem là thứ yếu. Chính vì vậy, phụ nữ ít được quyền kiểm soát
và ra quyết định các vấn đề trong gia đình và xã hội, đặc biệt những vấn đề liên quan
trực tiếp đến đời sống và sức khỏe của họ.
Trên địa bàn xã Phú Đa có 01 thôn định cư được thành lập vào năm 1985, nằm giữa
địa bàn thôn Lương Viện và Viễn Trình. Thôn có 150 hộ, trong đó có 48 hộ nghèo và
hiện tại vẫn còn 07 hộ đang sống trên đò. Trên thực tế, khu định cư đã có khung cấp
hành chính nhưng chưa được công nhận là thôn. Trong 150 hộ thì có 20 hộ là tham gia
nuôi trồng, còn lại là đánh bắt thuỷ sản
(Nguồn:báo cáo của trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Huế.
Chi hội phụ nữ thôn đã được thành lập và có nhiều hoạt động bổ ích. Trong thời gian
qua, chi hội đã tham gia những hoạt động phong trào như: đóng góp hội phí, quỹ hội, tự
nguyện giúp đỡ những chị em gặp khó khăn, ngoài ra chi hội cũng còn là nơi để triển
khai chủ trương từ xã như: quỹ tiết kiệm, bình đẳng giới, kế hoạch hoá gia đình, các
phong trào thi đua, vay vốn xoá đói giảm nghèo.
Để tìm hiểu tính hiệu quả thực tế và những nhận định mang tính khách quan, tôi tiến
hành thực hiện đề tài “Đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về nâng cao
năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên
môi trường và thúc đẩy quyền trẻ em và phụ nữ”

(Nghiên cứu trường hợp đối với hợp phần thúc đẩy quyền và tăng năng lực cho phụ nữ
tại thôn TĐC Lương Viện, xã Phú Đa-Huyện Phú Vang-Tỉnh TT Huế)
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, người dân đầm phá đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, có nhiều
nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề lớn và quan trọng đến đời sống của
cộng đồng ngư dân ven đầm phá. Trong đó bao gồm các công việc khai thác đánh bắt và
tận dụng các nguồn lực tự nhiên tại vùng đầm phá được thiên nhên ưu đãu này, và quan
trong hơn phải kể đến năng lực, nhận thức và hiểu biết của người dân đầm phá trong đời
sống xã hội. Một mặt, người dân nơi đây vốn đã quen với cuộc sống ngư nghiệp, đặc
trưng và tính chất nghề nghiệp cho họ những kinh nghiệm về thiên nhiên quý báu,
nhưng nhận thức và hiểu biết của một bộ phận dân cư đang thực sự yếu, cả về trình độ
và nhận thức. Trước đây, rất nhiều làng nổi sống trên phá Tam Giang, cuộc sống trôi nổi
trên phá khiến người dân không biết tiếp xúc với đất liền và cuộc sống trên cạn. cuộc
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
sống qua ngày làm cho họ mất đi các quyền lợi cơ bản và các vấn đề xã hội như bất bình
đẳng, bạo lực gia đình…vẫn xảy ra thường xuyên. Tất cả những vấn đề trên là tiêu điểm
của nhiều nhà nghiên cứu cũng như việc đưa ra các chính sách nhằm cải thiện sinh kế
cho những người dân đang sống trôi nổi nơi đây. Nỗ lực của các bên liên quan và người
dân đã giúp người dân các xã của huyện Phú Vang có được nơi tái định cư lâu bền để ổn
định cuộc sống.
Những vấn đề sau khi đưa các hộ dân lên bờ tái định cư là tiêu điểm quan tâm
nóng bỏng không chỉ đối với các nhà báo mà còn cho các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Các thông tin có liên quan đến các hộ dân tái định cư tại huyện Phú Vang luôn
được đăng trên các trang của báo điện tử như www.vietnamnet.vn;
www.dantri.com...phản ánh cuộc sống khó khăn như về điều kiện nhà ở, về cuộc sống
mới, về môi trường và năng lực nhận thức hiểu biết của người dân sau khi lên bờ.
Thông qua việc tổng hợp và thu thập một số bài báo và báo cáo, có thể nêu lên
một vài đặc điểm liên quan đến vấn đề như sau:
Mặc dù được cấp đất và hổ trợ một phấn vốn để xấy dụng nhà cửa và các công

