Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Luận Văn Chính sách đối ngoại và phương thức tìm kiếm vị thế chính trị mới của Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.69 KB, 83 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ quốc tế vào cuối những năm 1990 của thế kỷ 20 và những
năm 1990 của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 có những diễn biến
bất ngờ. Việc xác lập vị thế chính trị bằng chiến tranh truyền thống đã
không được ưu tiên sử dụng như trước. Các chủ thể tham gia quan hệ
quốc tế trong thời gian này không đơn thuần tìm kiếm vị thế bá chủ thế
giới bằng con đường quân sự mà có sự kết hợp với các sức mạnh khác.
Nhật Bản vốn là một cường quốc quân sự theo ý mình mà phải trong
khuôn khổ pháp lý quốc giá và qte.
Sau chiến tranh, Nhật Bản là nước bại trận, kinh tế bị kiệt quệ, vị
thế chính trị bị suy giảm. Cảm nhận thấm thía được những mất mát, do
chiến tranh mang lại, kể từ sau đại chiến thế giới hai, Nhật Bản đã chọn
con đường phát triển đất nước theo đường lối hoà bình. Nước Nhật cam
kết từbỏ chiến tranh, không duy trì quân đội, mà chỉ duy trì lực lượng
phòng vệ. Theo đường hướng này, những thập kỷ sau Nhật Bản đã vươn
lên trở thành một cường quốc kinh tế, trở thành một trong ba trung tâm -
tài chính lớn nhất thế giới cùng với Mỹ và liên minh châu Âu (EU). Tuy
nhiên Nhật Bản lại không có được vị thế chiến tranh tương xứng với tiềm
lực kinh tế hùng mạnh của mình. Vì vậy, trong thời gian gần đây, Nhật
Bản đã và đang nỗ lực đê trở thành “quốc gia bình thường” như các quốc
gia khác trên thế giới.
Xuất phát từ thực tế đó, với mong muốn tìm hiểu tại sao khi Nhật
Bản đã là một “chàng khổng lồ” về kinh tế mà về phương diện chính trị
lại là “chú lùn”? Và để khắc phục được tình trạng này, Nhật Bản đã và
đang có chiến lược gì? Tại sao Nhật Bản phải tìm kiếm vị thế chính trị
mới? Để tìm kiếm vị thế đó, Nhật Bản đã sử dụng các phương thức nào?
1
Trong bối cảnh quốc tế hoà bình, hợp tác, các quốc gia không ngừng
tập trung phát triển kinh tế. Việc Nhật Bản tìm kiếm vị thế chính trị mới
có tác động như thế nào tới quan hệ quốc tế và đặc biệt tới sự phát triển


của Việt Nam? Đó là những vấn đề lớn đang đặt ra dv các nhà nghiên cứu,
các nhà hoạch định chính trị và những người làm công tác đối ngoại đòi
hỏi cần có sự giải quyết thoả đáng. Trên thực tế đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu, cũng như các chính sách và phương thức Nhật Bản đang áp
dụng như:P Trên báo Sài Gòn Giải phóng số ra ngày 23/11/2000 có đăng
bài “Nhật Bản trở thành uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc” của tác giả Mai Ngọc. Bài báo đã đề cập thời điểm Nhật Bản
thể hiện rõ mong muốn nâng cao vai trò của mình và phương thức hành
động, cũng như thái độ của một số nước và tổ chức trước nỗ lực của Nhật
Bản trong việc trở thành uỷ viên thường vụ của Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc. Hay như trên báo tin tức, trong mục Thếgiới sự kiện vớitiêu đề
“Nhật Bản tìm kiếm vị thế cường quốc trong thế kỷ 21” với ba số liền ra
các ngày 19, 21, 22/1/2002 đã nêu lên khái quát các phương thức Nhật
Bản đã và đang tiến hành để tìm kiếm vị thế cường quốc trong thế kỷ mới.
Đặc biệt sau sự kiện khủng bố tấn công vào nước Mỹ có rất nhiều bài viết,
bài nghiên cứu về chính sách đối ngoại và mục tiêu của Nhật Bản trong
thế kỷ mới. Điển hình là cuốn “Trật tự thế giới sau 11-9” của Nhà xuất
bản Thông tấn, Hà Nội, năm 2002 cũng đã phân tích việc “Nhật Bản tìm
kiếm vị thế cường quốc trong môi trường an ninh quốc tế mới”. Tiếp đến
là Bài viết của TS Ngô Xuân Bình - Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản với
tiêu đề “Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản và tác động tới
quan hệ Việt Nam - Nhật Bản” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và
Đông Bắc Á, số 4, năm 2003. Bài viết đã đề cập tới phạm vi điều chỉnh
của chính sách đối ngoại của Nhật Bản và tác động của nó.
Ngoài ra còn có nhiều bài nghiên cứu khác như: “Xu hướng phát
triển chiến lược ngoại giao Nhật Bản trong thế kỷ mới” của Thông tấn xã
2
Việt Nam, trong tài liệu tham khảo đặc biệt số ra tháng 2/2005. Bài viết
đã phân tích một cách chi tiết bối cảnh, cũng như các hành động cụ thể
của Nhật Bản như: “Vì sao Nhật Bản tăng cường mở rộng trang bị quân

sự?” Tài liệu tham khảo đặc biệt ra ngày 16-9-2005 của Thông tấn xã Việt
Nam. Trong tài liệu tham khảo đặc biệt ra ngày 27/10/2005 của Thông tấn
xã Việt Nam có bài “Nhật Bản với chiến lược “nước bình thường”, nhấn
mạnh đến mục tiêu của Nhật Bản trong thế kỷ mới.
Bên cạnh đó trong Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và và Đông Bắc Á,
số 1 (55) 2-2005 có đăng bài nghiên cứu của TS. Trần Anh Phương dưới
tiêu đề “Tìm hiểu chính sách của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ
2 đến nay. Với phương thức lịch sử, TS. Trần Anh Phương đã thể hiện rõ
chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau đại chiến thế giới hai đến nay. Hay
như bài dịch của Thanh Hà - Học viên Khoa học quân sự đã đặt ra một
vấn đề rằng: “Trong tương lai Nhật Bản có thể trở thành một cường quốc
quân sự - chính trị được không? (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7,
tháng 9/2006. Cũng trong tạp chí này tháng 12/2006 lại có tiếp bài viết
của PGS.TS Nguyễn Duy Dũng về việc “Điều chỉnh chiến lược đối ngoại
của Nhật Bản trong bối cảnh Quốc tế mới. Đặc biệt ngay sau khi trở thành
thủ tướng Nhật Bản, ông Shinto Abe đã có bài phát biểu tại phiên khai
mạc thường niên đã đăng bài phát biểu của ông Abe trong tài liệu tham
khảo đặc biệt ra ngày 3/3/2007 với tiêu đề “Nhật Bản với chính sách
ngoại giao tích cực… và còn rất nhiều bài viết khác như “Nhật Bản trên
con đường trở thành quốc gia bình thường” của tác giả Khổng Thị Bình
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 66… đề cập tới quân đội của
cựu Tổng thống thư ký Liên Hợp Quốc - ông Ozawa về “Nước Nhật bình
thường” là thế nào?…
Có thể nói những bài viết và các công trình trên đá lý giải một cách
khá thuyết phục rõ về việc xây dựng chiến lược phát triển nói chung, cũng
như chính sách đối ngoại nói riêng của Nhật Bản. Đặc biệt các công trình
3
đã chỉ ra phương thức mà Nhật Bản đang tiến hành để đạt được mục tiêu
chiến lược trong thế kỷ mới. Tuy nhiên vẫn chưa có bài viết nào cập nhật
và làm rõ chiến lược điều chỉnh của Nhật Bản nhằm nâng cao vị thế chính

