Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu Luận Thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước các nước asean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.69 KB, 16 trang )

hể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước các nước
ASEAN(Phong Lan)
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ5/2002
Về đề tài nghiên cứu khoa học:
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ
NƯỚC CÁC NƯỚC ASEAN
PHONG LAN
Tổng thuật của phóng viên Tạp chí Khoa học pháp lý

Nay là tên đề tài khoa học cấp Bộ, mang mã số B 98-
26-04 được tập thể giảng viên Khoa luật Hành chính
Trường Đại học Luật TP. HCM cùng một số cán bộ
nghiên cứu Viện Đông Nam Á thuộc Trung tâm Khoa
học xã hội và Nhân văn Quốc gia thực hiện do Thạc sĩ
Trương Đắc Linh, Phó Trưởng khoa làm chủ nhiệm đề
tài. Đề tài vừa được Hội đồng Khoa học của Bộ giáo dục
và Đào tạo tổ chức nghiệm thu với kết quả đánh giá rất
tốt.
Như tên gọi của đề tài, dưới giác độ Luật Hiến pháp,
các tác giả đã tập trung phân tích một số nội dung cơ
bản về thể chế chính trị và tổ chức bộ máy của 9 nước
ASEAN (trừ Việt Nam). Nội dung đề tài được chia thành
hai phần rõ rệt. PHẦN CHUNG tập trung nghiên cứu
những vấn đề cơ bản của các nước ASEAN như: Tổng
quan về các nước ASEAN, chế độ chính trị, hình thức
chính thể và hình thức cấu trúc nhà nước, nghị viện,
nguyên thủ quốc gia, chính phủ, cơ quan tư pháp và hệ
thống chính quyền địa phương. Từ những vấn đề chung
đó, trong PHẦN RIÊNG, các tác giả đi vào phân tích cụ
thể 9 nước để tìm ra những điểm đặc thù về thể chế
chính trị và tổ chức bộ máy Nhà nước của từng nước


ASEAN.
1. Về thể chế chính trị các nước ASEAN, các tác giả đã
xác định được những đặc điểm chủ yếu sau :
Một là, thể chế chính trị của các nước ASEAN (trừ Thái
Lan) từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay gắn
liền với quá trình đấu tranh giành và giữ vững nền độc
lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Sự lựa
chọn con đường phát triển TBCN hay XHCN là một
trong những yếu tố quyết định tính chất và đặc điểm
của hình thức chính thể và tổ chức bộ máy Nhà nước
các nước ASEAN. Trong số 8 nước đi theo con đường
phát triển TBCN, có 4 nước theo hình thức chính thể quân chủ lập
hiến (Brunây, Campuchia, Malaixia, Thái Lan); Xingapo có hình thức
chính thể cộng hòa đại nghị theo mô hình của nước Anh. Riêng
Mianma, theo Hiến pháp năm 1947 là chính thể cộng hòa dân chủ đại
nghị, nhưng từ sau các cuộc đảo chính quân sự (năm 1962-1974 và
năm 1988), thể chế chính trị của Mianma đến nay vẫn đang là chế độ
quân sự. Nước Lào từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sau khi
giành được độc lập đã đi theo con đường phát triển XHCN với hình
thức chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân.
Hai là, ở các nước ASEAN phát triển theo con đường
TBCN, phải trải qua nhiều biến động, nhiều xung đột
gay gắt, giai cấp tư sản và địa chủ tại các nước này mới
dần dần giữ được vị trí thống trị của mình. Nền dân chủ
tư sản ở các nước ASEAN chịu ảnh hưởng và mô phỏng
dân chủ tư sản phương Tây, mức độ nhiều ít khác nhau
tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi
nước. Nhưng do đặc điểm lịch sử và điều kiện kinh tế –
xã hội của những nước này không có sự tương đồng
như các nước phương Tây, nên không tạo ra nền tảng