trình phụ, song có thể nói người dân sau khi tái định cư đã gặp rất nhiều khó khăn. Họ
thiếu thốn tất cả mọi thứ cần phải có khi sông trên đất liền
Sau khi lên bờ, người dân vẫn tiếp tục kiếm sống bằng nghề đánh bắt và nuôi
trồng, cho nên vấn đề đi lại và chủ động về thời gian là bị hạn chế.
Bên cạnh đó, vấn đề văn hóa, hiểu biết, trình độ nhận thức của người dân về các khía
cạnh của đời sống xã hội đang như bị cách ly với người dân ngay từ ban đầu.
Thực tế đó đã cho thấy nhu cầu cần thiết phải nâng cao và hỗ trợ cho người dân
tái định cư về các kiến thức là quan trong như thế nào. Các công tác tập huấn, hỗ trợ
nâng cao năng lực của chính quyền địa phương, chính quyền xã, tỉnh và trung ương đều
tập trung quan tâm, và điều đó đã trở thành tiêu điểm trong thời gian qua.
Trên thực tế, các báo cáo đó tập trung đánh giá vào các đối tượng chung chung,
và triển khai rộng trên tất cả các lĩnh vực mà chưa chú ý tập trung vào một đối tượng
nhất định, nhất là nhóm những người dễ bị tổn thương như phụ nữ.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Đề tài tiến hành tìm hiểu, phân tích và đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn
nâng cao năng lực cho phụ nữ của dự án, qua đó để đưa ra một số ý kiến mang tính góp
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
ý khách quan nhằm xây dựng dự án phù hợp với tình hình thực tế và nguyện vọng cũng
như những giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu những nội dung trong chương trình tập huấn về hợp phần thúc đẩy quyền và
tăng năng lực cho phụ nữ của dự án.
- Tìm hiểu thực trạng nhận thức, năng lực và những hiểu biết của phụ nữ trước và sau
khi có dự án thực hiện tại thôn TĐC xã Phú Đa.
- Đánh giá tính hiệu quả của chương trình tập huấn nâng cao năng lực và quyền cho
phụ nữ của dự án.
- Từ thực tế để đưa ra những nhận định khách quan và giải pháp.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu và giới hạn đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về hợp phần nâng cao năng lực và quyền
cho phụ nữ của dự án
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Phụ nữ tại thôn định cư Lương Viện, xã Phú Đa, Huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
Huế.
- Cán bộ dự án, chính quyền
4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Không gian: Thôn định cư Lương Viện, xã Phú Đa-Huyện Phú Vang-Tỉnh
TT Huế.
4.3.2. Thời gian: Từ tháng 02/2011 đến tháng 04/2011
4.3.3. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu để tìm hiểu và đánh giá nội dung và tính hiệu quả
trong khi dự án đang thực hiện, do đó chỉ đi sâu đánh giá những hiệu quả hiện thời chứ
không bao trùm cả nghiên cứu về sau của dự án. Qua đó để đưa ra một số ý kiến mang
tính góp ý khách quan nhằm xây dựng dự án phù hợp với tình hình thực tế và nguyện
vọng cũng như những giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Các nội dung tập huấn trong hợp phần của dự án có nội dung rất phong phú và
đa dạng.
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
- Tính hiệu quả được thể hiện thông qua năng lực, nhận thức và hiểu biết của phụ
nữ trên nhiều khía cạnh trong cuộc sống.
- Có sự thay đổi nhất định theo từng giai đoạn của cả cơ quan thực hiện dự án và
người dân để nâng cao hiệu quả của dự án.
- Các yếu tố như con người, khu vực địa lý, văn hóa và phong tục tập quán có và
cán bộ tập huấn có ảnh hưởng nhất định đến tính hiệu quả của các buổi tập huấn của dự
án dành cho phụ nữ.
6. Câu hỏi nghiên cứu

- Các nội dung trong chương trình tập huấn cho phụ nữ của dự án là gi?
- Nhận thức và năng lực của phụ nữ trước khi có dự án: hiểu biết về đời sống, về xâ
hội, về làm ăn kinh tế, về sức khỏe sinh sản, bạo lực gia đình…?
- Những thay đổi sau khi dự án thực hiện?
- khó khăn, thuận lợi của người thực hiện dự án là gi?
- Khó khăn, thuận lợi của người dân mà đặc biệt là phụ nữ là gi?
- Thích nghi và ứng phó của hai bên như thế nào?
- Thái độ và phản ứng của người dân?
- Sự tham gia của người phụ nữ trong các buổi tập huấn và trong quá trình dự án
thực hiện?
- Người dân có nguyện vọng gì và chiến lược thích nghi của dự án như thế nào?
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là sự vận dụng các quan điểm chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời vận dụng một số khái
niệm, phạm trù và lý thuyết xã hội học phù hợp và hướng tiếp cận nghiên cứu giám sát
đánh giá để làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Với đề tài này tôi đã tiến hành thu thập thông tin thông qua việc phân tích tài liệu thứ
cấp: báo cáo có liên quan( các công văn, chỉ thị các văn bản và quyết định có liên quan
đến dự án. Các báo cáo thực địa của trung tâm khoa học xã hội và nhân văn…)
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Với các dữ liệu thu thập được tiến hành phân tich tài liệu và làm cơ sở cho việc thiết kế
công cụ nghiên cứu
7.2.2. Phương pháp quan sát
Để tiến hành thực hiện đề tài, chúng tôi đã thực hiện nhiều cuộc quan sát, cả
tham dự và không tham dự với sự hổ trợ của các dụng cụ kỷ thuật để ghi lại tất cả làm
cơ sở dữ liệu phân tích đánh giá