trị trong bối cảnh mới. Đồng thời với mong muốn cố gắng tìm hiểu thực
sự vị trí chính trị của Nhật Bản hiện nay là thế nào… Nên tôi đã lựa chọn
đề tài này, với mong muốn cá nhân tôi có thể góp phần làm rõ hơn cách
thức Nhật Bản tìm kiếm vị thế mới và có thể dự báo vị trí chính trị của
Nhật trong tương lai.
2. Đối ưtợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là chính sách đối ngoại và
phong cách tiến hành tìm kiếm vị thế chính trị mới của Nhật Bản.
Phạm vi và thời gian nghiên cứu của đề tài từ sau khi kết thúc chiến
tranh lạnh đến nay.
3. Nguồn tài liệu
Đề tài này được hoàn thành trên cơ sở tham khảo từ nhiều nguồn tài
liệu khác nhau.
-Sách của một số nhà xuất bản (Nxb) khác nhau như: Nxb Thông
tấn, Nxb Khoa học xã hội, Nxb Thống kê Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội …
-Các tạp chí: Tạp chí nghiên cứu Quốc tế, tạp chí Nghiên cứu Nhật
Bản và Đông Bắc Á, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, tạp chí Kinh tế thế
giới…
-Tài liệu tham khảo đặc biệt
-Tin tham khảo thế giới
-Và một số trang wed điện tử.
4. Cấu trúc khoá luận
4
Khoá luận được cơ cấu làm ba phần chính: mở đầu, nội dung và kết
luận.
Phần mở đầu nêu khái quát về nguyên nhân Nhật Bản tìm kiếm vị
thế chính trị mới, cũng như mục đích đề tài hướng tới, nó là cơ sở để
nghiên cứu. Đồng thời phần mở đầu cũng cho thấy đối tượng phạm vi
nghiên cứu đề tài, cấu trúc khoá luận và nguồn tài liệu làm cơ sở nghiên

cứu.
Phần nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Đề cập khái quát về chl
tìm kiếm vị thế chính trị mới của Nhật Bản trong bối cảnh mới bao gồm
có nguyên nhân tìm kiếm vị thế chính trị mới và chl của ng; chương 2
trình bày phương thức hành động tìm kiếm vị thế chính trị mới của Nhật
Bản được thể hiện qua các phương diện khác nhau; Chương 3 là một số
dự báo về vị thế chính trị của Nhật Bản trong thế kỷ 21, cũng như những
tác động của vị thế ấy khi Nhật Bản đạt được.
Phần kết quận nêu lên những nét khái quát trên con đường Nhật Bản
tìm kiếm vị thế chính trị nới và vận dụng vào quá trình hội nhập của Việt
Nam.
Để khoá luận được hoàn thành không chỉ có riêng bản thân tôi mà
còn nhiều cá nhân và cơ quan khác. Vậy nên, tôi xin chân thành cảm ơn
sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo và ban chủ nhiệm khoa Quốc tế
học, cùng toàn thể các bạn trong và ngoài lớp K48. Đặc biệt tôi xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, nhiệt tâm của thầy - người đã
giúp đỡ tôi trong suốt một hành trình hoàn chỉnh khoá luận này.
5
CHƯƠNG 1: CHIẾN LƯỢC TÌM KIẾM VỊ THẾ CHÍNH TRỊ MỚI
CỦA NHẬT BẢN.
1.1. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU THÚC ĐẨY NHẬT BẢN TÌM
KIẾM VỊ TRÍ CHÍNH TRỊ MỚI.
1.1.1. Nguyên nhân bên ngoài.
Chiến tranh lạnh kết thúc làm cho tính chất của quan hệ quốc tế
thay đổi. Thế giới chưyềnt xu thế đối đầu sang xu thế hợp tác, cạnh tranh
phát triển. Kéo theo đó xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và sâu sắc, đặc biệt là toàn cầu hoá về kinh tế. Toàn cầu
hoá đã tạo cơ hội thuận lợi cho nhiều quốc gia phát triển, như cựu tổng
thư ký Liên Hợp Quốc đã nói: “Các nước nghèo vẫn nghèo không phải bởi
họ có quá nhiều toàn cầu hoá mà bởi vì họ có quá ít toàn cầu hoá” . Là

quốc gia bại trận trong chiến tranh thế giới hai, bị thiệt hại nặng nề,
những được sự giúp đỡ của Mỹ, Nhật Bản đã sớm tham gia toàn cầu hoá
và đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính lớn trên thế giới.
Nhật Bản được mệnh danh là một “chàng khổng lồ” về kinh tế. Không
những vậy, những năm sau đó Nhật Bản không ngừng tập trung vào phát
triển kinh tế, đưa đối ngoại phát triển theo con đường hoà bình… Đây là
cơ hội để Nhật Bản tăng cường vai trò, ảnh hưởng chính trị trên trường
quốc tế. Đặc biệt sau chiến tranh lạnh, kinh tế càng có vai trò quan trọng,
là tiêu chuẩn đánh giá sự thịnh suy của mỗi quốc gia. Với ưu thế vượt trội
ấy, Nhật Bản nỗ lực đóng góp cho cộng đồng quốc tế, tất yêu sẽ đem lại
vị thế chính trị xứng đáng cho Nhật Bản.
Môi trường quốc tế những năm 1990, đã đem lại cho Nhật Bản
không ít những thuận lợi, với ưu thế vượt trộ về kinh tế, Nhật Bản đã
thông qua thực lực kinh tế và sức mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật để
thâm nhập và mở rộng ảnh hưởng của mình. Toàn cầu hoá về kinh tế đã
6
tạo điều kiện thuận lợi cho các nước tăng cường hợp tác với nhau. Vốn là
quốc gia nghèo tài nguyên, nhưng lại có trình độ công nghệ cao, Nhật
Bản đã tận dụng lợi thế đó của mình để tìm kiếm các hình thức hợp tác
điển hình là hợp tác kinh tế. Nhờ những ảnh hưởng về kinh tế mà Nhật
Bản dần mở rộng được quan hệ trên mọi mặt, nhất là về phương diện
chính trị.
Chiến tranh lạnh kết thúc làm cho tương quan lực lượng trên thế
giới thay đổi. Lx tan rã, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới.
Song với sự biến đổi mạnh mẽ của tình hình thế giới. Sự vượt trội của xu
thế hoà bình, hợp tác và toàn cầu hoá, nhiều quốc gia đã vươn lên trở
thành đối thủ cạnh tranh với Mỹ trên nhiều lĩnh vực. Thậm chí việc công
nghệ cao, chẳng hạn như sản xuất rôbót của Nhật Bản đã vượt Mỹ…
Vìthế, khả năng duy trì vai trò lãnh đạo tuyệ đối của Mỹ như trước kia
chắc chắn không dễ dàng. Cùng với đó xu thế đa cực hoá trong nền