cho việc thực thi các thể chế dân chủ tư sản, mà chỉ là
“bức tranh biếm họa” của mô hình dân chủ tư sản phương Tây. Điển
hình là chế độ cộng hòa tổng thống của Philippin,
Inđônêxia với sự thống trị độc tài, quân phiệt và nạn
tham nhũng nặng nề của giới chóp bu cầm quyền xung
quanh tổng thống (như thời kỳ cầm quyền của Marcos
với lệnh thiết quân luật hơn mười năm trời trên toàn
nước Philippin từ đêm 21/9/1972; cũng như suốt 32
năm của cái gọi là “Trật tự mới” dưới thời cầm quyền
của Xuhactô ở Inđônêxia…).
Ba là, sau những biến động chính trị – xã hội sâu sắc
bởi sự thao túng của giới quân sự (Inđônêxia, Philippin,
Mianma) đã để lại hậu quả nặng nề về nhiều mặt tại
các quốc gia này nên những năm gần đây, khuynh
hướng dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước và
dân sự hóa bộ máy Nhà nước đang thắng thế ở một
loạt nước ASEAN. Ví dụ, năm 1986 đã chấm dứt 21
năm cầm quyền của Marcos, một “Tổng thống có một
bàn tay sắt” với chế độ độc tài do ông ta tạo ra ở
Philippin; sự ra đi của Tổng thống Xuhactô sau 32 năm
cầm quyền và sự lùi bước của phe quân sự trước phe
dân sự ở Inđônêxia; hoặc các thế lực quan liêu, quân
phiệt đã không ngăn cản và đàn áp được các lực lượng
dân sự và tiến bộ ở Thái Lan (điển hình là “cuộc cách
mạng của sinh viên” vào những năm 1973 – 1976,
cũng như xu hướng dân sự hóa bộ máy Nhà nước ở
Thái Lan hiện nay…).
Bốn là, do tính phức tạp, đa dạng về sắc tộc, tôn giáo,
cũng như sự phân hóa ngay trong nội bộ giai cấp tư
sản của các nước ASEAN và ảnh hưởng của nền dân

chủ phương Tây, nên các nước ASEAN (trừ Lào) đều có
rất nhiều đảng phái chính trị (ví dụ: Inđônêxia có gần
100 đảng chính trị, Thái Lan có hàng trăm đảng phái
khác nhau…). Nhưng thực tế cho thấy, ở những nước
này chỉ có một hoặc liên minh một số đảng nhất định
cầm quyền. Ví dụ: Đảng Nhân dân hành động (PAP) là
đảng duy nhất cầm quyền ở Xingapo liên tục từ năm
1959 đến nay; ở Malaixia, Đảng Dân tộc Mã Lai thống
nhất (UMNO) cầm quyền suốt 40 năm qua,v.v Đây là
điều kiện bảo đảm ổn định về chính trị và phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước ở những nước này trong
những năm vừa qua, nhất là Xingapo.
2. Về tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN, các
tác giả cũng nêu rõ hai đặc điểm:
Thứ nhất, do ảnh hưởng nguyên mẫu Nhà nước của các
nước thực dân từng đô hộ ở các nước ASEAN, nên bộ
máy Nhà nước của các nước này (trừ Brunây, Lào,
Mianma), về cơ bản theo nguyên tắc phân quyền. Tùy theo
hình thức chính thể của các nước mà nội dung, tính
chất và mức độ của nguyên tắc phân quyền được thể
hiện khác nhau, thông qua các thiết chế của bộ máy
Nhà nước. Ví dụ, Philippin vốn là thuộc địa kiểu mới của
Mỹ nên “sao chép” mô hình cộng hòa tổng thống của
nước Mỹ; nguyên tắc phân quyền của cộng hòa đại
nghị Xingapo là theo chế độ đại nghị của nước Anh, có
sự cách tân phần nào chế định nguyên thủ quốc gia
bằng việc bầu cử trực tiếp Tổng thống…
Thứ hai, về các thiết chế của bộ máy Nhà nước các
nước ASEAN cũng có một số đặc điểm khác với các
nước. Chẳng hạn, về cơ quan đại diện quyền lực Nhà