7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Chúng tôi tiến hành thực hiện phỏng vấn sâu 10 người, trên cơ sở đó đi sâu tìm
hiểu vấn đề và làm cơ sở phân tích nghiên cứu. Cuộc phỏng vấn được thực hiện dựa trên
bảng hướng dẫn phỏng vấn sâu được thiết kế sẵn câu hỏi và đối tượng.
8. Khung lý thuyết
9. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
9.1. Ý nghĩa lý luận
Việc tiến hành tìm hiểu, đánh giá, phân tích các khía cạnh và các vấn đề trong
đời sống xã hội là một lĩnh vực của xã hội học. trong đó “Đánh giá tính hiệu quả của
hoạt động tập huấn về nâng cao năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án “đồng quản
lý tài nguyên:thúc đẩy quyền và tăng năng lực cho phụ nữ và trẻ em” nhằm đẻ thấy
được tính hiểu quả, tích cực cũng như những tồn tại mà các buổi tập huấn của dự án
mang lại.
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Dự án
đồng quản
lý tài
nguyên:
thúc đẩy
quyền phụ
nữ và trẻ
em
Các hoạt
động của:
Hợp phần
thúc đẩy
quyền và
tăng năng
lực cho
phụ nữ

đầm phá:
-tập huấn
-hỗ trợ
-vay vốn
………..
Hoạt động tập huấn
Sức khỏe
sinh sản
Bạo lực
gia đình
Hiệu quả
Hoạt
động xã
hội…
Đánh giá
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Trả lời một số câu hỏi : người dân tại địa bàn đang thực sự cần gì? Tại sao lại cần
có các buổi tập huấn để nâng cao năng lực? tính hiệu quả và những tác động mà các
buổi tập huấn mang lại? mối quan hệ giữa cán bộ tập huấn và người dân như thế
nào?...là những yêu cầu có tính khoa học và thiết thực. Bên cạnh đó đánh giá vai trò và
tầm quan trọng của dự án và những thay đổi của người dân trước và sau khi có dự án
thực hiện.
9.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài thực hiện là một nghiên cứu có tính đánh giá tính hiệu quả thông qua tìm
hiểu thực tế tại địa bàn mà dự án đang thực hiện. Qua đó để thấy được những nhu cầu
của người dân cũng như mục đích và tính chất, hiệu quả và tác động mà các buổi tập
huấn dự án mang lại cho người phụ nữ.
Thông qua đó cũng mạnh dạn đưa ra những góp ý và giải pháp để dự án tham khảo.
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp

PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Các khái niệm
* Đánh giá:
Đánh giá là quá trình đo lường của mức độ đạt được của công việc về các mục
tiêu và nhiệm vụ của quá trình mà ai, Tổ chức nào thực hiện công việc đó.
(Black và Wiliam (1998)
* Hiệu quả:
Hiệu quả là khái niệm chung để chỉ các kết quả hoạt động của các sự vật hiện
tượng bao gồm hiệu quả về kinh tế, xã hội,đời sống, phát triển nhận thức
* Dự án:
Là tập hợp các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu cụ thể, trong một khoảng thời
gian nhất định với những tiêu phí về tài chính và tài nguyên đã được định trước
Dự án xã hội là một loại dự án phát triển được hình thành để giải quyết một hay một số
vấn đề của một cộng đồng, nhóm dân cư nào đó với sự tham gia tích cực của nhiều lực
lượng xã hội( bên trong và bên ngoài) nhằm tạo ra những chuyển biến xã hội theo
hướng tích cực tại cộng đồng hay nhóm dân cư đó, thể hiện bằng một chương trình hành
động với những tiêu phí về tài chính hoặc về tài nguyên đã được định trước
(Huỳnh Thị Ánh Phương, 2008)
* Tái định cư:
Là sự di chuyển của một bộ phận dân cư từ nơi ở này sang nơi ở khác nhằm cố
định lại đại bàn cư trú và ổn định lại các hoạt động sản xuất. TĐC thường mang ý nghĩa
tích cực với mục đích tạo ra điều kiện cho việc tổ chức tổ chức lối sống đầy đủ và tiến
bộ hơn. (bách khoa toàn thư)
1.2. Các lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu.
* Thuyết lựa chọn duy lý
Thuyết lựa chọn duy lý có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân văn học
thế kỷ 18 và 19. Thuyết dựa vào tuyên đề cho rằng con người luôn hành động một cách
có chủ đích, có suy nghĩ và lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm

đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
việc phải cân nhắc, tính toán để quyết định sử dung loại phương tiện tối ưu trong trong
những điều kiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm của các nguồn lực.
Về nguyên tắc, thuyết này cho rằng mõi cá nhân đều xuất phát từ động cơ duy lý
là lựa chọn hành động nào đem lại lợi ích lớn nhất với nguy cơ chi phí và thiệt hại nhỏ
nhất. nhưng trong điều kiện thiếu thông tin, thiếu sự hợp tác tức là thiếu tính xã hội nên
từng hành động lựa chọn duy lý của cá nhân đã ngăn cản việc xuất hiện một giải pháp,
một kết cục tốt nhất cho cả hai
Thuyết được vận dụng vào giải thích việc các hộ dân định cư thôn Lương Viện
xã Phú Đa lựa chọn cho mình chiến lược phát triển mới là thay đổi nơi sống. Thuyết lựa
chọn duy lý cũng giải thích tạo sao những người phụ nữ thôn tái định cư lại tìm đến sự
thay đổi thông qua việc tham gia vào dự án, tham gia vào quá trình dự án tiến hành và
thực hiện công việc tập huấn. Đồng thời cũng giải thích có sự mâu thuẫn nào giữa bên
thực hiện dự án và bên phía người dân để xem có đi đến tiếng nói chung hay giải quyết
như thế nào. Hướng đi có lợi nhất luôn là mục tiêu cả hai bên cùng hướng đến.
* Lý thuyết cấu trúc chức năng
Cơ cấu chức năng được A.Comte và H.Spencer khởi xướng rồi những nhà khoa
học sau đó kế thừa và xây dựng thành thuyết cấu trúc chức năng. Hiện nay thuyết này
trỏ thành một trong những công cụ lý luận chủ yếu để xem xét và phân tích các hiện
tượng xã hội. Theo lí thuyết này thì xã hội được cấu thành bởi các thành tố có tác động
qua lại lẫn nhau, tương tác với nhau hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh. Mỗi thành tố
có vai trò, chức năng riêng nhưng lại phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau. Chúng tôi áp dụng lí
thuyết này để giải thích mỗi quan hệ qua lại, đánh giá sự tác động của các loại hình tập
huấn tới người dân định cư thôn Lương Viện và ngược lại. Sự biến đổi về cấu trúc xã
hội được Comte miêu tả dường như lệ thuộc vào qui luật của sự tiến hóa. Dựa trên ý
tưởng này của Comte có thể thấy mọi xã hội luôn luôn vận động biến đổi và mọi xã hội
là một chỉnh thể thống nhất trong sự đa dạng.
2. Cơ sở thực tiễn

Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Hiện nay, trong quá trình thực hiện các dự án, công tác họp bàn và tập huấn được
xem là hết sức quan trọng, vì nó không chỉ phản ánh đúng với thực tế của từng địa
phương mà còn là tâm tư nguyện vọng của người dân nơi đang triển khai thực hiện dự
án.
Các đề tài liên quan đến công tác tập huấn như
. Báo cáo kết quả nghiên cứu phân tích sinh kế có sự tham gia tại xã Vinh Hà, huyện
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế do Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn - Đại học
khoa học Huế năm 2005.
Đây là nghiên cứu nhằm tìm hiểu đánh giá thực trạng đời sống người dân tại xã
Vinh Hà trên những vấn đề sau: Ngư dân xã Vinh Hà đang sống trong các hoàn cảnh
bấp bênh nào liên quan đến các điều kiện môi trường và kinh tế, xã hội: ngoài các yếu tố
về nguồn lực con người, nguồn lực thiên nhiên, nguồn lực văn hoá xã hội, nguồn lực vật
chất và nguồn lực tài chính…? Các thể chế, định chế, chính sách đã, đang và sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đời sống sinh kế của cộng đồng đó như thế nào? Nhận thức, hiểu biết và
thái độ của người dân ra sao? Nghiên cứu đã sử hướng tiếp cận phân tích SKBV dụng
tổng hợp các công cụ trong PRA (nghiên cứu có sự tham gia của người dân) như: biểu
đồ lịch sử, biểu đồ tài nguyên, sơ đồ đi lại, lịch thời vụ, biểu đồ venn, bảng xếp hạng,
bảng phân công lao động và phân tích vai trò giới, phỏng vấn. Báo cáo đã chỉ ra được sự
bấp bênh trong đời sống người dân ở đây như thu nhập thấp, hộ nghèo chiếm tỷ lệ lớn,
tài sản và nhà cửa của nhiều hộ gia đình trong tình trạng khó khăn. Báo cáo cũng đã đi
sâu phân tích các nguồn lực của cộng đồng như nguồn lực xã hội, tài chính, vật chất,
con người, tự nhiên trong việc lựa chọn các hình thức sinh kế của người dân ở đây. Tuy
nhiên cộng đồng dân cư ở đây chưa tiếp cận và sử dụng một cách thoả đáng các nguồn
lực đó. Nghiên cứu đã phân tích các yếu tố tác động đến sinh kế như các thể chế chính
sách, những xu hướng thời vụ và chỉ ra rằng các thể chế chính sách liên quan trực tiếp
đến người một mặt đang mang lại cho bà con một số cơ hội mặt kia cũng mở ra một số
thách thức cho bà con nơi đây.
Luận văn tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Hữu An với đề tài:“Tác động của sự suy