chương trình thế giới càng được biểu hiện rõ, là tiền để quan trọng để các
nước, trong đó có Nhật Bản độc lập hơn trong hành động. Nhất là trong
hoạt động đối ngoại và chính trị, Nhật Bản dần dần thoát khỏi ảnh hưởng
của Mỹ, từ đó nâng cao dần sức mạnh chính trị của mình trong các quan
hệ quốc tế.
Mặc dù sau chiến tranh lạnh, xu thế hoà bình hợp tác là chủ yếu,
nguy cơ chiến tranh thế giới nhìn chung bị đẩy lùi. Song ở nhiều nơi trên
thế giới những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo vẫn diễn ra. Đặc biệt, trong
những năm đầu thế kỷ 21, nhân loại đã chứng kiến nhiều sự kiện gây chấn
động lớn, có tác động và ảnh hưởng mạnh tới quan hệ quốc tế. Điển hình
là sự kiện những kẻ khủng bố tấn công vào nước Mỹ 11-9-1001.
Ngày sau đó, một loạt các vụ khủng bố đã diễn ra ở nhiều nơik gây
bất ổn tại hhiều quốc gia và khu vực tiêu biểu là vụ khủng bố ở đảo Bali
(Inđônêsia), vụ thảm sát tại Beslam Caga); vụ khủng bố tấn công vào ga
7
tầu điện ngầm ở Thủ đô London (Anh)… khủng bố đã gây nên những thiẹt
hại nghiêm trong về người và của, đặc biệt ảnh hưởng lớn tới đời sống sh
thường nhật của những thường dân vô tội và gây mất ổn định ở nhiều
nơi… Vì vậy, ngay sau vụ khủng bố 11-9, Mỹ đã phát động một cuộc
chiến chống khủng bố trên quy mô toàn thế giới và đã được nhiều quốc
gia và tổ chức quốc tế, khu vực ủng hộ. Bởi nguy cơ khủng bố đe doạ
không loại trừ quốc gia nào, vì thế, trong cuộc chién này Nhật Bản đã
nhanh chóng ủng hộ Mỹ. Ngay sau khi Mỹ phát động cuộc chiến chống
khủng bố, đến ngày 29/10/2001 quốc gia Nhật Bản đã thông qua đạo luật
đặc biệt chống khủng bố theo đạo luật này Nhật Bản có thể hỗ trợ hậu cần
cho quân Mỹ…
Tuy nhiên, mặc dù ủng hộ Mỹ, song do bị hạn chế trong khuôn khổ
Hiến pháp hoà bình năm 1946, Nhật Bản cam kết từ bỏ chiến tranh, không
duy trì lực lượng quân sự, mà chỉ cho phép đội phòng vệ làm nhiện vụ an
ninh. Do vậy, Nhật Bản không trực tiếp tham chiến và chỉ hỗ trợ về tài

chính, hậu cần, khả năng tác chiến của họ bị hạn chế. Vì vậy việc chưa
được phép đưa quân đội ra nước ngoài là hạn chế mà Nhật Bản đang tìm
cách khắc phục để có vị thế bình thường như các quốc gia khác trong việc
bảo vệ hình ảnh của mình và tham gia các nghĩa vụ quốc tế. Bên cạnh chủ
nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo đang diễn ra khá phổ biến và
ngày càng trầm trọng hơn. Sau một thập kỷ phát triển, nhiều vấn đề toàn
cầu được đặt ra: ô nhiễm môi trường, bệnh tật hiểm nghèo, phổ biến vũ
khí hạt nhân huỷ diệt, khoảng cách phát triển, cạn kiệt tài nguyên… đang
trở thành mối quan tâm của toàn nhân loại. Để giải quyết những vấn đề
này cần có sự hợp tác của nhiều quốc gia, nhất là của các nước phát triển,
trong đó có Nhật Bản. Đây là một điều kiện thuận lợi để Nhật Bản có thể
tham gia sâu rộng hơn vào việc giải quyết các vấn đề quốc tế với tư cách
là một cường quốc kinh tế. Từ đó Nhật Bản phát huy được vai trò chiến
8
tranh của mình qua những đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn
cầu trên.
Hơn nữa với sự ra đời của nhiềutổ chức khu vực và toàn cầu:
ASEM, APEC, ARF, ASEAN + 1, ASEAN + 3, NDB, WTO… Nhật Bản
có cơ hội đểthể hiện vai trò của mình thông qua những đóng góp tài
chính, và các sáng kiến… Đặc biệt, trong những năm đầuthế kỷ 21, lần
đầutiên các nước Đông á đã có một hội nghị chung với tên gọi là Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á, Lần đầu được tổ chức vào tháng 12-2005 tại
Kualalumpua (Malaysia)… nhằm hướng tới sự hợp tác toàn diện như kiểu
liên minh châu âu (EU). Hội nghị này, cùng các thể chế đa phương kể trên
đã tạo cơ hội cho Nhật Bản hoà nhập hơn nữa với khu vực và thông qua
những đóng góp cho thể chế này để phát huy vai trò chính trị của mình.
Sau một loạt các sự kiện diễn ra vào đầu thế kỷ 21, chúng đe doạ tới
an ninh, ổn định và phát triển của toàn thế giới…. Cộng đồng quốc tế
càng nhắc nhiều tới vấn đề cải tổ Liên Hợp Quốc, nhất là cải tổ Hội đồng
Bảo an Nhật Bản được coi là ứng cử viên có khả năng trở thành uỷ viên

thường trực. Bởi vì một trong các nguyên tắc của chương trình cải tổ được
ông Kofi ânnn - Cựu thư ký Liên Hợp Quốc đưa ra năm 1997, nước muốn
trở thành uỷ viên thường trực phải có đong sgóp nhiều cho Liên Hợp
Quốc vềtài chính, quân sự, ngoại giao. Đây là điều kiện thuận lợi đối với
Nhật Bản. Vì Nhật Bản hiện đang là quốc gia có đóng góp lớn thứ hai, sau
Mỹ (25%). Hiện nay Tổng mức đóng góp tài chính của Nhật Bản cho Liên
Hợp Quốc chiếm hơn 20% ngân sách của Liên Hợp Quốc. Mức đóng góp
ấy của nước Nhật lớn hơn cả mức đóng góp tài chính của Anh (5,1%),
Nga (1,1%), Pháp (6,5%)
1
nhận được sự ủng hộ của 4 nước thuộc uỷ viên
thường trực có quyền phủ quyết là anh, Mỹ, Pháp, Nga (trừ Trung Quốc
chưa có thái độ rõ rang). Đây thực sự là một cơ hội thuận lợi để Nhật Bản
nâng cao và khẳng định vị trí chính trị của mình.
1
ASSESjments for the Regular budget Finamced by najor contrisutor (2000) trên trang Web:
/>9
Sau chiến tranh lạnh, quan hệ Nhật - Mỹ có bước chuyển biến mới
phù hợp với sự vận động của quan hệ quốc tế. Vẫn với phương châm đối
ngoại lấy quan hệ với Mỹ làm hòn đá tảng. Song hiện nay, Nhật Bản ngày
càng có bước đi độc lập hơn với Mỹ trong các vấn đề toàn cầu và chủ
động tích cựctham gia các sứ mệnh quốc tế. Trên lĩnh vực chính trị, tuy
có sự ràng buộc bởi hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ được ký kết năm 1951,
nhưng Nhật Bản dần thể hiện được sự độc lập tự chủ trong hành động,
việc Nhật Bản nối lại viện trợ cho Việt Nam vào tháng 11-1992, mặc dù
tới tháng 2- 1994 Mỹ mới tuyên bố huỷ bỏ cấm vận cho Việt Nam là một
ví dụ về sự độc lập trong hành động đối ngoại với Mhx. Mộ sự kiện khác
cũng chứng tỏ ngày càng có bước đi độc lập trong quan hệ với Mỹ. Năm
2002, Nhật Bản đã thể hiện sự độc lập và chủ động trong việc giải quyết
vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, với chuyến thăm Bình Nhưỡng