nước cao nhất của các nước ASEAN (nghị viện hay
Quốc hội) thì trừ Lào và Xingapo, Quốc hội chỉ có một
viện, còn đa số các nước như Campuchia, Inđônêxia,
Malaixia, Philippin, Thái Lan, Quốc hội có hai viện,
nhưng tên gọi, thẩm quyền của các viện này không
hoàn toàn giống nhau (riêng Mianma và Brunây hiện
nay không có Quốc hội hoặc Nghị viện). Trong tổng số
đại biểu Quốc hội của một số nước ASEAN có những đại
biểu không qua con đường bầu cử mà do được bổ
nhiệm hoặc chỉ định. Ví dụ, Nghị viện Malaixia có 40
Thượng Nghị sĩ do Quốc vương chỉ định; Quốc hội
Inđônêxia có 38 đại biểu do quân đội cử, còn 425 đại
biểu do dân bầu. Nhiệm kỳ Quốc hội của các nước
ASEAN thường là 5 năm, riêng Philippin, Hạ nghị viện
có nhiệm kỳ 3 năm, Thượng Nghị viện nhiệm kỳ là 6
năm, nhưng cứ 3 năm có một nửa số Thượng nghị sĩ
(12/24) được bầu lại.
3. Về nguyên thủ quốc gia ở các nước ASEAN, theo các
tác giả, ở những nước theo chính thể cộng hòa tổng
thống (Philippin, Inđônêxia), do sự tồn tại của chủ
nghĩa tư bản gia đình (hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản
thân tín – “Crony – Capitalism” ), Tổng thống là trung
tâm quyền lực tập trung xung quanh mình những người
thân trong gia đình Tổng thống, bạn bè cũng như
những thân hữu là các quan chức địa phương, cảnh sát,
quân đội và các nhà kinh doanh… Dựa vào mối quan hệ
này mà Tổng thống duy trì địa vị của mình, ngược lại,
tầng lớp thân thuộc này của Tổng thống cũng lại dựa
vào quyền lực của Tổng thống để tồn tại, tham nhũng,
kiếm lời bất chính. Ví dụ, thời kỳ Tổng thống Marcos

cầm quyền từ 1967 – 1983, hàng trăm nhân vật nhờ sự
bảo trợ của Tổng thống trở nên giàu có, ngay cả cận vệ
của Marcos là tướng Ver cũng được cất nhắc lên Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, trở thành nhà tỉ phú ở Philippin.
Hoặc Xuhactô đã sử dụng quyền lực tối cao của Tổng
thống để ban phát cho con cháu và các thuộc hạ thân
tín nắm giữ nhiều tổ hợp công nghiệp, chi phối và kiểm
soát các ngành kinh tế then chốt của đất nước (như:
khai thác dầu mỏ, khí đốt, xe hơi, máy bay, ngân hàng,
kinh doanh bất động sản…). Tài sản của Xuhactô và 6
người con hiện nay được ước tính khoảng 50 tỷ USD,
10 người cháu của Xuhactô cũng đang kiểm soát nhiều
lĩnh vực kinh tế quan trọng với giá trị tài sản hàng chục
triệu USD. Các tướng lĩnh và thuộc hạ thân tín của
Xuhactô cũng được ban phát nhiều đặc quyền, đặc lợi,
v.v Trong khi đó Inđônêxia hiện đang nợ nước ngoài
khoảng 140 tỷ USD, nợ trong nước khoảng 60 tỷ USD.
Ở những nước theo hình thức chính thể quân chủ lập
hiến (Thái Lan, Malaixia, Campuchia, Mianma), khác
với Vua các nước trên thế giới “trị vì nhưng không cai
trị”, Vua hay Quốc vương của các nước này vẫn là
“trung tâm quyền lực”. Ví dụ, Quốc vương Brunây kiêm
cả Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và kiêm cả Bộ
trưởng Tài chính (từ năm 1998); hoặc vai trò và quyền
lực thực tế của Vua Thái Lan là rất lớn, lớn hơn nhiều
so với quy định của Hiến pháp. Cuộc khủng hoảng
chính trị tháng 5/1992 và cuối năm 1997 cho thấy các
phe phái đều phải “nghe theo lời khuyên của Vua”. Việc
nối ngôi ở các nước này cũng không theo nguyên tắc
“cha truyền con nối” như các nước khác trên thế giới