giảm nguồn vốn tự nhiên đến sinh kế của các hộ vạn đò định cư vùng đầm phá Tam
Giang hiện nay”. (Nghiên cứu tại thôn Cự Lại Bắc xã Phú Hải, thôn Thanh Mỹ xã Phú
Diên, làng định cư xã Phú Đa, thôn Hà Trung 5 xã Vinh Hà, Đội 16 cư dân thuỷ diện xã
Vinh Phú, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Luận văn đã đi sâu phân tích các yếu tố tác động đến sự suy giảm nguồn vốn tự nhiên,
trong đó có nêu ra vấn đề nhận thức và hiểu biết của người dân trong việc khai thác có
hiệu quả nguồn vốn tự nhiên. Tuy nhiên đề tài chưa đề cập nhiều đến vấn đề thực hiện
công tác tập huấn nâng cao năng lực nhận thức cũng như hiểu biết cho người dân.
2.1. Vài nét về dự án đồng quản lý tài nguyên: thúc đẩy quyền và tăng năng
lực cho phụ nữ và trẻ em:
Dự án được thực hiện và quản lý bởi Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (CSSH).
CSSH có trách nhiệm triển khai các hoạt động và đảm bảo những mục tiêu đã để ra
trong Đề cương Dự án.Tổ chức ICCO đã tài trợ dự án nhằm mục tiêu phát triển sinh kế
bền vững cho người dân xã Vinh Hà, Phú Hải, Phú Đa, Vinh Phú và Phú Diên, huyện
Phú Vang. Dự án này là kết quả của những lợi ích từ cộng đồng và được đánh giá độc
lập vào tháng 12 năm 2008. Sở dĩ dự án được tiến hành tại vùng đầm phá Tam Giang và
tại các xã nói trên là vì:
Hiện nay đầm phá đang phải đối mặt với nhiều vấn đề. Nhưng qua nghiên cứu, chúng
tôi đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề lớn và quan trọng đến đời sống của cộng đồng
ngư dân ven đầm phá sau:
Vấn đề đầu tiên là môi trường đầm phá đang ô nhiễm. Lượng rác thải ngày càng
nhiều, nguồn nước một số nơi, nhất là vùng nước ven bờ, khi quan sát bằng mắt thường
có thể thấy màu nước đen và có nhiều chất lơ lững, dòng chảy không thông thoáng
khiến rác thải và một số thực vật thuỷ sinh trôi nổi không lưu thông.
Lượng rác thải ở đây bắt nguồn từ nhiều nơi khác nhau. Một phần do chính người dân
xung quanh đầm phá xả rác bừa bãi trực tiếp xuống đầm hoặc thải xung quanh khu vực
sinh sống, từ đó gió, nước mưa chảy tràn mang rác xuống đầm phá. Một nguồn khác là
rác do các nơi đưa đến bởi dòng chảy tự nhiên của các con sông như: rác thải từ vùng

thượng nguồn, rác thải sinh hoạt từ vùng thành phố, rác từ các khu chợ ven sông, ven
phá,...
Việc xả rác thải bừa bãi của người dân ven đầm phá xuất phát từ cả nguyên nhân chủ
quan lẫn nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan là do ý thức của người dân ở
đây chưa cao. Đa số dân cư sống ven đầm phá trước đây là dân cư thuỷ diện, nơi sống
không ổn định, nên thiếu điều kiện được học hành. Chính vì vậy mà họ có trình độ học
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
vấn thấp, dẫn đến nhận thức về các vấn đề môi trường hạn chế, đồng thời khó tiếp cận
được các thông tin về môi trường. Còn nguyên nhân khách quan là do địa phương chưa
có dịch vụ thu gom rác tận nơi và chưa có điểm thu gom rác tập trung. Dịch vụ thu gom
rác do Công ty Công trình đô thị ở thành phố đảm trách không thể đến được với bà con
do khoảng cách về địa lý quá xa. Mặt khác đời sống người dân còn thấp nên chưa thể áp
dụng được mức thu phí dịch vụ như ở các vùng khác, nếu thiết lập đường dây thu gom
thì công ty sẽ không có đủ con người và kinh phí. Việc thiết lập dịch vụ thu gom tại chỗ
do chính quyền hoặc các tổ tự quản của dân thực hiện chưa được chính quyền quan tâm
đến, các điểm thu gom rác tập trung cũng chưa được chính quyền địa phương dành một
quỹ đất hợp lý trong quá trình quy hoạch sử dụng đất.
Địa hình vùng đầm phá đang thay đổi theo những chu kỳ biến động tự nhiên. Hiện
tượng bồi đắp của trầm tích đáy và phù sa do các con sông mang đang làm cho một số
khu vực trở nên cạn hơn, lưu lượng dòng chảy yếu đi và không còn được lưu thông như
trước. Thêm vào đó do lượng rác thải ngày càng nhiều như đã phân tích ở trên càng
khiến cho luồng lạch bị cản trở, dòng chảy không thông thoáng. Lượng rác này tù động
lâu ngày, khi phân huỷ cũng góp phần làm cho nguồn nước bị ô nhiễm, có màu khác
thường và có mùi hôi.
Một yếu tố quan trọng nữa góp phần làm cản trở dòng chảy đó chính là việc bố trí các
ngư cụ cố định trên đầm phá chưa hợp lý. Khoảng cách giữa các trộ nghề như nò sáo,
đáy, lồng cá chưa đảm bảo về độ thông thoáng cho dòng chảy. Có những nơi nò sáo đan
khít nhau, khiến cho phương tiện giao thông thuỷ đi lại khó khăn. Một số vùng có các
lồng nuôi cá cắm sát bờ, tạo điều kiện cho rác tù đọng thêm, giữa các lồng không có