của Thủ tướng Nhật Bản khi đó là Ko-Zu-Mi, hai nước đã tuyên bố chung
Nhật - Triều (17-9-2002) về việc bình thường hoá quan hệ hai nước. Hành
động này của Nhật Bản khiến Mỹ không hài lòng. Dư luận Mỹ coi đó là
tín hiệu Nhật Bản muốn “độc lập” với Mỹ về đối ngoại và an ninh.
Trên lĩnh vực an ninh: Nhật Bản cho rằng họ là đối tác an ninh
chiến lược không tách rời của Mỹ ở Đông Á. Hai nước nhận thấy rằng,
tỏng bối cảnh quốc tế mới cầnthiết phải cùng phối hợp hành động. Đặc
biệt Mỹ ủng hộ Nhật Bản phát triển hơn nữa lực lượng phòng vệ của
mình, mở rộng khả năng tác chiến để cùng Mỹ chia sẻ trn quốc tế. Trong
thế kỷ 21, những mối đe doạ mới lại xuất hiện như chủ nghĩa khủng bố
quốc tế, phổ biến vũ khí hạt nhân huỷ diệt, xung đột sắc tộc, tôngiáo…
Thêm vào đó là sự trỗi dậy cả về kinh tế và quân sự của Trung Quốc trong
những năm gần đây khiến cả Mỹ và Nhật đều lo ngại… Vì vậy, hai nước
đã có sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn. Trong cuộc họp “2 + 2” giữa
Ngoại trưởng và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ với Ngoại trưởng và Cục
trưởng Cục phòng vệ Nhật Bản diễn ra ngày 23-11-2005, hai nước đã ra
10
thông cáo chung “đồng minh Nhật - Mỹ: vì cải cách và tổ chức lại trong
tương lai”. Thông cáo khẳng định trn cùng chia sẻ phòng vệ và tác chiến
của hai bên khi chiến sự xảy ra… Theo đó Nhật Bản sẽ cùng Mỹ phối hợp
hành động vì lợi ích hai nước và thế giới. Đây là cơ sở pháp lý thuận lợi
để Nhật Bản có thể cùng Mỹ can dự hơn nữa vào công việc an ninh quốc
tế.
Như vậy trong quan hệ với Mỹ, Nhật Bản vừa có bước đi chủ động,
độc lập, đồng thời vừa có hợp tác chặt chẽ với Mỹ trên lĩnh vực an ninh…
Trên con đường tìm kiếm địa vị chính trị mới, nước Nhật đã dành được sự
ủng hộ của Mỹ về việc sửa đổi hiến pháp, nhất là sự ủng hộ và phát triển
lực lượng phòng vệ lên tầm cao mới, để cóthể trở thành quân phòng vệ, để
có thể phối hợp với Mỹ một cách dễ dàng trong trường hợp khẩn cấp.
Không những vậy, Nhật Bản còn dành được sự ủng hộ củ các nước

ASEAN, Ấn Độ, và một số nước Trung Á, Trung Đông và cả ở Châu
Phi… Do những đóng góp và hỗ trợ lớn của Nhật Bản về Mặt tài chính và
hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đem lại. Một sự đóng góp đáng chú ý
gần đây cảu Nhật Bản là việc giải quyết những khủng hoảng hạt nhân trên
bán đảo Triều Tiên. Nhằm tháo gỡ sự bế tắc trong các cuộc đàm phán đa
phương, Nhật Bản đã chủ động tiến hành các cuộc đmà phán song phương
với CHĐCN Triều Tiên về việc bình thường hoá quan hệ Nhật - Triều.
Trong các cuộc đàm phán này, Nhật Bản luôn nêu điều kiện CHĐCN
Triều Tiên phải từ bỏ chương trình phát triển vũ khí hạt nhân và giải
quyết vấn đề các con tin Nhật Bản bị bắt cóc, thì mới bình thường hoá.
Chính áp lực này từ phía Nhật Bản buộc CHĐCN Triều Tiên phải xem xét
lại thái độ của mình. Và việc các bên ngồi lại để thảo luận đưa các cách
giải quyết chung phù hợp với quy tắc quốc tế cho thấy vài trò tích cực của
Nhật Bản trong việc giải quyết các vấn đề khu vực nói chung và cuộc
khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên nói riêng.
11
Như vậy bối cảnh quốc tế và khu vực sau chiến tranh lạnh đã tạo
điều kiện cho Nhật Bản có thể tham gia mở rộng hơn nữa trông việc giải
quyết các vấn đề chung. Qua đó Nhật Bản có thể phát huy được những lợi
thế của mình. Đẩy mạnh việc xác lập vị trí chính trị mới. Nhật Bản sớm
tìm được cho mình tiếng nói trong các quan hệ quốc tế lớn.
1.1.2. Nguyên nhân bên trong.
Mặc dù sau chiến tranh lạnh kinh tế Nhật Bản bước vào thời kỳ suy
thoái, nạn thất nghiệp gia tăng, sự đổ vỡ của nền kinh tế “bong bóng”,
tình trạng thiếu ổn định của đồng Yên… Song Nhật Bản vẫn được coi là
một trong ba trung tâm tài chính lớn của thế giới. Trong những năm đầu
thế kỷ 21, kinh tế Nhật Bản có mức tăng trưởng âm, nếu năm 2001 GDP
của Nhật Bản là (-2,4%), năm 2002 có tăng nhưng vẫn ở chỉ số âm (-
0,8%)…Nhưng dưới sự dẫn dắt cảu Thủ tướng Lozumi, với các chính sách
mới về cải cách cơ cấu kinh tế - tài chính, cải cách hành chính và cải cách

cơ cấu xã hội… Điển hình là cải cách ngành Bưu chính - Viễn thông, kinh
tế Nhật Bản đã có bước phục hồi. Điều đó chứng tỏ sức mạnh kinh tế lớn
của Nhật Bản. Sự thịnh vượng và ổn định của Nhật Bản không bị đe doạ,
mà trái lại đang dần được hồi sinh và phát triển. Để cải cách kinh tế là
việc làm cần thiết để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng suy thoái. Qua
đó, Nhật Bản có thể giữ vững vị trí cường quốc kinh tế, tiếp tục có đóng
góp hơn nữa vào các công việc quốc tế, dần khẳng định được địa vị chính
trị của mình.
Từ sau chiến tranh lạnh đến những năm đầu thế kỷ 21, Nhật Bản đã
trở thành nước cung cấp ODA lớn nhất thế giới. Năm 1998 tổng kim
ngạch viện trợ ODA đã thực thi của Nhật Bản là 10,68 tỷ USD, đứng đầu
thế giới 8 năm liền [ 64, tr.6]. Với sức mạnh kinh tế, Nhật Bản ngày càng
có nhiều đóng góp cho cộng đồng quốc tế. Như cựu thủ tướng Keiifu đã
khẳng định Nhật Bản “dùng các nguồn kỹ thuật, công nghệ, kinh tế và vốn
12
kinh nghiệm của nước mình làm cơ sở đóng góp một vai trò tích cực trong
các cố gắng quốc tế nhằm tạo nên một trật tự mới [ 7, tr.30] như vậy, kinh
tế là cơ sở vật chất vững chắc để Nhật Bản tăng cường ảnh hưởng, mở
rộng phạm vi hoạt động quốc tế.
Bên cạnh tiến trình kinh tế, kỹ thuật, trong việc tìm kiếm vị thế
chính trị mới Nhật Bản còn có cơ sở tinh thần, xã hội. Đó chính là sự thay
đổi trong nhận thức của người dân vàgiới lãnh đạo Nhật Bản.
Dư luận dân chúng ủng hộ việc Nhật Bản phải có địa vị chiến tranh
tương xứng với tiềm lực kinh tế. Trước thế kỷ mới, với nhiều biến đổi của
tình hình thế giới tác động nhiều chiều tới quốc gia “mặt trời mọc”. Dân
chúng Nhật Bản cho rằng: nước Nhật cần tham gia nhiều hơn vào các
công việc quốc tế. “Họ (Nhật Bản) không chỉ đóng góp về mặt tài chính
rồi nói đã làm được nhiều việc cho hào bình thế giới [1, tr31]. Theo điều
tra số người ủng hộ Nhật Bản tham gia vào các công việc quốc tế ngày
càng nhiều. Để tham gia đóng góp hơn nữa cho hoà bình thế giới thì việc