mà có thể do bầu theo nhiệm kỳ (Malaixia), hoặc do
Hội đồng Hoàng gia cử chọn Quốc vương (Campuchia);
hoặc “vĩnh hằng” theo quy định của Hiến pháp (khoản
1, Điều 313 Hiến pháp 1997 của Thái Lan).
4. Về cơ quan hành pháp các nước ASEAN, các tác giả
cho rằng, dù theo hình thức chính thể nào thì ở các
nước ASEAN, hành pháp vẫn là trung tâm của quyền
lực Nhà nước và thuộc về Chính phủ. Hành pháp có thể
do Tổng thống đứng đầu (Inđônêxia, Philippin), có thể
do Thủ tướng đứng đầu (Thái Lan, Malaixia,
Campuchia, Lào). Thực tiễn những năm gần đây cho
thấy, mô hình hành pháp của chế độ cộng hòa đại nghị
hay quân chủ đại nghị (Malaixia, Xingapo) có khả năng
ổn định và phát triển đất nước hơn, tránh được sự đối
đầu giữa hành pháp với lập pháp như tại Inđônêxia,
Philippin.
Riêng ở Thái Lan, do có quá nhiều đảng phái chính trị
(hàng trăm đảng phái) và do thế lực quân phiệt Thái
Lan cố tình dùng quyền lực của mình để đàn áp phong
trào dân chủ và thanh trừng lẫn nhau, nên trong 66
năm (từ sau Cách mạng tư sản năm 1932 – 1998),
Thái Lan đã trải qua 33 cuộc đảo chính, bình quân cứ 2
năm lại có một cuộc đảo chính thay đổi chính phủ.
5. Về cơ quan tư pháp các nước ASEAN, các tác giả cho
biết Tòa án các nước ASEAN tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tư pháp độc lập khi xét xử, áp dụng chế độ
thẩm phán chuyên nghiệp và bổ nhiệm Thẩm phán
theo nhiệm kỳ dài. Hầu hết các nước ASEAN (trừ Lào),
Tòa án tổ chức theo nguyên tắc thẩm quyền xét xử chứ
không theo đơn vị hành chính – lãnh thổ tương ứng với

cấp chính quyền địa phương. Một số nước (Malaixia),
Tòa án tối cao có thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp
theo mô hình tòa án tối cao của Nhật Bản, Mỹ… Ở một
số nước, đạo Hồi được coi là Quốc giáo (Malaixia,
Inđônêxia), ngoài Tòa án tư pháp, thường còn có Tòa
án tôn giáo xét xử theo Luật Hồi giáo.
6. Về chính quyền địa phương của các nước ASEAN, cơ
bản được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc kết
hợp giữa tập quyền và tản quyền, giữa tập trung với
phi tập trung và tự quản. Xuất phát từ đặc điểm địa lý,
sắc tộc và diện tích quá rộng với hơn chục nghìn hòn
đảo…, nên Nhà nước Inđônêxia tổ chức chính quyền
trung ương theo nguyên tắc tập trung cao độ trong mối
quan hệ với chính quyền các địa phương. Phần lớn các
nước ASEAN, cơ quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện
do chính quyền trung ương và cấp trên bổ nhiệm. Ở
cấp xã, làng áp dụng chế độ tự quản, có Hội đồng và
Xã trưởng, Làng trưởng do dân bầu trực tiếp hoặc gián
tiếp. Malaixia có Hội đồng địa phương nhưng không áp
dụng chế độ bầu cử mà do chính quyền cấp trên bổ
nhiệm. Ở Lào, chính quyền địa phương chỉ có cơ quan
hành chính do cấp trên bổ nhiệm, không có cơ quan
dân cử ở tất cả các cấp. Xingapo do diện tích nhỏ nên
cả nước chia làm 4 khu nhưng không tổ chức chính
quyền địa phương như các nước khác.
Ở nước ta, những năm qua có khá nhiều công trình
nghiên cứu về các nước ASEAN của các ngành khoa học
dưới các khía cạnh và mức độ khác nhau. Nhưng có thể
nói rằng, cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản, có tính

hệ thống Luật Hiến pháp các nước ASEAN nói chung và
thể chế chính trị và tổ chức bộ máy Nhà nước của các
nước ASEAN nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng, đây là
chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách
cơ bản, bao quát và cụ thể về thể chế chính trị và tổ
chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN dưới giác độ và
phương pháp nghiên cứu của Luật hiến pháp nước
ngoài.
Những kết quả nghiên cứu của tập thể tác giả là những
bổ sung quan trọng vào khoa học pháp lý nói chung,
khoa học Luật Hiến pháp nước ngoài ở Việt Nam nói
riêng, góp phần nâng cao nhận thức lý luận về thể chế
chính trị và tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN.
Công trình có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy về Nhà nước và pháp luật nói
chung và nhất là Luật Hiến pháp nước ngoài nói riêng.
Từ kết quả nghiên cứu này, có thể xây dựng môn học
chuyên ngành cho sinh viên luật, môn Luật Hiến pháp
các nước ASEAN, để bổ sung, so sánh đối chiếu với hai
môn học Luật Hiến pháp Việt Nam và Luật Hiến pháp
nước ngoài (các nước phát triển) hiện có trong chương
trình đào tạo cử nhân luật ở nước ta hiện nay

×