khoảng cách khiến cho dòng nước không lưu thông, dễ gây nên bệnh tật cho cá, khi có
bệnh lại dễ lây lan. Vấn đề này đã xảy ra trong thời gian dài, được đề cập nhiều nhưng
vẫn chưa giải quyết được triệt để do một số địa phương chưa quy hoạch vùng đánh bắt,
một số vùng quy hoạch nhưng chưa hợp lý khiến cho người dân chưa tuân theo. Từ phía
chính quyền và các cơ quan chức năng cấp tỉnh đã có một số quy chế và chính sách để
xử lý tình trạng này nhưng đến nay vẫn chưa thực thi được do chưa có đủ nguồn lực về
con người và kinh phí để thực hiện. Mặt khác một số bộ phận dân cư vì sinh kế và điều
kiện kinh tế nên chưa chịu di dời theo các quy chế, quy hoạch của chính quyền đưa ra.
Ngoài ra nguồn nước đầm phá còn chịu thêm một số tác động khác. Đó là nguồn
nước thải từ các sinh hoạt cư dân, các khu chợ ven sông, đầm, các cơ sở sản xuất chế
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
biến. Quan trọng hơn là một số cơ sở chế biến thuỷ sản gần đó đổ trực tiếp nước thải ra
sông, đầm phá không qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn do chi phí cao, làm giảm
lợi nhuận. Mặt khác các cơ quan chức năng chưa đủ nhân lực và trách nhiệm để giám
sát việc thực thi các quy định về môi trường.
Vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan chặc chẽ với việc tài nguyên đầm phá bị cạn
kiệt, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Tuy nhiên, việc quản lý tài nguyên nhằm
tạo ra sinh kế bền vững cho người dân hiện nay chưa đạt hiệu quả. Vấn đề ở chổ
phương pháp và cơ chế quản lý tài nguyên chưa hợp lý.
Quản lý tài nguyên liên quan đến vai trò chính quyền các cấp lẫn cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài các chính sách quản lý tài nguyên đầm phá đều
có những điểm không hợp lý cả trong quá trình xây dựng lẫn thực thi. Quá trình đề ra
chính sách thiếu sự tham gia của cộng đồng, quá trình thực thi chính sách chưa hiệu quả
và triệt để. Nguồn lực thực hiện quản lý tài nguyên, bao gồm con người, kinh phí lẫn
trang thiết bị còn hạn hẹp. Các quy hoạch, chiến lược phục vụ quản lý tài nguyên về lâu
dài thiếu tầm nhìn.
Có nhiều yếu tố dẫn đến việc người dân không được tham gia trong quá trình hình thành
chính sách. Một mặt chính quyền chưa coi trọng vai trò của người dân mặt khác người
dân chưa có thói quen và biết được vai trò của mình. Ngoài ra, tổ chức đoàn hội đại diện