làm quan trọng hàng đầu của Nhật Bản là sửa đổi hiến pháp. Nếu trước
đây vấn đề này đều bị phản đối mạnh mẽ, nay dư luận có thiên hướng ủng
hộ nhiều hơn. Ví dụ việc tán thành dự luật mới cho phép lực lượng phòng
vệ của Nhật Bản tăng cường sức mạnh, tham gia nhiều hơn nữ trong việc
đảm bảo an ninh quốc tế và khu vực, theo điều tra của báo Yoniuri thực
hiện năm 2002 cho thấy: có tới 48% dân Nhật ủng hộ Dự luật này, vf chỉ
có 21% phản đối
2
.
Không những dư luận dân chúng Nhật Bản có sự thay đổi, mà ngay
trong gới lãnh đạo cũng có tham vọng nâng cao khả năng chương trình
của đất nước mình. Đa số các nhà lãnh đạo Nhật Bản hiện nay là những
người sinh ra chiến tranh, hoặc ít có dính líu tới chiến tranh. Thêm nữa họ
lại có tình thần dân tộc chủ nghĩa. Một nhân vật tiêu biểu là ông Ichiro
Ozawa, từng là Bộ trưởng phụ trách các vấn đề trong nước dưới thời Thủ
2
Nhật Bản sau sự kiện 11-9 ở Mỹ trên trang web />13
tướng Nakasone (1985), đồng thời là tổng thư ký đảng Dân chủ tự do -
LDP (1989). Với tác phẩm “Đường hướng về một nước Nhật Bản mới”
ông đã kêu gọi Nhật Bản thức tỉnh trước những thay đổi của thế giới, tiến
hành cải tôt chính trị, pháp lý quân sự, tiến tới trở thành “quốc gia bình
thường”. Để trở thành quốc gia bình thường theo ông Ozawa, Nhật Bản
phải ở thế chủ động, nghĩa là tham gia tích cực hơn vào các công việc
quốc tế. Nhật Bản không chỉ dừng lại ở việc viện trợ kinh tế, mà còn phải
đóng góp đảm bảo an ninh của thế giới.
Đồng thời để tăng cường tham gia các công việc quốc tế thì Nhật
Bản cần phải sửa đổi Hiến pháp. Mong muốn này thực sự được bắt đầu
triển khai dưới nhiệm kỳ của thủ tướng Kozumi. Nội các Lozumi đã đưa
ra các dự luật sửa đổi Hiến pháp, thắt chặt liên minh mới Mỹ, và xây dựng
lực lượng phòng vệ mạnh. Sự nghiệp này lại được người kế nhiệm ông -

tân Thủ tướng Shinzo Abe tiếp tục thực hiện, khi ông Abe lên cầm quyền
vào năm 2006. Ông Abe đã tuyên bố một trong những vấn đề trọng tâm
của ông là xem xét lại bản Hiến pháp. Ông nói rằng: “Điều 9 cần được
xem xét lại trên quan điểm bảo vệ Nhật Bản và nhằm đáp ứng sự mong
đợi của cộng đồng quốc tế muốn Nhật Bản - nền kinh tế lớn thứ hai trên
thế giới, có nhứng đóng góp lớn hơn cho an ninh quốc tế [ 31, tr.6]. Tất cả
những quan điểm trên cho thấy các nhà lãnh đạo Nhật Bản có tham vọng
đưa nước mình trở thành quốc gia có ảnh hưởng lớn trong các vấn đề toàn
cầu.
Mặt khác, sau nhiều lần phản đối, đến nay Đảng Dân chủ Nhật Bản
(DPJ), một đảng đối lập cũng tán thành việc sửa đổi Hiến pháp, làm cho
tiến trình trở thành “quốc gia bình thường” của Nhật Bản được thuận lợi
hơn. Vấn đề sửa đổi Hiến pháp tăng cường sức mạnh hoạt động của lực
lượng phòng vệ Nhật Bản được coi trọng hơn. Như vậy, trở lực trên con
đường tìm kiếm vị thế chính trị mới trong thế kỷ 21 của Nhật Bản đã giảm
đi phần nào.
14
Mặc dù còn có một số khó khăn, song sau chiến tranh lạnh tình hình
thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi cho Nhật Bản. Để phát huy được
những thuận lợi, tăng cường sức mạnh nội lực, tích cực đóng góp cho
cộng đồng quốc tế đòi hỏi Nhật Bản phải có những chiến lược và phương
thức hành động phù hợp. Nó là vấn đề quan trọng để nước Nhật có thể
tăng cường hơn nữa hình ảnh của mình trong lòng cộng đồng quốc tế và
làm cho tiếng nói của Nhật ngày càng có trọng lượng lớn hơn trong việc
giải quyết các vấn đề chung.
1.2. CHIẾN LƯỢC TÌM KIẾM VỊ THẾ CHÍNH TRỊ MỚI CỦA
NHẬT BẢN.
Tài liệu tham khảo đặc biệt ra ngày 08-12-2005 của Thông tấn xã
Việt Nam, có đăng bài “Xung quanh kế haọch cơ cấu lại chiến lược của
Nhật Bản”, trong đó có đoạn viết: “Với mục đích, động lực và chủ nghĩa

tượng trưng không thể sai lầm, các nhà lập chính sách của Nhật Bản đã
bắt tay vào những biện pháp chủ chốt mới trong tiến trình đánh giá lại
chiến lược của mình. Những biện pháp chắc chắn đang đưa Nhật Bản nổi
lên như một cường quốc bình thường”. Tương tự như vậy, nhà chính trị
gia Ozawa đã xác định: Nhật Bản đã trở thành nước lớn kinh tế, vì vậy
cần trở thành nước quốc tế với tiền đề trước tiên phải trở thành “nước
bình thường”. Như vạy, theo hai quan điểm này có thể nhận thấy, chiến
lược quốc gia của đưa đất nước phát triển thành “nước bình thường” như
các quốc gia độc lập khác. Vậy thế nào là “nước bình thường”. Theo hình
dung cua Ozawa, nước Nhật “bình thường” phải là quốc gia có tinh thần
tự chủ, độc lập hơn trong chính sách an ninh đối ngoại. Mà biểu hiện cụ
thể chính là sự tham gia tích cực hơn của Nhật Bản trong các công việc
quốc tế, không chỉ dừng lại ở viện trợ kinh tế, ngành còn đóng góp cho an
ninh thế giới , độc lập trong hành động.
15
Nhưng tại sao chiến lược của Nhật Bản lại là “nước bình thường”?
vì nước Nhật sau chiến tranh thế giới thứ hai với thất bại nặng nề, họ đã
lựa chọn cho mình phát triển đối ngoại theo con đường hoà bình. Nhật
Bản đã cam kết từ bỏ chiến tranh, không duy trì hải, lực, không quân…
mà việc đảm bảo an ninh quốc gia Nhật Bản do quân đội Mỹ đảm nhiệm.
Không những vậy, cam kết này còn được ghi trong Hiến pháp ra đời năm
1946 và cho tới nay nó vẫn nguyên giá trị.
Ngày nay, với cục diện thế giới thay đổi, thì những ràng buộc trên
đã cản trở con đường trở thanh nước lớn chính trị của của Nhật Bản. Vì
vậy, Nhật Bản muốn thay đổi nó cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt,
khi vị thế kinh tế Nhật Bản được khẳng định, Nhật Bản tất yếu có nhu cầu
bảo vệ mình hơn và tăng cường sức mạnh chính trị của mình hơn nữa. Vì
vậy sửa đổi Hiến pháp, Nhật Bản muốn triển khai quân khi cần thiết để
bảo vệ mình và đóng góp cho cộng đồng quốc tế.
Như vậy, mục tiêu chung nhất của đối ngoại “Mặt trời mọc” này là

trở thành “nước bình thường”. Là một chủ thể độc lập trong quan hệ quốc
tế. Nhật Bản cũng mong muốn có quyền được hành động bình thường như
các chủ thể khác. Mặt khác với vai trò là nước lớn kinh tế, Nhật Bản tất
yếu mong muốn một vị thế chiến tranh xứng đáng. Một khi Nhật Bản đạt
được mong muốn là “quốc gia bình thường” thì vị thế chiến tranh mới của
Nhật Bản trong thế kỷ tới sẽ được định hình rõ hơn.
Tuy nhiên nói đến chất lượng quốc gia ngoài mục tiêu chiến lược,
còn có các biện pháp chiến lược. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược,
Nhật Bản sẽ có những biện pháp chiến lược nào? Hiện nay Nhật Bản đã
và đang tiến hành nhiều biện pháp để đưa đối ngoại thành một “quốc gia
bình thường” hay “nước lớn quân sựnb đã thực hiện chính sách ngoại giao
tích cực: tăng cường quan hệ với các nước trên thế giới. Hiện nay, Nhật
Bản đã thực hiện chính sách quay trở lại châu Á, cải thiện quan hệ với các
16
nước láng giềng. Thực hiện ngoại giao tích cực nhằm đóng góp thực sự
cho hoà bình ở châu Á và thế giới. Cốt lõi của ngoại giao Nhật Bản là
“Liên minh Nhật - Mỹ vì thế giới và châu Á” [32, tr.2].
Để đạt được mục đích trở thành “quốc gia bình thường”, mục tiêu
trước mắt của Nhật Bản là trở thành Uỷ viên thường trực của Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc, và phải độc lập về chính trị, đối ngoại. Đây thực
sự là chiến lược đầy tham vọng của Nhật Bản. Và để cải thiện được vị thế
chính trị hiện thời, biến mục đích chiến lược ấy thành hiện thực, Nhật Bản
sẽ có nhiều phương thức hành động.
17
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG THỨC HÀNH ĐỘNG NHẰM TÌM KIẾM VỊ
THẾ CHÍNH TRỊ MỚI CỦA NHẬT BẢN.
2.1. NÂNG CAO SỨC MẠNH KINH TẾ, QUÂN SỰ, VĂN HOÁ
NGOẠI GIAO.
2.1.1. Tăng cường sức mạnh kinh tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với những điều kiện thuận lợi, cùng

việc thực hiện chính sách từ bỏ chiến tranh, đưa đối ngoại phát triển theo
con đường hoà bình, kinh tế Nhật Bản đã phát triển vượt bậc. Đặc biệt là
trong hai thập kỷ 1970 và 1980, là thời kỳ kinh tế Nhật Bản “cất cánh”
mạnh mẽ trở thành hiện tượng “thần kỳ” của nền kinh tế thế giới với mức
tăng trưởng GDP đạt 10,8%, [9, tr.296]. Nhật Bản được xếp vào hàng thứ
hai nước lớn về kinh tế. Kinh tế lớn mạnh đương nhiên thúc đẩy Nhật Bản
tìm kiếm vị thế chiến tranh, thực hiện mục tiêu trở thành “quốc gia bình
thường”. Tuy nhiên bước vào thập kỷ 1990, kinh tế Nhật Bản rơi vào tình
trạng đình trệ tới hơn 10 năm, mà lịch sử gọi là “10 năm mất trắng”. Cùng
với sự tồn tại những vấn đề mang tính lịch sử giữa Nhật Bản với các quốc
gia châu Á chưa được giải quyết thoả đáng. Nên nỗ lực trở thành “nước
lớn chính trị” của Nhật Bản vẫn chưa thành hiện thực.
Bước sang thế kỷ 21, Nhật Bản vẫn theo đuổi mục tiêu trở thành
“nước lớn chính trị”. Để tìm kiếm vị thế chính trị mới, phương thức đầu
tiên Nhật Bản tiến hành là phải chấn hưng kinh tế. Trong những năm 1990
nền kinh tế bong bóng của Nhật Bản đổ vỡ và đình trệ. Đầu tư tư nhân
giảm sút, nợ xấu khó đòi cao năm 1998, khoản nợ xấu lên tới 10% GDP
3
,
tác động tới tăng trưởng kinh tế. GDP của Nhật Bản năm 1990 là dương
3%, đến những năm cuối thập kỷ giảm xuống tới mức âm 2%. GDP năm
1997 là -0,7%, năm 1998 là - 1,8%[ 53, tr.44]. Tỷ lệ thất nghiệp khá cao,
3,4
Ngoai thương số 25, ng y 1-10/9/2005, tr30.à
18
nhất là ở giới trẻ, năm 1991 là 2,1%
4
. Cho đến năm 1999 kinh tế Nhật Bản
có bước phục hồi. Song, sự phục nồi này của nền kinh tế kéo dài không
lâu. Đến tháng 10-2000, nền kinh tế Nhật Bản chấm dứt sự phục hồi. Đây

đưcợ coi là giai đoạn phục hồi ngắn nhất trong lịch sử kinh tế Nhật Bản
(kéo dài từ tháng 4/1990 đến tháng 10/2000). Sau đó, kinh tế Nhật Bản lại
bước vào giai đoạn khó khăn, ảm đạm.
Trước thực trạng trên của nền kinh tế, vấn đề đặt ra dv Nhật Bản là
phải cải cách lại cơ cấu kinh tế. Với thể chế và cơ cấu kinh tế theo mô
hình “đuổi và vượt” được hình thành từ sau chiến tranh thế giới mô hình
này còn kìm hãm sự phát triển kinh tế của Nhật Bản trong thế kỷ 21. Vì
thế ngay sau khi lên cầm quyền, Thủ tướng Kozumi đã nhấn mạnh tới cải
cách kinh tế. Với khẩu hiêj “không có tăng trưởng, nếu không có cải
cách”, chính quyền Kozumi đã tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế toàn diện
và sâu rộng nhằm tạo ra những thay đổi cơ bản cho nền kinh tế. Thủ
tướng Kozumi đã tiến hành cải cách hệ thống thuế, cải cách dv ngành sản
xuất nông nghiệp,… Đáng chú ý nhất trong một loạt các cải cách của ông
Kozumi là việc cải cách ngành bưu chính. Cải cách này được coi là khâu
then chốt, một đòn bẩy để mở đường cho nền kinh tế Nhật Bản đi lên.
Ngành Bưu chính ở Nhật Bản có một đặc điểm đặc biệt, đây là nơi
thực hiện các dịch vụ bưu chính, đồng thời còn kiêm cả dịch vụ ngân hàng
tiếp nhận tiền gửi và thực hiện dịch vụ bảo hiểm của dân chúng. Ngành
này có số nhân viên làm việc tới hơn 100.000 người và có doanh thu tới
3000 tỉ USD mỗi năm
5
không những thế, đây là ngành mà từ lâu đã thuộc
độc quyền kinh doanh của Nhà nước. Vì vậy, tình trạng trì trệ của ngành
này là khó tránh khỏi. Nên ông Kozumi đã tiến hành cải tổ ngành bưu
chính theo hướng tư nhân hoá. Mặc dù, ban đầu gặp phải sự phản đối từ
4
5
Thông tấn xã Việt Nam (2005), “Xu hướng phát triển của Nhật Bản sau bầu cử, t i lià ệu tham
khảo đặc biệt, ng y 19-9-2005, tr.12.à
19