cho người dân, cụ thể là các hội nghề cá, chưa phát huy được vai trò của mình do chưa
tổ chức chặt chẽ, năng lực còn kém, chưa được chính quyền quan tâm đúng mức, hoạt
động chưa hiệu quả. Các hội nghề cá vốn là tập hợp các thành viên/các hộ có các hoạt
động đánh bắt, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản tại các địa phương, trong đó vùng đầm phá
được chú trọng hơn cả. Do đặc thù như vậy nên các hội có những khó khăn nhất định.
Một khó khăn chung nhất là trước đây cư dân đánh bắt không có nơi ở ổn định nên ít
được học hành, dẫn đến trình độ học vấn thấp, từ đó khó có thể tìm ra được người điều
hành tốt. Bên cạnh đó, người dân đầm phá vốn quen lênh đênh sông nước nên nếp sống
tự do, ít có thói quen sinh hoạt đoàn hội, khiến họ ít có cơ hội được tiếp cận thông tin
nói chung và các chính sách quản lý tài nguyên đầm phá nói riêng cũng như ít có cơ hội
trình bày những nguyện vọng về nghề nghiệp đến chính quyền địa phương, vậy nên chi
hội chưa có tiếng nói đủ mạnh và khó tổ chức các hoạt động tập thể khác.
2.2. Dự án có hợp phần thúc đẩy quyền và tăng năng lực cho phụ nữ và trẻ em
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Ngoài việc chịu ảnh hưởng chung của môi trường đầm phá ô nhiễm và nguồn tài
nguyên cạn kiệt, phụ nữ và trẻ em ở khu vực đầm phá còn phải đối mặt với sự bất bình
đẳng. Vị thế của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội thấp hơn so với nam giới.
Mặc dù tỷ lệ hai giới trong lực lượng lao động ngang nhau, nhưng nghề nghiệp khác
nhau. Theo Cục thống kê lao động thì phụ nữ có phạm vi công việc tương đối nhỏ
chẳng hạn như bủa lưới, làm thuê, buôn bán hoặc ở nhà chăm sóc con cái. Trong khi đó
nam giới có thể tham gia vào nhiều công việc khác nhau, những công việc mà nam giới
thường làm cho thu nhập cao hơn so với nữ giới. Chính vì thế nam giới thường có
khuynh hướng làm những nghề nghiệp có khả năng nâng cao vị thế của họ trong gia
đình, đồng thời nghề nghiệp và thu nhập cho phép họ có quyền lực hơn trong gia đinh.
Trong khi đó phụ nữ chủ yếu làm những công việc mang lại thu nhập thấp nên chưa có
vị thế xứng đáng trong gia đình. Do vậy, công việc ngoài xã hội xưa nay do nam giới
đảm nhận, vì thế công việc nội trợ - chăm sóc nhà cửa, con cái được xác định là công
việc của phái nữ. Sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động sản xuất vẫn chưa mang lại
thay đổi tích cực về vai trò, trách nhiệm của họ trong gia đình. Ngoài ra, trình độ học

vấn của phụ nữ thường thấp hơn nam giới. Tỷ lệ phụ nữ ở nơi đây biết đọc và viết rất
thấp. Chính điều này đã làm cho tiếng nói và vị thế của họ trong gia đình cũng như
trong cộng đồng chưa cao. Hầu như không ai lắng nghe tiếng nói của họ và ý kiến của
họ thường được xem là thứ yếu. Chính vì vậy, phụ nữ ít được quyền kiểm soát và ra
quyết định các vấn đề trong gia đình và xã hội, đặc biệt những vấn đề liên quan trực tiếp
đến đời sống và sức khỏe của họ.
Có nhiều nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng giới. Nguyên nhân thứ nhất trực tiếp là
trình độ học vấn của phụ nữ thấp hơn nam giới. Điều này cũng xuất phát từ những định
kiến xã hội dành cho phụ nữ. Những định kiến này thường do phong tục tập quán. Xã
hội đã quy định giáo dục, trường lớp là nơi dành riêng cho nam giới, còn bếp núc là nơi
dành riêng cho phụ nữ.
Ngoài những định kiến xã hội thì nơi ở trước đây của họ cũng đã có những ảnh hưởng
nhất định. Trước đây, họ sống trên thuyền, cuộc sống nay đây mai đó. Chính yếu tố này
dẫn đến họ không có điều kiện để đến trường. Theo khảo sát gần đây của chúng tôi thì
phụ nữ trong độ tuổi từ 40 đến 50 đều không biết đọc và viết (chiếm 86,67%) số người
học ở bậc tiểu học (chiếm 20%) và một số ít là cấp II (2,67%).
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Nguyên nhân thứ hai là phạm vi giao tiếp hẹp của phụ nữ đối với xã hội bên ngoài.
Điều này đã khiến phụ nữ thiếu thông tin và thường e ngại trước mặt người khác. Hầu
hết những cuộc họp ở cộng đồng hay buổi tập huấn đều do nam giới đảm đương. Phụ
nữ chỉ ở nhà và có được thông tin thông qua người chồng. Chính yếu tố này dẫn đến,
nam giới nghĩ rằng mình luôn vượt trội hơn nữ giới. Qua phân tích nguyên nhân dẫn đến
phụ nữ có phạm vi giao tiếp không rộng là:
• Họ không nhận được sự giúp đỡ, động viên từ gia đình đặc biệt là người
chồng. Hầu như những buổi tập huấn, họp thôn người chồng luôn là người
tham gia
• Thiếu tự tin vào bản thân là một cản trở lớn, trình độ học vấn không cao, thiếu
cơ hội tham gia vào các hoạt động ở cộng đồng.
• Gánh nặng công việc gia đình chiếm một khoảng thời gian lớn của phụ nữ.