nhiều phía, song cuộc cải cách thành công đã mang lại hiệu quả tích cực
cho nền kinh tế.
Với những cải cách đúng hướng, ông Kozumi đã đem lại sinh lực
mới cho nền kinh tế Nhật Bản. Tính đến tháng 7-2005 tỷ lệ thất nghiệp
của Nhật Bản giảm xuống còn 4,2% đây là mức thấp nhất trong vòng 7
năm qua.
Trước đó, phải kể đến việc cải cách hệ thống tiền tệ dưới thời thủ
tướng Hashimoto. Như chúng ta đã biết, lưu thông tiền tệ ở Nhật Bản theo
lối gián tiếp. Nghĩa là các ngân hàng nhận tiền gửi từ các cá nhân, rồi từ
đó cho các xí nghiệp vay… chính phủ khuyến khích các cá nhân gửi tiền
vào các ngân hàng với lãi suất khá hấp dẫn. Trong thời kỳ sau chiến tranh
thế giới hai mô hình này rất có hiệu quả. Vì nó đem lại nguồn vốn cần
thiết để phát triển kinh tế. Tuy nhiên từ cuối thập kỷ 1980, với việc sử
dụng khoản tiền dư thừa ở ngân hàng để đầu tư vào ngành nhà đất, trong
khi trình độ và kỹ năng quản lý ngành này còn thiếu đã gây nên sự tăng
trưởng không bền vững cho nền kinh tế. Vì vậy cải cách tài chính - tiền tệ
được coi là quan trọng và cần thiết.
Tháng 11 năm 1996, nội các Hashimoto đưa ra kế hoạch “Đại bùng
nổ tiền tệ” thông qua các biện pháp nới lỏng quản lý. Đồng thời Nhật Bản
đã tiến hành tổ chức lại hệ thống tiền tệ. Nhưng do cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu Á vào cuối thập kỷ 1990, khiến cho nỗ lực cải cách của
Nhật Bản gặp nhiều khó khăn.
Hơn nữa, cũng vào thời điểm đó, các xí nghiệp ở Nhật Bản rơi vào
tình trạng sản xuất thừa, trong khi nhu cầu tiêu dùng xã hội giảm. Vì vậy,
một trong các biện pháp để nâng cao sức mạnh kinh tế, Nhật Bản phải cải
cách các xí nghiệp. Việc cải cách các xí nghiệp được thực hiện theo
hướng điều chỉnh cơ cấu và nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành.
Các nhà hoạch định chl kinh tế của Nhật Bản đã chỉ ra rằng một trong
20
những nguyên nhân làm cho kinh tế Nhật Bản đình trệ trong thập niên

1990 là sự yếu kém trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mà quan trọng
nhất là kỹ thuật tin học, không theo kịp tốc độ phát triển của thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ thuật tin học, Nhật Bản đã
chủ trương tạo điều kiện thúc đẩy phát triển ngành này và các ngành liên
quan để đưa kinh tế phát triển và vượt được qua thời kỳ suy thoái. Trong
diễn văn nhậm chức của cựu Thủ tướng Nori (2000) đã coi kỹ thuật tin
học là trụ cột quan trọng nhất để đưa đối ngoại hồi sinh. Đồng thời nội
các Nhật Bản còn thông qua “Luật cơ bản thúc đẩy hình thành xã hội tin
học - Thông tin “cao tốc”, và thành lập “Uỷ ban chiến lược thúc đẩy hình
thành xã hội thông tin cao tốc để phát triển ngành tin học.
Để khắc phục tình trạng yếu kém về kinh tế, việc dậy nền kinh tế,
ngay khi trở thành Thủ tướng, ông Kozumi đã đưa ra chính sách đối nội,
trong đó ông chủ trương dành ưu tiên số một cho việc phục hồi kinh tế.
Trước tiên là thực hiện tiếp các đối sách kinh tế mà cựu Thủ tướng Nori
đưa ra.
Với mục tiêu, lấy sức mạnh kinh tế để khôi phục địa vị chính trị, nội
các Kozumi đã đưa ra ba cuộc cải cách: một là cải cách cơ câus kinh tế tài
chính. Trong đó ông chú trọng tới việc loại bỏ các khoản nợ xấu, khó đòi;
Thứ hai là xây dựng hệ thống kinh tế có sức cạnh tranh trong thế kỷ 21.
Để thực hiện chủ trương này, Nhật Bản sẽ xúc tiến tạo ra các ngành công
nghệ mới, tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động; Ba là tiếp tục
chính sách coi phát triển tin học là trụ cột trong sự vực dậy nền kinh tế do
cựu Thủ tướng Mori đưa ra như đã trình bày ở trên, Nhật Bản đặt mục
tiêu trong 5 năm đưa nước này thành nước hàng đầu về công nghệ thông
tin. Hiện nay, Nhật Bản là nước đứng đầu thế giới về mạng internet không
dây.
21
Để giải quyết tình trạng thất nghiệp, Nhật Bản đã ban hành luật thuê
công nhân mới, có nhiều điểm thay đổi so với trước kia. Nước Nhật thời
xưa được biết đến như là quốc gia của “việc làm suốt đời”. Bên cạnh

những ưu điểm, tạo lòng trung thành, hình thành xã hội tương đối bình
đẳng, nó cũng tạo ra sự thiếu năng động, chi phí doanh nghiệp lớn ảnh
hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vậy kể từ năm 2003, luật
pháp Nhật Bản đã cho phép thực hiện các hợp đồng tạm thời, theo đó các
doanh nghiệp được quyền thuê lao động theo giờ. Biện pháp này đã tăng
khoản lợi nhuận cho các công ty, trong khi chi phí cho lao động giảm bớt.
Nếu năm 1998, khoản tiền mà các doanh nghiệp trả lương cho công nhân
chiếm khoảng 73% thu nhập cùa doanh nghiệp, thì đến năm 2004 khoản
tiền này giảm xuống còn 64 % thu nhập của doanh nghiệp. Đồng thời, với
luật mới này giúp cho thanh toán các khoản nợ với ngân hàng. Nếu năm
2001, khoản nợ của các doanh nghiệp với ngân hàng lên tới 43000 tỉ, thì
đến nay các khoản nợ ấy giảm xuống còn 20000 tỉ Yên (năm 2004 là năm
23000 tỷ Yên) [ 27, tr.17]. Chính biện pháp cải cách này là một điểm sáng
thúc đẩy kinh tế Nhật Bản vững bước.
Bằng những biện pháp cải cách kịp thời, những năm đầu thế kỷ 21,
thế giới lại chứng kiến sự vực dậy của kinh tế Nhật Bản. Thời điểm đánh
dấu kinh tế Nhật Bản tiếp tục cất cánh là vào năm 2004, tới mức tăng
trưởng GDP là 2,7%, năm 2005 đạt 2,6%, với tổng sp GDP đạt 4,9 nghìn
tỉ USD; tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn hơn 4%. Trong hoạt động ngoại
thương Nhật Bản đã đạt thặng dư Thương mại năm 2004 cao nhát trong 5
năm qua. Trong đó kim ngạch xuất khẩu năm 2004 là 61.180 tỷ Yên, kim
ngạch nhập khẩu đạt 49.170 tỷ Yên. Thặng dư thương mại năm 2004 là
11.010 tỷ Yên
6
. Thặng dư thương mại của Nhật Bản với các đối tác
thương mại lớn năm 2004 là: trong hoạt động ngoại thương với liên minh
châu Âu (EU) đạt 344,9 tỉ Yên; với Mỹ là 663,8 tỉ Yên. Hiện nay Nhật
Bản là nước có mức dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới với 826,6 tỉ USD.
6
/>

E1%BA%BF=Nh%E%BA% ADT-B%E1%BA%A3n.
22
Ngoài ra, Nhật Bản còn phấn đấu nâng mức tự túc lương thực từ 40% hiện
nya lên mức 45% tỏng những năm tới
7
.
Đặc biệt trong những năm gần đây, nhận thấy vai trò quan trọng của
các hiệp định thương mại tự do song phương (FTA), Nhật Bản đã chú
trọng mở rộng FTA với nhiều nước. Hiệp định FTA đầu tiên mà Nhật Bản
ký kết là hiệp định giữa Nhật Bản và Singapore vì một đối tác kinh tế
trong thời đại mới, gọi tắt là Hiệp định đối tác kinh tế Nhật Bản và
Singapore (JSEPA). Đây là hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện, nó không
chỉ phá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, mà còn là sự hợp tác kinh
tế và công nghệ, tự do hoá đầu tư trực tiếp nước ngoài… Tiếp sau FTA
với Singapỏe, Nhật Bản xem xét mở rộng FTA với nhiều qgi khác ở Đông
Á, Mỹ La tinh… Nhật Bản rất coi trọng FTA với Đông Á, mặc dù vai trò
kinh tế của Nhật Bản đối với khu vực này không còn lớn như trước. Song
Nhật Bản vẫn tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi để phát huy vai trò chủ đạo
trong hợp tác phát triển kinh tế trong nước và khu vực. Vì sự tăng trưởng
ở Đông Á sẽ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, cũng như
sự ổn định chính trị, xã hội Đông Á. Hiện nay, tân Thủ tướng Bhinzo Abe
đã tiến hành nhiều biện pháp cải cách, tiếp tục đường lối của người tiên
nhiệm nhằm đưa kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ cao và ổn định
trong nền kinh tế thế giới.
Nhật Bản đang tích cực tham gia xây dựng trật tự kinh tế quốc tế
mới. Phát huy vai trò quan trọng của mình trong các tổ chức quốc tế và
khu vực như trong WTO, IMF, Hội nghị các nước công nghiệp phát triển
(G7), ADB… Nhật Bản không ngừng gia tăng ảnh hưởng với vai trò nước
lớn về kinh tế. Nhật Bản tăng cường thúc đẩy hơn nữa tỉ lệ sử dụng đồng
Yên trên thế giới. Như việc 10 nước ASEAN đã gắn dự trữ ngoại tệ của

họ với Nhật Bản, như một phần của khuôn khổ trao đổi tiền tệ theo sáng
kiến Chiềng Mai (5/2000).
7
Tạp chí Kinh tế thg, số 59, ng y 24/3/2005, Tr.14à
23
Một công cụ quan trọng trong việc phát huy ảnh hưởng chính trị của
mình, Nhật Bản đã sử dụng chính sách viện trợ phát triển chính thức
(ODA). Hiện nay Nhật Bản là nước cung cấp ODA lớn nhất thế giới, 8
năm liền đứng đầu thế giới. ODA là biện pháp quan trọng để Nhật Bản
đóng góp cho cộng đồng quốc tế. Vì trong các khoản ODA có khoản viện
trợ không hoàn lại, nhằm giúp các nước tái thiết đối ngoại, vượt qua được
những khó khăn. Hiện nay, Nhật Bản dùng viện trợ kinh tế phục vụ mục
đích đối ngoại. Thông qua chính sách này, hình ảnh nước Nhật được tăng
cường hơn, là công cụ gây ảnh hưởng đối với thế giới và nâng cao vai trò
của Nhật Bản trong các quan hệ quốc tế.
Trong thế kỷ mới, Nhật Bản đang tiến hành nhiều biện pháp cải
cách để vực dậy nền kinh tế tỏng nước vượt qua được thời kỳ suy thoái.
Hiện nay, những biện pháp tăng cường sức mạnh kinh tế của Nhật Bản
đang mang lại hiệu quả tích cực. Vị thế kinh tế hàng đầu của Nhật Bản
tiếp tục được giữ vững. Đây là cách thức quan trọng thúc đẩy Nhật Bản có
thể thực hiện mục tiêu nâng cao vị thế chính trị trong khu vực và trên
trường quốc tế.
2.1.2. Nhật Bản tăng cường sức mạnh quân sự, sửa đổi Hiến
pháp, thoát khỏi sự ràng buộc sau chiến tranh.
Năm 1954, lực lượng phòng vệ Nhật Bản được thành lập. Kể từ đó
đến nay đội phòng vệ ấy được tiến hành hiện đại hoá đảm bảo tác chiến
trong điều kiện chiến tranh hiện đại. Tuy nhiên do “Hiến pháp hoà bình”
năm 1946 của Nhật Bản, trong khoản 2 điều 9 quy định: “1- Khao khát
hào bình thế giới dựa trên trật tự và công bằng người Nhật Bản sẽ mãi mãi
từ bỏ chiến tranh như một quyền tối cao của quốc gia và từ bỏ việc sử

dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực làm phương tiện đẻ giải quyết các
tranh chấp quốc tế; 2 - Để đạt được mục đích ở khoản 1 thì việc duy trì
các lực lượng lục quân, hải quân, không quqqn cũng như các tiềm năng
24
chiến tranh khác sẽ không được phép. Quyền tham chiến của giải quyết
không được thừa nhận”. Với quy định này của Hiến pháp không chỉ ngăn
cản Nhật Bản sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế mà còn
ngăn cấm Nhật Bản duy trì lực lượng quân sự hải, lục, không quân.
Sự ràng buộc trên của Hiến pháp có ảnh hưởng tới sự phát triển của
nước Nhật. Ảnh hưởng tích cực của điều 9 Hiến pháp, Nhật Bản không
phải tập trung vào phát triển quân sự, chi phí quốc phòng giảm. Nhờ đó
Nhật Bản có điều kiện tập trung phát triển kinh tế. Chính đây là cơ hội
đưa Nhật Bản từ nước bị kiệt quệ sau chiến tranh, trở thành quốc gia hùng
mạnh về kinh tế, với tốc độ tăng trưởng “thần kỳ”. Tuy nhiên bên cạnh
đó, điều 9 này cũng có những ảnh hưởng tiêu cực, là một trở lực, cản trở
Nhật Bản trở thành một “quốc gia bình thường” và làm cho Nhật Bản
thiếu tính độc lập trong hành động. Đó cũng là lý do vì sao Nhật Bản
muốn sửa đổi Hiến pháp để trở thành “một nước lớn bình thường”. Đồng
thời, tạo cơ sở pháp lý cho việc Nhật Bản trong việc thành lập quân đội,
độc lập, chủ động trong vấn đề đảm bảo an ninh quốc gia và đóng góp
cho các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới có thay đổi lớn,
đồng thời sức mạnh kinh tế của Nhật Bản được tăng cường, ý thức trở
thành “nước lớn chính trị” và cường quốc quân sự cũng theo đó tăng lên.
Sự kiện khủng bố xảy ra ở Mỹ đã trực tiếp trở thành mối đe doạ đối với
an ninh của Nhật Bản. Mỹ - nhà bảo trợ an ninh của Nhật Bản đã bị tấn
công, khiến cho ý thức phát triển hơn nữa lực lượng quân sự của Nhật
Bản. Đây cũng là một trong những lý do khiến các nhà lãnh đạo Nhật Bản
xem xét lại sức mạnh phòng vệ của mình, và cũng là lý do để Nhật Bản có
thêm cơ sở để tiến hành sửa đổi Hiến pháp, trước tiên là sửa đổi điều 9.

Như vậy trên con đường tìm kiếm vị thế chính trị mới, việc đầu tiên
Nhật Bản phải làm là sửa đổi Hiến pháp. Vấn đề sửa đổi Hiến pháp ngày
25

×