Cam chịu gần như là một trong những bản tính của phụ nữ khiến họ không mạnh mẽ,
không giám nói lên suy nghĩ. Nó xuất phát từ quan sát về mẹ và bà nội ngoại. Họ chưa
hề có ý nghĩ cãi lại chồng hay không theo ý chồng dù họ hài lòng hay không.
Trẻ em thất học và bỏ học sớm cũng đang là vấn đề bức xúc của nhân dân vùng đầm
phá. Thực trạng trên ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội của huyện nói riêng và toàn
tỉnh nói chung. Một số em sau khi bỏ học đi lang thang, trộm cắp gây mất trật tự trị an
thậm chí bị lạm dụng và bóc lột sức lao động.
Có nhiều nguyên nhân nhưng đáng kể nhất là do gia đình đông con, thiếu môi trường
học tập và bản thân các em thiếu ý thức về việc học.
Trên thực tế, gia đình đông con dẫn tới việc cha mẹ chỉ chú tâm lo đến vấn đề kinh tế,
kiếm đủ cái ăn cái mặc mà không quan tâm nhiều đến việc học hành của con cái. Một bộ
phận trẻ em đầm phá thường tranh thủ thời gian nghỉ hè, nghỉ tết đến các thành phố lớn
để bán vé số, bán hoa hay làm phụ thợ may cho các xưởng tư nhân kiếm tiền giúp đỡ bố
mẹ. Một số khác, thường giúp đỡ bố mẹ các công việc gỡ lưới tầm 3 - 6 giờ sáng; nên
khi đến trường học rất mệt mỏi, khó tiếp thu bài vở hay hoàn thành tốt bài tập. Chính vì
vậy, khiến tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi từ 11-15 nghỉ học càng nhiều.
Bố mẹ thiếu sự quan tâm, động viên con cái học hành, thậm chí còn chấp nhận để
các em lao động kiếm tiền sớm đã dẫn đến ý thức về việc học của các em dần dần bị
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
mai một. Cụ thể là, ở gia đình, các em không có sự hướng dẫn và định hướng đúng đắn
của cha mẹ khiến các em có những suy nghĩ lệch lạc, cho rằng việc kiếm tiền trước mắt
quan trọng hơn việc “dùi mài kinh sử”. Từ đó, các em lơ là việc học, không theo kịp bài
vở ở lớp, chán nản rồi bỏ học. Rõ ràng, gia đình chưa thật sự tạo ra một môi trường học
tập tốt cho trẻ em. Bố mẹ một mặt do trình độ thấp, mặt khác lại thiếu trách nhiệm giáo
dục ý thức về việc học tập cho con cái, mọi thứ ‘khoán trắng’ cho nhà trường, kết quả là
các em hầu như không có ý chí phấn đấu, xem việc học như nghĩa vụ chứ không phải là
mục tiêu phấn đấu cho tương lai bản thân.
Thêm vào đó, nhiều em bỏ học do thiếu ý thức học tập. Trẻ em trong độ tuổi từ 12-
15 thường bắt đầu có những chuyển biến khá rõ về mặt tâm lý, bắt đầu biết làm dáng và

quan tâm nhiều đến giới tính, bạn bè. Hơn nữa, việc tiếp xúc nhiều với thế giới/phương
tịên giải trí ngày càng phong phú bên ngoài khiến các em cảm thấy việc học trở nên
nặng nề và không còn ý nghĩa. Internet và những trò chơi điện tử mới mẻ, những người
bạn có tiền để chưng diện cộng với tâm sinh lý dậy thì cũng
là nguyên nhân khiến các em đua đòi, muốn kiếm tiền để được như bạn bè mình, và bỏ
học như là hệ quả tất yếu.
2.3. Mảng hoạt động dành cho phụ nữ
TT HOẠT ĐỘNG KẾT QUẢ TÁC ĐỘNG XÃ
HỘI
1 Tập huấn về giới và
vai trò giới
- Tổ chức ở thôn Cự
Lại Bắc xã Phú Hải
và thôn Định Cư
Lương Viện xã Phú
Đa với 3 lần tập
huấn, mỗi xã gần 30
người tham gia
trong đó có 15 nam
và 15 nữ ở Định
Cư Lương Viện 1
lần, riêng ở phú Hải
tổ chức 2 lần tập
huấn trên cùng một
- Hoạt động tập
huấn có ý nghĩa, tác
động rất lớn tới
nhận thức, hành vi
và ứng xử của cộng
động, của mỗi

giới.Lâu nay đàn
ông cứ nghĩ phụ nữ
chẳng làm được
việc gì, họ cho rằng
việc nhà, nuôi con,
chăm sóc gia đình là
thiên chức của
Phạm Văn Thiện Xã Hội Học K 31 ĐHKH Huế

×